Dựng lên bức tranh về nông thôn vn trước cách mạng tháng tám nam cao muốn nói gì với bạn đọc?

Làng quê việt nam trong truyện ngắn của nam cao trước cách mạng tháng tám 1945

  • pdf
  • 91 trang
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
BỘ MÔN NGỮ VĂN
&

NGUYỄN THỊ YẾN THU
MSSV: 6086287

LÀNG QUÊ VIỆT NAM TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM 1945

Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn

Cán bộ hướng dẫn: HỒ THỊ XUÂN QUỲNH

Cần Thơ, năm 2012

1
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vài nét về tác giả
1.1.1. Tiểu sử
1.1.2 Sự nghiệp sáng tác
1.1.3. Quan niệm sáng tác
1.2. Làng quê là mạch nguồn cảm xúc trong văn chương Việt Nam
1.2.1. Ca dao
1.2.2. Văn chương trung đại
1.2.3. Văn chương hiện đại
Chương 2: NHỮNG BỨC KÝ HỌA VỀ LÀNG QUÊ VIỆT NAM
TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO TRƯỚC CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945
2.1. Cảnh quan làng quê trong truyện ngắn Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945 2
2.2. Mối quan hệ giữa các tầng lớp người trong làng quê Việt Nam
2.2.1. Mối quan hệ giữa những người nông dân
2.2.2. Mối quan hệ giữa các thế lực, phe phái
2.2.3. Mối quan hệ giữa người nông dân với các thế lực thống trị trong xã hội
làng xã Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
2.3. Đời sống của người nông dân ở làng quê Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945
2.3.1. Người dân quê nghèo khổ, lam lũ
2.3.2. Người dân quê bế tắc cùng quẫn
Chương 3: NHỮNG YẾU TỐ NGHỆ THUẬT KHẮC HỌA HÌNH ẢNH
LÀNG QUÊ TRONG TRUYỆN NGẮN NAM CAO TRƯỚC CÁCH
MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
3.1. Thời gian nghệ thuật
3.2. Không gian nghệ thuật
3.3. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên
3.4. Nghệ thuật khắc họa tâm lý, tính cách của con người làng quê
3.4.1. Tâm lý nhân vật
3.4.2. Tính cách nhân vật
3.4.2.1. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua hành động
3.4.2.2. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ đối thoại
3.4.2.3. Khắc họa tính cách nhân vật thông qua độc thoại nội tâm
3.5. Chi tiết nghệ thuật

PHẦN KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn học luôn phản ánh đời sống, nhờ văn học mà bộ mặt nước ta qua từng thời kì
đã hiện ra một cách chân thực và đầy đủ nhất. Những nhà văn hiện thực phê phán giai
đoạn 1930 – 1945 đã có công rất lớn trong việc tái hiện một xã hội mà trong đó đầy rẫy
những bất công tàn bạo vô nhân tính. Bên cạnh Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,

Trọng Phụng, … Nam Cao đã chứng tỏ được bản lĩnh của một ngòi bút đầy tài
năng
“Sáng tác của Nam Cao đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian,
càng thử thách càng ngời sáng” [26; tr.210]. Có thể nói, Nam Cao là một nhà văn lớn đã
góp phần làm vẻ vang trào lưu văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 -1945. Đến với
sáng tác của ông, độc giả nghĩ ngay đến hai mảng đề tài quen thuộc: đề tài về người nông
dân và trí thức tiểu tư sản. Những trang viết của Nam Cao đã tái hiện một cách chân thực
và sinh động hình ảnh đói nghèo, lam lũ, bần cùng, tha hóa của những người nông dân
cùng bi kịch tinh thần luôn giày xéo trong tâm hồn của tầng lớp trí thức nghèo trước Cách
mạng tháng Tám 1945. Hai mảng đề tài này đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhận
định đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học. Trong những sáng tác của Nam
Cao, người viết nhận thấy rằng dù viết về đề tài nào, nhìn chung nổi bật nhất vẫn là hình
ảnh làng quê Việt Nam đầy đau thương, tang tóc trong đêm trường nô lệ.
Với cảm quan hiện thực sâu sắc và tấm lòng tha thiết với làng quê Việt Nam, ông
đã tái hiện một cách sinh động chân thực về nông thôn Việt Nam trong những năm 1930

1945 đầy đen tối, ngột ngạt, bế tắc. Chính vì thế, để hiểu rõ hơn về điều vừa trình bày,
người viết chọn đề tài “Làng quê Việt Nam trong truyện ngắn của Nam Cao trước
Cách mạng tháng Tám 1945” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp cho mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nam Cao là một tài năng lớn, một nhà văn xuất sắc đã góp phần cách tân và hiện
đại hóa nền văn xuôi quốc ngữ. Ông đóng một vai trò quan trọng trong nền văn học hiện
đại Việt Nam. Cả cuộc đời Nam Cao là một quá trình phấn đấu không mệt mỏi cho một
nhân cách cao đẹp – nhân cách trong cuộc đời và nhân cách trong sáng tạo nghệ thuật.
4
Qua khảo sát và tìm hiểu, người viết nhận thấy có rất nhiều công trình nghiên cứu
cùng những nhận định về văn chương Nam Cao nhưng vấn đề về làng quê thì chưa được
nghiên cứu một cách trực tiếp và toàn diện mà chỉ dừng lại ở những công trình nghiên
cứu cùng những ý kiến có liên quan.
Đầu tiên là quyển “Nam Cao đời văn và tác phẩm” do Hà Minh Đức biên soạn,
nhà xuất bản Văn học 1997. Đây xem như là một công trình nghiên cứu giới thiệu về quá
trình sáng tác đồng thời đưa ra những nhận định sơ bộ về nhà văn ưu tú Nam Cao.
Trong quyển “Nam Cao đời văn và tác phẩm”, Hà Minh Đức nhận định:
“Nam Cao đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc dựng lên chân thực hình ảnh người
nông dân Việt Nam, phản ánh cuộc sống đau khổ, tăm tối của nông thôn Việt Nam trước
cách mạng tháng Tám”[5; tr.75 – 76]. Qua những trang viết của mình, Nam Cao đã phản

