Đường trung bình động trong phân tích kỹ thuật năm 2024

Trung bình di động (Moving Average – MA) là một trong những chỉ số kỹ thuật đa năng nhất và được sử dụng nhiều nhất. Do cách mà chỉ số được xây dựng nên cũng như do chỉ số này có thể dễ dàng định lượng và thực hiện, chỉ số này được xem là nền tảng của nhiều hệ thống xác định xu hướng sử dụng ngày nay.

Phân tích đồ thị là một vấn đề lớn và rất khó thực hiện. Như là một kết quả, phân tích đồ thị không tự thích ứng tốt với hệ thống hóa máy tính. Ngược lại, các quy tắc của MA có thể dễ dàng được lập trình vào máy tính để tạo ra các tín hiệu mua bán cụ thể. Nhiều phương pháp phân tích kỹ thuật còn đang tranh cãi thì những tín hiệu MA là rõ ràng và ít tranh cãi nhất.

Cách thông dụng nhất để tính MA là từ giá đóng cửa của 10 ngày gần nhất. Mỗi ngày có thêm một mức giá đóng cửa mới được cộng vào và giá đóng cửa của ngày thứ 11 bị loại ra. Sau đó, tổng giá trị mới này sẽ được chia cho số ngày (trong ví dụ này là 10 ngày).

Có 7 loại MA phổ biến :

  • MA đơn giản (SMA – Simple Moving Average)
  • MA hàm số mũ (EMA – Exponential Moving Average)
  • MA chuỗi thời gian (TSMA – Time Series Moving Average)
  • MA tam giác (TMA – Triangular Moving Average)
  • MA biến thiên (VMA – Variable Moving Average)
  • MA điều chỉnh khối lượng (AMA – Volume adjusted Moving Average)
  • MA tỷ trọng (WMA – Weighted Moving Average)

Ngày nay rất nhiều chỉ báo MA được phát triển và cải tiến liên tục. Sự khác biệt quan trọng và duy nhất giữa các loại MA là tỷ trọng gán cho dữ liệu hiện tại. Với SMA thì tỷ trọng gán cho các mức giá là bằng nhau, với EMA và WMA thì tỷ trọng ở mức giá gần hiện tại chiếm cao hơn, trong khi đó TMA thì tỷ trọng cao hơn với mức giá ở giữa thời kỳ và VMA thì tỷ trọng thay đổi tùy theo mức biến động giá.

Đường trung bình động trong phân tích kỹ thuật năm 2024

Khoảng thời gian để tính MA

Vấn đề khó khăn nhất khi sử dụng MA là khoảng thời gian đưa vào tính toán. Cho dù tính MA bao nhiêu thì MA cũng phải đảm bảo tính chất là ghi chép đầy đủ các dấu vết theo thời gian của các chu kỳ thị trường. Có nghĩa rằng độ dài của một MA phải phù hợp với chu kỳ thị trường mà nhà giao dịch đang theo. Chẳng hạn như, cần tính độ dài của một mã chứng khoán có chu kỳ 40 ngày (từ đỉnh này đến đỉnh khác mất 40 ngày) thì chỉ cần áp dụng công thức:

Độ dài lý tưởng của MA = (Độ dài chu kỳ/2) + 1

Kết quả là nhà đầu tư có được một MA 21 ngày.

Để đơn giản có thể lấy độ dài bằng phân nửa độ dài chu kỳ thị trường. Hạn chế dùng các đường SMA nhỏ hơn 8 ngày vì chúng làm mất đi chức năng chính của các đường MA đùng để xác nhận xu hướng.

Để chuyển MA ngày sang tuần có thể thực hiện bằng cách lấy số ngày chia 5 (một tuần có 5 ngày giao dịch), tương tự MA ngày sang tháng thực hiện bằng cách lấy số ngày chia 21 và (một tháng có sắp xỉ 21 ngày giao dịch).

Đường trung bình động trong phân tích kỹ thuật năm 2024

MA đơn giản (SMA - Simple Moving Average)

Hầu hết các nhà phân tích sử dụng loại SMA vì chúng đơn giản là trung bình số học và chúng khá phổ biến từ thời máy tính chưa phát triển.

Khuyết điểm của đường SMA

Đường SMA thay đổi lần đầu tiên khi giá mới nhất tham gia vào tính toán giá trị SMA và thay đổi đường SMA lần thứ hai khi chúng rời khỏi. Vì giá trị các mức giá các ngày tham gia trong SMA có tỷ trọng như nhau nên ảnh hưởng ở ngày gần và ngày xa là như nhau.

Ví dụ SMA 10 ngày sẽ là tập hợp giá của 10 ngày gần nhất, giá ngày mới nhất sẽ thay thế cho giá ngày thứ 11 trước đó, nhiều trường hợp giá trị SMA giảm do ngày thứ 11 cao hơn ngày gần nhất hiện tại chứ xu hướng thật sự không giảm.