ánh được tình hình tranh chấp giữa bọn cường hào hương lý. Tuy chưa có những
giải
pháp thiết thực nhưng tác giả có ưu điểm đáng ghi nhận là miêu tả được mối quan hệ giai
cấp phức tạp ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời nhà văn cũng
thấy được những biểu hiện khác nhau của mỗi tầng lớp, mỗi giai cấp trong cuộc đấu tranh
chung.
Hà Minh Đức đã đưa ra cái nhìn bao quát: “Sống giữa những người nông
dân,
những người nghèo khổ biết bao cảnh tượng thương tâm đã để lại cho Nam Cao những
ấn tượng sâu sắc, đã giúp Nam Cao có một cái nhìn chính xác vào bản chất cuộc sống ở
nông thôn”[5; tr.15]. Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả bức tranh quê và số phận con
người, Nam cao còn gióng lên hồi chuông kêu cứu, tố cáo xã hội đương thời. Hà Minh
Đức cho rằng: “Bằng cách thể hiện chân thực những cảnh đời tủi cực nghèo khổ nơi xóm
thôn, Nam Cao đã đề cập được đến quá trình người nông dân bị bần cùng hóa, kết quả
khốc hại của chế độ người bóc lột người, của một bộ máy thống trị vô cùng hà khắc. Và,
bất cứ trong hoàn cảnh nào, các nhân vật và cuộc đời thực của họ trong sáng tác của
Nam Cao đều có tác dụng tố cáo mạnh mẽ”. [5; tr.52]. Bên cạnh đó Hà Minh Đức còn
khẳng định Nam Cao đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc dựng lên hình ảnh chân
thực về người nông dân cũng như phản ánh rõ nét hoàn cảnh xã hội tăm tối của nông thôn
Việt Nam trước Cách mạng:“Tác phẩm của ông là tiếng kêu cứu thiết tha về tình
cảnh, 5
Nam Cao đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc dựng lên chân thực hình ảnh người
nông dân Việt Nam, phản ánh cuộc sống đau khổ, tăm tối của nông thôn Việt Nam trong
những năm trước Cách mạng tháng Tám”[5;tr.76]. Thông qua những tác phẩm của mình,
Nam Cao đã thể hiện rõ một tấm lòng nhân đạo cao cả trước từng mảnh đời bất hạnh và
một tình yêu tha thiết với làng quê. Chính vì thế Hà Minh Đức nhấn mạnh:
“Nam Cao yêu trìu mến cái làng khổ sở của anh, anh yêu những bến đò hiền lành,
những buổi sáng, buổi trưa của thôn quê Việt Nam. Mỗi khi nói đến cái ngốc dại quanh
quẩn của những người đau khổ quằn quại, biết bao nhiêu xót xa độ lượng trong câu văn
của anh” [5; tr.66].
Kế đến là cuốn “Nhà văn tư tưởng và phong cách” của Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà
xuất bản Đại Học quốc gia Hà Nội năm 2001.
Trong quyển này, Nguyễn Đăng Mạnh đã có sự so sánh khá tinh tế khi nhận ra sự
khác biệt rất độc đáo của Nam Cao khi miêu tả bức tranh làng quê với các nhà văn hiện
thực phê phán cùng thời “Khác với không khí đấu tranh sôi sục náo nhiệt trong
“Tắt
đèn” của Ngô Tất Tố, “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, nông thôn của Nam
Cao có một cái gì vắng lặng xơ xác, hoang vu khiến người ta tưởng chừng như nghe thấy
cả tiếng vặn mình mệt mỏi của những thớ gỗ trong cái kèo, cái cột, những buổi trưa hè
[19; tr.213][Nửa đêm]”. Bức tranh nông thôn không chỉ xơ xác tiêu điều về cảnh vật mà
cuộc sống của người nông dân cũng rơi vào đau thương, tang tóc “ở đây những gia đình
nông thôn không mấy khi toàn vẹn. Cuộc sống đói nghèo và nạn cường hào đã bắt
vợ
chồng, mẹ con, anh em phải ly tán, người này đi phu Nam Kỳ, người kia đăng lính sang
Tây, người nọ ngược rừng kiếm ăn, kẻ khác đã chết tự năm nào vì mất mùa,
đói

kém..Dưới những mái lều tranh, người nông dân của Nam Cao thường một hình,
một
bóng tự mình lại nói chuyện với mình, độc thoại nội tâm, triền miên, âm thầm
buồn
tủi”[19; tr.213].
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Đăng Mạnh còn cho rằng, với bản lĩnh của một nhà
văn có tài và cảm quan hiện thực sâu sắc Nam Cao đã phản ánh được tình trạng nông
thôn
nước ta trong những ngày đen tối dưới ách Pháp, Nhật: “Bằng trực cảm sâu sắc,
Nam
Cao đã phản ánh được tình trạng ở nông thôn nước ta trong những ngày cuối cùng của
6
chế độ thuộc địa dưới ách Pháp, Nhật: bị bòn rút vơ vét đến xơ xác, kiệt quệ và đang bị
đẩy dần tới nạn đói khủng khiếp 1945”[19; tr.214].
Ở một khía cạnh khác Nguyễn Đăng Mạnh còn khẳng định, trong những trang viết
về làng quê ấy còn thể hiện tấm nhân đạo của nhà văn trước số phận bất hạnh của con
người: “Một đám cưới là một truyện cảm động. Chao ôi! Người nông dân ngày xưa thật
cực khổ đủ đường. Đọc xong truyện cứ thấy đau xót đến ngẩn ngơ trước một cái làng quê
tiêu điều xơ xác, có một đám cưới mà mặt người đưa dâu buồn như là đưa ma, nhà trai
nhà gái chỉ vỏn vẹn có sáu người, kể cả đứa bé phải cõng, quần áo thì rách rưới lôi thôi,
lầm lũi, dắt nhau đi vào một cái ngõ tre hun hút dưới bóng chiều, ảm đạm, giống như một
gia đình bác xẩm…đi tìm chỗ ngủ”[19; tr.214].
Ngoài ra, để hoàn thành luận văn này không thể không kể đến quyển “Nam Cao –
Về tác gia và tác phẩm”, nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2007, tập hợp các bài giới
thiệu, phê bình, bình luận và nghiên cứu của các nhà phê bình nghiên cứu, các nhà giảng
dạy văn học, nhà văn được công bố trên các sách báo tạp chí về cuộc đời và văn nghiệp
Nam Cao. Trong cuốn sách này, có những bài viết đề cập đến một vài khía cạnh về làng
quê trong sáng tác của Nam Cao, đáng chú ý có thể kể đến bài viết của các tác giả sau:
Trần Đăng Suyền trong bài “Thời gian và không gian nghệ thuật Nam Cao” có
nhận định về sự khác biệt khi miêu tả về nông thôn của Nam Cao với các tác giả khác
cùng thời: “Khác với làng Đông Xá huyên náo, nhộn nhịp tiếng trống thúc sưu trong Tắt
đèn của Ngô Tất Tố, nông thôn trong tác phẩm của Nam Cao có cái vẻ vắng lặng hoang
vu của một vùng quê xác xơ vì nghèo đói. Một cái làng quê u tịch đôi khi chết lặng vì cái
nắng trưa gay gắt của mùa hè, xao xác vào những ngày thu, tả tơi vào mùa mưa bão,
quạnh vắng vào những đêm trăng”[15; tr.30]. Bên cạnh đó, tác giả cho rằng làng
quê
luôn chiếm một vị trí quan trọng trong sáng tác của ông: “thường xuyên hơn cả, ta bắt
gặp trong sáng tác của Nam Cao cái làng Vũ Đại [chính là làng Đại Hoàng quê hương
ông] [26; tr.471], và làng quê ấy hiện ra với những hình ảnh xơ xác tiêu điều đến thảm
hại “những mái lá xác xơ trông tiều tụy như những cái nón rách trên ráy những người ăn
mày ngồi xúm xít với nhau, ngủ gục cho đỡ lạnh”. [26; tr.471]. 7
Trần Đăng Suyền còn chỉ ra không gian sáng tác chủ yếu của Nam Cao vẫn là ở
làng quê với những ngôi nhà xác xơ và những con đường quạnh vắng “Không gian sáng
tác của Nam Cao trước hết là vùng nông thôn, những căn nhà nơi thôn dã, những con
đường làng…trong những mối liên hệ của thời gian và không gian, làng quê, ngôi nhà,
con đường hóa ra là cơ bản và quan trọng nhất: tất cả những mối liên hệ còn lại hoặc bị

chúng cuốn hút, hoặc là trở thành thứ yếu trong thế giới nghệ thuật của nhà văn”[26;
tr.470].
Thang Ngọc Pho và Trần Quang Vinh trong bài “Làng Đại Hoàng và sáng tác
của Nam Cao” có lí giải việc hình ảnh làng quê xuất hiện nhiều trong truyện ngắn của
Nam Cao là do sự gắn bó và tình yêu sâu nặng của nhà văn dành cho nơi “chôn nhau cắt
rốn” của mình: “Nam Cao gắn bó và có vốn sống phong phú về quê hương cho nên làng
Đại Hoàng đã đi vào tác phẩm của ông. Chất liệu để xây dựng tác phẩm là cảnh vật,
cuộc sống và con người Đại Hoàng cả mặt tốt và mặt xấu”[26; tr.648].
Khi đọc truyện ngắn về đề tài nông dân ta sẽ thấy một cách chân thực đầy đủ về
chân dung làng Đại Hoàng. Có điều ông chỉ sử dụng cảnh vật, cuộc sống và từng
con
người với tư cách là chất liệu để xây dựng hình tượng chứ không sao chép y nguyên. Đó
là một yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của ông.
Trong bài “Nam Cao [1915- 1951]” Hà Văn Đức có viết “Từ Nghèo đến Một
đám cưới, Lão Hạc, Quái dị…chúng ta đều bắt gặp một bối cảnh chung: nông thôn xơ
xác tiêu điều “Nhà cửa lưa thưa. Toàn những nhà tre úp xúp giữa những khu vườn rộng
nhưng xấu lắm: mía đốt như lau hoặc khẳng khiu như chân gà, chuối lè tè như những cây
rau diếp ngỗng, dĩ chỉ đến cây khoai, cây ráy cũng không lên được, người xấu và rách
rưới. Cái số trẻ con bụng ỏng mắt toét ngoài đường sẵn lắm [26; tr.73][Quái
dị]”.
Không cầu kì, trau chuốt từng câu chữ, văn Nam Cao rất gần gũi, dễ hiểu. Đọc văn Nam
Cao ta như đang thấy trước mắt bức tranh thôn quê nghèo nàn với những cảnh đời bi đát,
quằn quại trước cái nghèo.
Khi viết về làng quê, Nam Cao tỏ vẻ rất lạnh lùng, khách quan, ông không thể hiện
trực tiếp tình yêu của mình đối với làng quê nhưng sâu thẳm trong từng trang viết
Nam
Cao là tiếng lòng thổn thức, thiết tha với quê hương với từng mảnh đời bất hạnh. Chính
vì 8
lẽ đó, Hà Văn Đức khẳng định “Tấm lòng yêu thương nhân đạo và sự hiểu biết sâu sắc
về con người, đời sống ở thôn quê đã giúp Nam Cao xây dựng được những hình tượng
nông dân sinh động. Từ một làng quê heo hút của mình, nhà văn đã mở rộng ra cả một
thực trạng nông thôn đang trong thời kì lột xác[26; tr.73]. Khi đọc tác phẩm của Ngô Tất
Tố, Nguyên Hồng chúng ta từng bắt gặp những con người bị dồn đẩy đến chân tường và
đã chứng kiến không ít những số phận éo le. Nhưng đến Nam Cao, cảnh nghèo đã thấm
thía qua từng trang sách, và người đọc cứ day dứt không nguôi về bi kịch của con người
bị đẩy đến tận đáy sâu thẳm của xã hội.
Phong Lê trong bài “Nam Cao - nhìn từ cuối thế kỉ” có nhận định: “Nam Cao
không viết gì khác ngoài cái làng Vũ Đại quê ông. Nhưng rồi tất cả các làng quê Việt
Nam tiền Cách mạng đều được thu nhỏ vào đấy, với sự lưu cữu, sự xếp lớp nhiều tầng
các
mặt tốt xấu, vừa trái ngược nhau vừa bổ sung cho nhau những chuyện no đói và
sống
chết. Ma chay và cưới xin. Xó bếp và chốn đình trung. Mua danh và đi làm mõ;… Nhưng
oái oăm thay, và cũng thú vị thay, cho đến hôm nay, cái tên làng Vũ Đại vẫn chưa chịu
lùi hẳn vào trong quên lãng”[26; tr.168 – 169]. Không những không rơi vào quên lãng
mà làng Vũ Đại còn là biểu trưng của nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám

năm 1945 “Vũ Đại không chỉ gói gọn một đơn vị làng với những ao chuôm, những lũy
tre
xanh, những vườn chuối, giàn trầu quen thuộc mà còn là sự biểu hiện chung cho
sự
phong bế, trì trệ, nhếch nhác của bất cứ một quần thể cư dân nào cả nông thôn và thành
thị”[26; tr.168- 169].
Truyện ngắn viết về làng quê của nhà văn có sức khái quát rất cao. Làng quê xơ
xác tiêu điều, số phận bất hạnh, cùng cực ấy không chỉ bó hẹp trong làng Vũ Đại mà đã
trở thành điển hình cho làng quê Việt Nam trong đêm trường nô lệ trước Cách
mạng
tháng Tám năm 1945.
Trong bài “Tầm quan trọng của hoàn cảnh trong tác phẩm của Nam Cao”, Hà
Minh Đức đã nêu lên tính chất khái quát về làng quê trong sáng tác Nam Cao “Từ một
xóm quê nghèo, một cuộc đời cay đắng vì chuyện cơm áo, cảnh mỏi mòn của một trí thức
nghèo…Tất cả đều có thể từ đó khái quát lên bức tranh xã hội”[26;tr. 140] 9
Nguyễn Minh Châu trong bài “Nam Cao” đã khẳng định sức mạnh tố cáo, tiếng
kêu cứu tha thiết của nhà văn trong từng trang viết về làng quê: “Những trang viết của
ông như tiếng kêu cứu của chính cái làng quê Đại Hoàng của ông. Những xóm làng và
cánh đồng rung lên trong tiếng xích xe tăng, ngập chìm trong khói lửa”. [26; tr.159].
Nhìn chung từ trước đến nay đã có rất nhiều bài viết, nhiều quyển sách nghiên cứu
tìm hiểu về làng quê trong sáng tác của Nam Cao, nhưng các bài viết, công trình nghiên
cứu chỉ dừng lại ở việc nhận định hay đánh giá chung về một khía cạnh của làng quê chứ
chưa đặt vấn đề trở thành một công trình nghiên cứu hoàn chỉnh. Vì vậy, người viết chọn
đề tài “Làng quê Việt Nam trong truyện ngắn của Nam Cao trước Cách mạng tháng
Tám 1945”. Với đề tài này, người viết sẽ tham khảo một số ý kiến, bài nghiên cứu có liên
quan cùng với vốn kiến thức mà mình có được để có thể tập trung đi sâu vào tìm hiểu,
khám phá, làm rõ vấn đề và đưa vấn đề trở thành một bài nghiên cứu hoàn chỉnh, trọn
vẹn
có hệ thống.
3. Mục đích yêu cầu
Từ xưa đến nay, làng quê luôn là một đề tài quen thuộc trong nền văn chương Việt
Nam nói chung. Từ những vần thơ ngọt ngào, tha thiết tình quê của thi sĩ Nguyễn
Bính
đến những trang văn sâu lắng, đậm đà của Thạch Lam, những tiếng thét căm hờn về làng
quê tiêu điều xơ xác trong sáng tác của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan… đã toát lên
được bức tranh làng quê Việt Nam mộc mạc, gần gũi hiền hòa mà cũng đầy đau thương,
tang tóc.
Với đề tài này, mục đích đầu tiên mà người viết hướng tới đó là tìm hiểu, đánh giá
và làm sáng tỏ được nét nổi bật, độc đáo trong những truyện ngắn viết về làng quê của
Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám 1945. Qua đó, người viết có thể thấy được nét
riêng trong cái nhìn về làng quê của Nam Cao so với các nhà văn khác cùng thời. Từ đó
có thể hiểu rõ hơn về bức tranh làng quê Việt Nam với những số phận, tình cảm
của
người nông dân Bắc Bộ nói riêng cũng như người nông dân Việt Nam nói chung trong
những năm tháng đen tối bế tắc trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ngoài ra, nghiên cứu đề tài này còn giúp người viết vun bồi kiến thức cho bản thân

và làm hành trang quý báu cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy sau này. 10
4. Phạm vi đề tài
Đề tài nghiên cứu về “Làng quê Việt Nam trong truyện ngắn của Nam Cao
trước Cách mạng tháng Tám 1945”, do vậy phạm vi nghiên cứu chủ yếu tập trung ở
phần “làng quê Việt Nam” trong những truyện ngắn của Nam Cao trước cách mạng tháng
Tám 1945. Cụ thể ở những truyện ngắn tiêu biểu như: Lão Hạc, Nghèo, Chí Phèo, Một
đám cưới, Quái dị, Một bữa no, Nửa đêm, Lang Rận.….Bên cạnh đó, người viết còn tập
hợp, tham khảo những tài liệu, những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài của
mình để có được cái nhìn tổng quát hơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, người viết cần phải kết hợp rất nhiều thao tác khác nhau.
Trước tiên, người viết đã tập hợp và chọn lọc những tài liệu có liên quan đến đề tài. Song
song đó, người viết đã chọn lọc một số truyện ngắn tiêu biểu nhất để phân tích, nhìn
nhận,
đánh giá làm nổi bật được phương diện làng quê trong sáng tác của Nam Cao. Đồng thời
người viết đã sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu với một số tác phẩm khác cùng
giai
đoạn để làm nổi bật được điểm khác biệt và cái hay, nét đặc sắc trong những truyện ngắn
viết về làng quê của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám 1945. Bên cạnh đó, trong quá
trình khảo sát và nghiên cứu người viết còn sử dụng kết hợp nhiều phương pháp như:
tổng
hợp, liệt kê… và các thao tác chứng minh, phân tích, đánh giá...nhằm làm sáng tỏ các vấn
đề đặt ra trong bài viết này.
11
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Vài nét về tác giả
1.1.1. Tiểu sử
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri sinh ngày 29 tháng 10 năm 1915 trong một gia
đình trung nông tại làng Đại Hoàng thuộc tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân,
tỉnh Hà Nam [nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam]. Bút danh Nam Cao do
ghép hai chữ đầu tên huyện và tổng mà thành. Cha là Trần Hữu Huệ, sinh năm 1895 làm
nghề trạm trổ và bốc thuốc bắc. Sau cha ông trở thành chủ một hiệu đồ gỗ ở Hàng Đàn,
thành phố Nam Định, sau đó vì thua lỗ nên cửa hàng vỡ, lại trở về nghề làm ruộng. Mẹ là
Trần Thị Minh, sinh năm 1897 làm vườn làm ruộng và dệt vải.
Nam Cao là con trai cả trong một gia đình đông anh em, có bốn em trai và ba em
gái. Gia đình Nam Cao sống khá chật vật, trong số anh em chỉ có một mình Nam Cao
được đi học. Năm 1922 ông học tại trường tư ở làng, sau đó theo học bậc Tiểu học và
Thành chung ở thành phố Nam Định.
Năm 1934, Nam Cao thi trượt thành chung. Đầu năm 1935, Nam Cao từ Nam Định
trở về quê để chữa bệnh. Ngày 2 tháng 10 năm 1935 Nam Cao lập gia đình với bà Trần
Thị Sen khi anh mới mười tám tuổi.
Khi vừa cưới vợ xong được một tháng thì Nam Cao lên Nam Định đi tàu vào Sài
Gòn sống và làm việc cho một người cậu là ông Ba Lễ, chủ một cơ sở may đồ Tây cho
Pháp. Trong những năm tháng sống ở Sài Gòn, Nam Cao phải lăn lộn kiếm sống, ngoài