Vấn đề này rất tệ hại đối với các đường SMA ngắn nhưng không tệ với các đường SMA dài. Nếu bạn sử dụng một đường SMA 10 ngày, những lần bỏ giá đó có thể ảnh hưởng 10% tổng giá trị nhưng nếu dùng MA200 ngày thì mỗi ngày chỉ chiếm 0.5%. (code thực hành tại đây. Pass: like NenNhat.Net)

Một đường SMA giống như một con chó sủa hai lần, một lần khi có ai đó vào nhà và một lần khi người ta ra khỏi nhà, sau một thời gian bạn không biết khi nào phải tin con chó đó. Đây là lý do các trader hiện đại dùng máy tính nên sử dụng đường EMA.

Khuyết điểm thứ hai của đường SMA là chỉ các mức giá trong giai đoạn ảnh hưởng đến giá trị SMA, các giá trị từ vị trí thứ 12 không ảnh hưởng gì.

MA tỷ trọng tuyến tính (WMA - Weighted Moving Average)

Một nỗ lực để giải quyết vấn đề tỷ trọng, một số nhà phân tích sử dụng WMA. Ví dụ tính toán WMA 10 ngày, việc tính toán này là: lấy giá đóng cửa của ngày hiện tại nhân với 10, mức giá đóng cửa ngày hôm qua nhân với 9, tương tự ngày kế trước nhân với 8 và lập lại cho tới ngày thứ 10 nhân với 1. Sau đó lấy tổng này và chia cho 55 (55=10+9+8+7+...+1). (code thực hành tại đây. Pass: like NenNhat.Net)

Như vậy giá trị càng gần hiện tại ảnh hưởng chỉ số càng nhiều. Tuy nhiên WMA vẫn chưa giải quyết được vấn đề các giá trị từ vị trí thứ 12 không ảnh hưởng gì đến số liệu WMA hiện tại.

MA hàm số mũ (EMA - Exponential Moving Average)

Loại MA này giải quyết được 2 rắc rối của các hàm MA mắc phải, thứ nhất đặt tỷ trọng lớn hơn cho các mức giá gần hiện tại hơn. Thứ hai các giá trị giá các thanh trong quá khứ vẫn ảnh hưởng đến thành phần EMA hiện tại thông qua EMA phiên trước.

Đường EMA là công cụ theo xu hướng tốt hơn vì nó nhấn mạnh hơn vào dữ liệu mới nhất và phản ứng với sự thay đổi nhanh hơn đường SMA. Tâm trạng mới nhất của đám đông quan trọng hơn nên giá trị gần nhất hiện tại quan trọng hơn.

(code thực hành tại đây. Pass: like NenNhat.Net)

Tâm lý Thị trường

Mỗi mức giá là một hình ảnh của sự đồng thuận hiện tại về giá trị của tất cả các thành viên thị trường. Tuy nhiên, một mức giá đơn lẻ không thể nói với bạn rằng liệu đám đông đang trở nên muốn mua hơn hay muốn bán hơn, cũng như bạn không thể từ một bức ảnh đơn lẻ nói rằng liệu một người là lạc quan hay bi quan. Mặt khác, nếu bạn chụp ảnh hàng ngày của một người trong mười ngày, mang chúng tới phòng thí nghiệm, và đặt một bức ảnh tổng hợp, nó sẽ tiết lộ nét mặt điển hình của người đó. Bạn có thể theo dõi các xu hướng trong tâm trạng của người đó bằng cách cập nhật bức ảnh tổng hợp đó mỗi ngày.

Một đường MA là một bức ảnh tổng hợp về thị trường – nó kết hợp giá của một số ngày. Thị trường bao gồm các đám đông khổng lồ, và độ dốc đường MA xác định hướng của quán tính đám đông. Một đường MA thể hiện sự đồng thuận trung bình của giá trị trong một khoảng thời gian.

Thông điệp quan trọng nhất của một đường MA là hướng của độ dốc của nó. Khi nó tăng, nó chỉ ra rằng đám đông trở nên lạc quan hơn – muốn mua hơn. Khi nó giảm, nó chỉ ra rằng đám đông trở nên bi quan hơn – muốn bán hơn. Khi giá tăng lên trên đường MA, đám đông muốn mua hơn trước đó. Khi giá giảm xuống dưới đường MA, đám đông muốn bán hơn trước đó.

Các nguyên tắc giao dịch

Tạo nên các mức hỗ trợ kháng cự

Các trader mới cố gắng dự đoán tương lai. Những người chuyên nghiệp không dự đoán họ đo sức mạnh tương đối giữa phe mua và phe bán, theo dõi xu hướng, và quản lý các lệnh.

Các đường MA giúp chúng ta giao dịch theo hướng của xu hướng. Thông điệp đơn lẻ quan trọng nhất của một đường MA đến từ hướng của độ dốc của nó. Nó phản ánh quán tính của thị trường. Khi một đường EMA tăng, tốt nhất là giao dịch theo chiều mua, và khi nó giảm, đáng để giao dịch theo chiều bán

  1. Khi một đường EMA tăng, giao dịch thị trường đó theo chiều mua. Mua khi giá giảm về gần đường MA. Khi bạn mua, đặt cắt lỗ dưới đáy nhỏ gần nhất, và dời nó về điểm hòa vốn ngay khi giá đóng cửa cao hơn.
  2. Khi một đường EMA giảm, giao dịch theo chiều bán. Hãy bán khi giá tăng lên đường EMA và đặt cắt lỗ trên đỉnh nhỏ gần nhất. Hạ thấp dần điểm cắt lỗ tới hòa vốn khi giá giảm.
  3. Khi đường EMA đi ngang, và chỉ ngọ nguậy một chút, nó xác định một thị trường không có mục tiêu, không có xu hướng. Không giao dịch bằng cách sử dụng một phương pháp theo xu hướng.