việc làm chính ông còn làm rất nhiều nghề khác như: chích thuốc ở nhà thương,
sống
chung với phu phen thợ thuyền. Chính những năm tháng lao động đầy cực khổ này
đã
giúp cho nhà văn nhìn thấy và hiểu hết được đời sống khổ cực bị đọa đày cả về vật chất
lẫn tinh thần của những người lao động mà đặc biệt là tầng lớp tiểu tư sản và tầng
lớp
nông dân lao động nghèo. 12
Đến năm 1938, Nam Cao bị ốm nặng do bệnh tim và tê thấp nên ông từ Sài Gòn
trở ra Bắc. Đứng trước bao chông gai và trở ngại của cuộc sống nhưng bằng sự
kiên
cường và lòng quyết tâm đã tiếp thêm sức mạnh cho Nam Cao, ông tự học và ôn lại vốn
học cũ kết quả là thi đỗ bằng Thành chung. Sau đó, Nam Cao xin làm công chức nhưng

sức khỏe yếu nên không được nhận vào làm. Và lúc này ông xin vào làm dạy học trong
trường tư thục Công Thanh. Chính môi trường dạy học nhiều vất vả của một thầy giáo
trường tư nên Nam Cao đã phần nào hiểu rõ hơn về thân phận của những người trí thức
tiểu tư sản nghèo dưới chế độ thực dân nửa phong kiến.
Năm 1940, khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, Nam Cao buộc thôi dạy vì
lúc này trường Công Thanh bị chúng lấy để làm chuồng ngựa.
Năm 1943, Nam Cao tiếp thu được đường lối đúng đắn của Đảng cộng sản Đông
Dương qua Đề cương văn hóa 1943, cùng với sự giới thiệu của Tô Hoài, tháng 4
năm
1943 Nam Cao tham gia vào hội Văn Hóa cứu quốc bí mật cùng với Tô Hoài, Nguyên
Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi….Cũng từ đó, Nam Cao đã xác định được
quan điểm và lập trường tư tưởng của mình trong sáng tác gắn liền với “nghệ
thuật vị
nhân sinh”.
Tháng 8 năm 1945, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân và được
bầu làm chủ tịch xã.
Năm 1946 Nam Cao được điều động công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc tại Hà Nội,
Thư ký tòa soạn tạp chí Tiên phong của Hội.
Năm 1947 ông lên Việt Bắc, những năm kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ
chính là lúc Nam Cao sống và chiến đấu hết mình vì quê hương đất nước. Cuối năm
1947,
Nam Cao được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương, đây là niềm vinh dự và niềm
vui
lớn nhất trong cuộc đời hoạt động cách mạng của người chiến sĩ cộng sản Nam Cao.
Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng địch hậu khu Ba, Nam Cao và
đoàn công tác bị một toán địch phục kích. Ngày 30 tháng 11 năm 1951 Nam Cao đã anh
dũng hi sinh ở Mưỡu Giáp, Hoàng Đan, tỉnh Ninh Bình. Nam Cao ngã xuống giữa lúc
ông đang ấp ủ cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương. Chuyến đi đó nhà văn lấy tư liệu để
13
hoàn chỉnh tác phẩm Làng nhưng ông đã không kịp thực hiện được hoài bão và khát vọng
của cuộc đời mình. Sự ra đi của Nam Cao đã để lại một khoảng trống không gì bù đắp

nổi, đó là một sự mất mát lớn lao cho văn học hiện đại nói riêng và nền văn học Việt
Nam
nói chung.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Nam Cao qua đời cách đây gần nửa thế kỷ. Ông để lại cho độc giả một khối lượng
tác phẩm không lớn với khoảng 100 tác phẩm, trong đó có 60 truyện ngắn và 2 tập truyện
dài Sống mòn và Truyện người hàng xóm nhưng những tác phẩm của ông có giá trị rất
cao. Nam Cao sáng tác ở cả hai thời kì trước và sau Cách mạng tháng Tám 1945.
1.1.2.1. Thời kì trước Cách mạng tháng Tám
Nam Cao bước vào văn đàn hiện thực phê phán từ năm 1936, đây là khoảng thời
gian diễn ra quá trình đấu tranh dằn vặt để lựa chọn quan điểm, khuynh hướng sáng
tác
cho riêng mình. Đây cũng là thời kì mà nhà văn Nam Cao đang phiêu bạt nơi đất khách
quê người. Ở Sài Gòn, Nam Cao vừa làm đủ nghề để kiếm sống, vừa viết báo cho Kịch
Bóng ở Sài Gòn, Ích Hữu, Tiểu thuyết thứ bảy, Ngày nay. Nội dung của những tác phẩm
thời kì này xoáy sâu vào cuộc đời của những con người sống bằng nghề mua vui
cho
người khác. Cảnh cuối cùng nói về cuộc đời của cô đào hát đam mê ca hát, suốt đời cô
chỉ biết có nghệ thuật nhưng cuối cùng cô đã gục chết trên sân khấu với cả giọng hát của
mình. Truyện Hai cái xác kể về một diễn viên xiếc nghèo bị tình phụ và anh ta đã giết
chết người yêu trong lúc hai người đang biểu diễn cùng nhau. Những tác phẩm trong thời
kì này chưa được đánh giá cao vì các tác phẩm này chưa đạt đến đặc sắc về nội dung và
nghệ thuật. Lúc này Nam Cao kí tên trên các tác phẩm của mình với các bút
danh:
Nguyệt, Xuân Rư, Xuân Du, Nhiêu Khê.
Năm 1937, ông gửi in trên Tiểu thuyết thứ bảy các truyện ngắn: Nghèo, Đui mù.
Trên báo Hữu Ích: Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp. Thông qua nội dung
của
những tác phẩm này ta thấy được ngòi bút của Nam Cao đang đi vào khai thác bản chất
của cuộc sống và phản ánh hiện thực cuộc sống. Đây chính là dấu hiệu chuyển mình về
khuynh hướng sáng tác trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. 14
Từ năm 1940, khi phát xít Nhật tràn vào Đông Dương, trường tư thục Công Thanh
nơi mà Nam Cao đang dạy học bị trưng dụng làm chuồng ngựa. Nam Cao buộc phải thôi
dạy và trở về quê nhà, lúc này ông viết truyện ngắn Cái chết của con mực gửi cho báo Hà
Nội Tân Văn với bút danh là Xuân Du và cũng gửi thơ in trên báo này ký tên là Nguyệt.
Năm 1941 là năm đánh dấu sự thành công vang dội và khẳng định tên tuổi của
Nam
Cao trong dòng văn học hiện thực phê phán khi ông đem trình làng tập truyện ngắn đầu
tay Đôi lứa xứng đôi [tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ sau đổi tên là Chí Phèo]. Khi
tác phẩm ra đời đã được sự đón nhận nồng nhiệt của công chúng. Chính sự đón nhận của
mọi người đối với tác phẩm Chí Phèo đã tiếp thêm nghị lực và niềm tin cho Nam Cao
tiếp
tục sáng tác theo khuynh hướng văn học hiện thực phê phán.
Xã hội Việt Nam thời kì này đang đắm chìm trong đêm trường nô lệ, nhân dân
phải sống trong cảnh tối tăm, u ám dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Bọn thực dân


phong kiến cấu kết chặt chẽ với nhau nhằm bóp nghẹt đời sống của nhân dân ta. Ở làng
Đại Hoàng – quê hương Nam Cao, người nông dân lúc này phải sống trong cảnh
bần
cùng, cơ cực và nghèo đói. Bên cạnh đó, bọn thống trị tranh nhau bóc lột làm cho
đời
sống của người dân lâm vào tình trạng bần cùng hóa. Đây chính là thời điểm mà Nam
Cao phát huy hơn nữa ngòi bút hiện thực của mình, trong thời gian dạy học ở trường tư
thục Kỳ Giang, Thái Bình, Nam Cao cho ra đời các truyện ngắn: Dì Hảo, Nửa đêm.
Năm 1942, Nam Cao trở về làng sáng tác và được in hàng loạt tác phẩm trên Tiểu
thuyết thứ bảy: Cái mặt không chơi được, Nhỏ nhen, Con mèo, Những truyện không
muốn viết, Nhìn người ta sung sướng, Đòn Chồng, Trăng Sáng, Đôi Móng Giò, Trẻ
con không được ăn thịt chó, Đón khách. Đồng thời, cũng trong thời gian này ông cho in
các truyện thiếu nhi trên sách Hoa Mai: Những kẻ khốn nạn, Người thợ rèn, Nụ cười,
Con mèo mắt ngọc, Ba người bạn. Những truyện ngắn viết cho thiếu nhi thường được
tập trung miêu tả về những cảnh đời lưu lạc, những mảnh đời bất hạnh, đời sống
của
những đứa trẻ sống đầu đường xó chợ thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Nam
Cao
viết bằng cả trái tim đồng cảm, thương xót đối với những cảnh đời bất hạnh của những
đứa trẻ thơ vô tội. 15
Tháng 4 năm 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong năm này, nhà
xuất bản Cộng Lực in tập truyện ngắn Nửa đêm của Nam Cao. Các sáng tác tiếp theo của
ông lần lượt xuất hiện trên Tiểu thuyết thứ bảy : Mua nhà, Quái dị, Từ ngày mẹ chết,
Làm tổ, Thôi đi về, Truyện tình, Mua danh, Một chuyện Xú- Vơ- nia, Sao lại thế này?,
Mong mưa, Tư cách mõ, Bài học quét nhà, Chuyện buồn giữa đêm vui, Điếu văn,
Cười, Quên điều độ, Xem bói, Một bữa no, Ở hiền, Rửa hờn, Rình trộm, Nước mắt,
Đời Thừa.
Năm 1944, Nam Cao cho in truyện ngắn: Lang Rận, Một đám cưới trên
Tiểu
thuyết thứ bảy, in truyện dài nhiều kì : Truyện người hàng xóm trên tờ Trung Bắc chủ
nhật. Bản thân nội dung của những tác phẩm này không phản ánh xã hội nhưng thông qua
những cảnh đời cùng cực, những số phận bi thảm của những con người sống trong cảnh
đói rách, nghèo khổ bị xã hội vùi dập, bị các thế lực thống trị bóc lột, áp bức bất công để
họ phải rơi vào tình cảnh bế tắc bần cùng tha hóa về nhân cách đã cho ta thấy được giá trị
tố cáo những tác phẩm này rất cao.
Tháng 10 năm 1944, Nam Cao hoàn thành tiểu thuyết Chết Mòn [sau đổi
thành
Sống mòn]. Tác phẩm đã ghi lại cả một quá trình “chết mòn” của người trí thức tiểu

sản bị gánh nặng cơm áo ghì sát đất, qua đó ta thấy được sức mạnh tố cáo xã hội gay gắt
cũng như thấy được những khao khát đổi thay cuộc sống tù túng đó.
Ngoài ra, Nam Cao còn có các truyện dài Ngày Lụt, Cái Miếu, Một đời người, Cái
bát đã bán cho các nhà xuất bản, không giữ được bản thảo đến ngày nay.
Tháng 8 năm 1945, Nam Cao tham gia cướp chính quyền phủ Lý Nhân, được bầu
làm chủ tịch xã và ông cho in truyện Mò sâm banh trên tạp chí Tiền Phong [Cơ
quan

ngôn luận của Hội Văn hóa cứu quốc].
1.1.2.2. Sau Cách mạng tháng Tám
Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao là cây bút có nhiều chuyển biến sâu sắc về
tư tưởng và về nghệ thuật. Ông hăng hái sáng tác để phục vụ kịp thời cho Cách mạng và
kháng chiến. 16
Năm 1946, Nam Cao được điều động công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc tại Hà Nội,
thư kí tòa soạn tạp chí Tiên phong của Hội. Sau đó, ông tham gia đoàn quân Nam tiến với
tư cách phóng viên. Ở Nam Bộ, Nam Cao sáng tác Nỗi truân chuyên của khách má
hồng, Đường vô Nam, in trên tạp chí Tiên phong. Cùng năm này, tập truyện ngắn Cười
được Nhà xuất bản Minh Đức ấn hành. Năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc, trong thời
gian
này ông viết Nhật kí ở rừng. Cuối năm 1947, ông tiếp tục viết Nhật kí ở rừng và cho ra
đời tác phẩm Đôi mắt. Đôi mắt là tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao về vấn đề nhận
đường của các thế hệ nhà văn lúc bấy giờ. Nhà văn phải có cái nhìn và cágch nhìn đúng
đắn mới có thể góp phần tích cực phục vụ cho cách mạng. Tháng 7 năm 1948, Nam cao
có bài viết về vấn đề Vài ý nghĩ về văn nghệ được đăng trên báo Cứu quốc.
Năm 1948 đến 1949, Nam Cao đi thực tế ở vùng đồng bằng, sáng tác truyện ngắn
Bốn cây số cách một căn cứ địch. Tháng 5 năm 1950, ông nhận công tác và làm việc ở
Tạp chí văn nghệ Việt Nam, lúc này ông viết tiểu thuyết Trận đầu về du kích đồng bằng
nhưng chưa hoàn thành phải bỏ dở dang vì ông chưa thu thập đủ tài liệu thực tế. Năm
1951, ông cho in tập truyện kí Chuyện biên giới và kịch bản Đóng góp.
Ngày 23 tháng 9 năm 1951, Nam Cao cùng Nguyễn Huy Tưởng dự Hội nghị liên
khu Ba. Sau đó, Nam Cao lên liên khu Bốn, rồi tham gia vào công tác thuế nông nghiệp
vào vùng địch hậu khu Ba. Nam Cao có dự định vừa đi làm nhiệm vụ vừa kết hợp lấy
thêm tài liệu để hoàn thành cuốn tiểu thuyết thai nghén nhưng ông chưa thực hiện
được
mong ước của mình thì ông đã bị địch phục kích và bắn chết vào ngày 30 tháng 11 năm
1951.
Nhìn chung, ở cả hai thời kì trước và sau Cách mạng tháng Tám Nam Cao đều có
những sáng tác đặc sắc, vươn tới đỉnh cao nghệ thuật. Sự ra đi của nhà văn đã để lại một
khoảng trống vô cùng to lớn cho nền văn học hiện đại nói riêng cũng như nền văn học
dân
tộc nói chung. Để ghi nhận những đóng góp lớn lao của nhà văn dành cho nền Văn học
Việt Nam hiện đại, Năm 1996 Nam Cao được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh về Văn học nghệ thuật [đợt 1].
17
1.1.3. Quan niệm sáng tác
Nam Cao ước mơ sáng tác từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Ông đã có thơ
truyện cười, truyện ngắn, kịch vui…đăng báo từ năm 1938. Là một người cùng thời với
sự phát triển của văn học lãng mạn ở Việt Nam nên Nam Cao ít nhiều chịu ảnh hưởng
của
văn học lãng mạn thoát ly. Thơ của Nam Cao nặng về nỗi buồn vu vơ, nhưng truyện ngắn
Nam Cao lại hướng vào việc đề cập đến cảnh ngộ đau khổ trong xã hội của những kiếp
người lầm than như: Một cô đào hát gục chết trên sân khấu [Cảnh cuối cùng], một diễn
viên xiếc nghèo bị tình phị đã giết chết người tình rồi tự sát khi biểu diễn [Hai cái xác],
hai chú bé thổi kèn Chicago và nhào lộn trên đường phố [Hai đứa trẻ].