Một trader phải chấp nhận rằng một đường EMA, giống như bất kỳ công cụ giao dịch khác, có mặt tốt và xấu. Các đường MA giúp bạn xác định và theo các xu hướng, nhưng chúng bị nhiễu trong giai đoạn thị trường đi ngang.

Các đường MA thường phục vụ như các mức hỗ trợ và kháng cự. Một đường MA tăng thường làm hỗ trợ bên dưới giá, và một đường MA giảm làm một kháng cự bên trên giá. Đó là lý do tại sao đáng để mua gần đường MA tăng, và bán gần đường MA giảm.

Các đường MA có thể được áp dụng cho các indicator cũng như giá. Ví dụ, một số trader dùng đường MA 5 ngày của khối lượng giao dịch. Khi khối lượng giao dịch giảm xuống dưới đường MA 5 ngày của nó, nó cho thấy sự đồng thuận của công chúng đã giảm trong xu hướng nhỏ và xác định rằng nó dường như sẽ đảo chiều. Khi khối lượng vượt quá đường MA của nó, nó chỉ ra sự đồng thuận của công chúng là lớn và xác nhận xu hướng giảm.

Trật tự các đường MA

Khi phân tích biểu đồ, có thể dùng không chỉ một mà hai đường EMA. Đường EMA dài hơn chỉ ra sự đồng thuận về giá trị dài hạn hơn. Đường EMA ngắn hạn hơn chỉ ra sự đồng thuận vì giá trị ngắn hạn hơn.

Thường tỷ lệ giữa chúng là xấp xỉ 2, ví dụ, có thể dùng một đường EMA 26 tuần và 13 tuần ở biểu đồ tuần, hay một đường EMA 22 ngày và 11 ngày trên biểu đồ ngày. Hoặc nhiều nhà giao dịch lựa chọn theo dãy fibonacci (ví dụ 5,13,34,55,89). Xin hãy hiểu rằng không có bộ số thần kỳ. Bạn nên cảm thấy tự do để chơi với các giá trị này, chọn một bộ sẽ là độc nhất với bạn. Chỉ giữ trong đầu là giữ sự khác nhau giữ hai đường EMA là gần 2:1.

Thường trật tự của các đường MA cũng được sử dụng để xác nhận xu hướng, các đường MA dài nhất phải nằm ở dưới thấp nhất tiếp đến là đường ngắn hạn hơn và trên cùng là đường giá trong một xu hướng tăng. Nếu các trật tự trên không được đảm bảo thì các nhà giao dịch theo trường phái theo sau xu hướng có thể đứng ngoài hoặc chọn chiến lược giao dịch khác phù hợp giai đoạn thị trường không xu hướng.

Sự giao cắt các đường MA

Sự giao cắt cơ bản nhất là giá cắt một đường trung bình di động. Nếu giá cắt lên đường MA thì đây là cơ hội để mua vào. Giá cắt xuống là cơ hội để bán ra.

Loại giao cắt thứ hai được các nhà giao dịch mới vào nghề sử dụng thường xuyên nhất. Loại này sử dụng 2 đường MA với thời gian khác nhau, đường ngắn cắt lên đường dài được xem là tín hiệu mua vào. Ngược lại đường ngắn cắt xuống đường dài là dấu hiệu để bán ra.

Loại giao cắt thứ ba là sử dụng 3 đường trung bình, tín hiệu mua khi đường ngắn nhất cắt lên 2 đường dài hơn hoặc đường ngắn nhất cắt đường thứ hai và đường thứ hai cắt đường thứ 3. Mong muốn của phương pháp này là loại bỏ các tín hiệu răng cưa nhiễu.

Các trader ngày trước từng theo các điểm cắt nhau của đường MA nhanh và chậm. Kế hoạch ưu thích của Donchian, một trong những người phát minh ra việc giao dịch với các đường MA, đã dùng điểm cắt của các đường MA 4, 9, và 18 ngày. Các tín hiệu giao dịch được cho khi tất cả 3 đường MA quay theo cùng một hướng. Phương pháp của ông, giống như các phương pháp cơ học khác, chỉ hoạt động trong các thị trường có xu hướng mạnh.

Mục tiêu chiến lược giao dịch theo sự giao cắt là tìm kiếm lợi nhuận khi xu hướng thị trường kéo dài. Phương pháp này có thể chấp nhận thua lỗ khi thị trường không có xu hướng và nó sẽ được bù đắp bởi khoản lợi nhuận lới khi thị trường có xu hướng dài.