Thời kì này khuynh hướng phê phán xã hội đã thể hiện khá rõ nét ở các sáng tác
của Nam Cao như trong các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Một bà hào hiệp. Nhưng tác
phẩm thể hiện nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực thật sự được khẳng định

truyện ngắn Chí Phèo.
Trong số những nhà văn hiện thực trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nam
Cao là nhà văn rất có trách nhiệm về ngòi bút của mình. Suốt cuộc đời lao động
văn
chương nhà văn luôn suy nghĩ “sống và viết”, Nam Cao sớm nhận biết tính chất giả dối
phù phiếm của thứ văn thơ “ thơm tho” tràn trề “những ánh trăng lừa dối”. Nam Cao đã
kiên quyết đoạn tuyệt với thứ văn chương đó và đi đến với chủ nghĩa hiện thực. Với Nam
Cao từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn tức là từ bỏ con đường thoát li hưởng lạc ích kỉ, phản bội
nhân dân lao động; lựa chọn chủ nghĩa hiện thực có nghĩa là trở về chỗ đứng của mình
trong những người nghèo khổ ruột thịt. Nhà văn đã xác định được vai trò, vị trí của mình
đối với việc phản ánh hiện thực với những bất công ngang trái.
Trong Trăng Sáng Nam Cao đã xác lập sứ mệnh cao quý của nghệ thuật trong xã
hội thuộc địa nửa phong kiến đầy rẫy áp bức bất công thời ấy là nghệ thuật phải hướng
tâm vào đời sống của quần chúng lao khổ dưới đáy xã hội bằng việc lắng nghe và đưa
những “tiếng đau khổ kia thoát ra từ nhưng kiếp lầm than” vào tác phẩm, khiến cho mỗi
dòng, mỗi chữ trong tác phẩm đều mang nhịp đập của trái tim dạt dào tình cảm nhân đạo
của nghệ sĩ, trong đó có nhà văn chứ không phải là món giải trí “của những người đàn bà
nhàn nhã ngả mình trên những chiếc xích đu nhún nhảy”[6; tr.585]. 18
Là một nhà văn chân chính, Nam Cao bao giờ cũng đặt cuộc sống lên trên nghệ
thuật Nam Cao tự nhủ phải sống cho đúng thì mới viết đúng. Khi thực dân Pháp trở lại
xâm lược đất nước ta, Nam Cao muốn “Vứt cả bút đi để cầm súng”, nhà văn cảm thấy
“Nếu như chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về” [Bút kí Đường vô Nam 1946]. Với Nam Cao nghệ thuật phải thể hiện hiện thực cuộc sống ở cả phương diện nội
dung và hình thức nghệ thuật. Tiểu thuyết của Nam Cao hình như không có sự hư cấu. Vì
vậy, đọc văn Nam Cao ta kinh ngạc về tính chân thực, điều đó khiến cho tác phẩm của
nhà văn có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Về phương diện lao động nghệ thuật, Nam Cao nhấn mạnh lương tâm người cầm
bút, Nam Cao phê phán nghiêm khắc sự cẩu thả trong nghề văn, coi đó là sự “bất lương”
là sự “đê tiện”. Nam Cao thấy hết trách nhiệm của người cầm bút với ý thức trách nhiệm
đầy đủ trước xã hội, phải nỗ lực để “hiểu biết, khám phá, sáng tạo”.
1.2. Hình ảnh làng quê là mạch nguồn cảm xúc trong văn chương Việt Nam
1.2.1. Văn học dân gian
Từ xưa đến nay trong tâm thức của mỗi người con đất Việt, làng quê thật gần gũi
và gắn bó. Làng là nơi ta oe oe cất tiếng khóc chào đời, là tiếng võng kẽo kẹt trưa hè với
lời ru ầu ơ của mẹ mà mỗi khi nhớ lại như nâng bước ta trên mọi nẻo đường. Nhắc đến
làng quê, ta nghĩ ngay đến những hình ảnh tiêu biểu như cây đa, bến nước, sân đình, là
lũy tre xanh bao bọc, là sừng sững một cổng làng hay ngào ngạt hương sen nơi ao làng.
Những đêm trăng thanh gió mát, trai thanh gái lịch đi gánh nước ở giếng làng, hay tụ tập
nơi đình làng. Họ gặp nhau và những lời tỏ tình thấm đẫm ánh trăng được nhen lên
từ
đó... tất cả trở thành nỗi thân thương, là ký ức về một miền quê yêu dấu của mỗi
con

người.
Từ bao đời nay, đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi
người dân Việt, là nơi chứng kiến những sinh hoạt, lề thói và mọi đổi thay trong đời sống
xã hội của làng quê Việt Nam. Đình làng- một mảnh hồn quê, một nét đẹp của xóm làng
Việt Nam, từ lâu đã in vào tâm khảm mỗi con người và toả sáng trong những bài ca dao
quen thuộc: 19
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen”
Hay:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”
Đình làng đã trở thành biểu tượng tinh thần của mọi người dân Việt. Cái đình
thiêng liêng là nơi tụ họp mọi người trong mọi sinh hoạt chung, vốn rất cần cho cuộc
sống
nông thôn cần có sự nương tựa, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Chính vì vậy, đình làng trở
thành một nơi thân quen gần gũi, là nơi che chở, là nơi ở, là cuộc sống của những người
nông dân Việt Nam.
Mỗi làng quê mang một sắc thái riêng nhưng đều thể hiện sự gắn bó tha thiết của
mỗi người. Đã từ rất lâu rồi, khi nói đến văn hoá làng – nét văn hoá của nông thôn Việt
Nam, chúng ta liên tưởng ngay tới những hình ảnh rất đặc trưng, làm nên biểu tượng của
làng quê. Đó là những hình ảnh của “cây đa, bến nước, sân đình, bụi tre, vườn cây, ao
cá…”.
Hầu như làng quê truyền thống ở Bắc Bộ nào cũng có những cây đa cổ thụ thường
ở đầu làng, cuối làng và ở bên cạnh các di tích. Cuộc sống sinh hoạt của làng diễn ra sôi
động xung quanh gốc đa. Với người dân quê, gốc đa là nơi bình đẳng nhất, không có sự
phân biệt ngôi thứ:
“Không tiền ngồi gốc cây đa
Có tiền thì hãy lân la vào hàng”
Gốc đa là nơi trẻ nhỏ nô đùa, thỏa thích nhặt búp, hái lá, chơi những trò chơi dân
gian. Gốc đa cũng là nơi dân làng ngồi nghỉ chân sau những giờ lao động mệt nhọc, trước
khi về làng hoặc đi khỏi làng. Gốc đa còn là nơi hẹn hò của trai gái:
“Em đang dệt vải quay tơ
Bỗng đâu có khách đưa thơ tới nhà
20
Hẹn giờ ra gốc cây đa
Phượng hoàng chả thấy thấy gà buồn sao”
Mỗi người đều có một vùng quê của riêng mình để mỗi khi nhắc đến lại thấy lòng
lâng lâng một niềm cảm xúc khó tả cùng niềm tự hào vô bờ bến:
“Làng ta phong cảnh hữu tình
Dân cư đông đúc như hình con long
Nhờ trời hạ kế sang đông
Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi”
Trong tâm thức của mỗi người con đất Việt, làng quê thật gần gũi và thân thương
biết bao. Thật đáng tự hào khi đứng trước phong cảnh hữu tình nơi làng quê với
đồng
ruộng mênh mông bát ngát một màu xanh mơn mởn hòa cùng cuộc sống nhộn nhịp của

con người đã tạo nên một bức tranh làng quê tuyệt vời neo vào lòng bao thế hệ. Bên cạnh
việc ca ngợi vẻ đẹp làng quê ta còn bắt gặp những câu ca dao nói về cuộc sống cũng như
tâm tư tình cảm của người dân quê:
“Rủ nhau đi cấy đi cày
Bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”.
Câu ca dao đã thể hiện sinh động cuộc sống của người nông dân ngày xưa. Trải
qua thời gian, hình ảnh con trâu đã trở thành biểu tượng quen thuộc của làng quê
Việt
Nam. Chẳng biết tự bao giờ, khi nói đến con trâu, người nông dân Việt lại nghĩ ngay đến
những nét rất riêng của làng quê, nào con đường đất mấp mô, nào gốc đa xanh rì rào, nào
cánh đồng lúa thơm mát.... Sáng, khi mặt trời còn chưa chịu ló mặt khỏi rặng tre, khi mọi
vật còn đang ngon giấc nồng thì trên con đưòng đất dài và rộng, người ta đã có thể trông
thấy cái bóng đen hăm hở của chú trâu hướng ra phía cánh đồng cùng với vợ chồng bác
nông dân lực điền với nào cày nào cuốc. Trâu là bạn chăm chỉ, trung thành của
người 21
nông dân Việt Nam. Bởi vậy, người nông dân vẫn âu yếm gọi trâu như một người bạn
thân:
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài đồng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công”
Viết về làng quê Việt Nam, tác giả dân gian không dừng lại ở việc ca ngợi vẻ đẹp
mà còn nói về cuộc sống của người dân quê. Người nông dân tuy nghèo về vật chất
nhưng
tình cảm dạt dào, nghĩa tình của họ thật cảm động :
“Kể chi trời rét đồng sâu
Có chồng có vợ rủ nhau cày bừa
Bây giờ trưa đã hồ trưa
Chồng vác lấy bừa vợ dắt lấy trâu
Một đoàn chồng trước vợ sau
Trời rét mặc rét, đồng sâu mặc đồng”
Cuộc sống dù vất vả khó khăn trời thì rét như cắt da cắt thịt, đồng thì sâu, cơ cực
quanh năm với ruộng đồng nhưng người nông dân vẫn vui vẻ tươi cười, họ hạnh phúc vì
tình cảm ngọt ngào có chồng có vợ cùng chia sẻ, cùng chung tay vượt qua mọi trở ngại
của cuộc sống. Tình nghĩa của người dân quê thật chân thành và đáng trân trọng biết bao.
Nhưng thật xót xa, người nông dân dù chăm chỉ làm ăn, vất vả sớm hôm với ruộng đồng,
vậy mà cuộc sống của họ vẫn không cải thiện được, vẫn trắng tay hoàn tay trắng:“Đi cày
ba vụ, không đủ ăn ba ngày tết”. Cuộc sống ở nông thôn bên cạnh những niềm vui, hạnh
phúc vì tình nghĩa đậm đà, người nông dân còn canh cánh bên lòng nỗi khốn khổ bị áp
bức bóc lột của bọn địa chủ:
“Ngó lên mấy đám ông cai
Cấy thưa ông ghét cấy dày ông thương” 22
Vì bọn thống trị bóc lột hết sức tàn nhẫn nên người dân quê rơi vào cảnh nghèo
đói, kêu trời, trời không thấu:

“Trời sao trời ở chẳng cân,
Kẻ ăn không hết, người lần không ra”
Và:
“Ếch kêu dưới vũng tre ngâm,
Ếch kêu mặc ếch, tre dầm mặc tre”
Lời than thân trách phận của những người nông dân đã gióng lên hồi chuông tố
cáo xã hội đương thời. Tuy lời ca dao là trách trời, trách số phận bạc bẽo...nhưng
nhìn
chung qua những câu ca dao trên, người đọc đã ngầm hiểu những bất công ngang trái mà
người nông dân phải gánh chịu là do sự áp bức bóc lột của bọn thống trị. Qua những bài
ca dao được chắt lọc từ cuộc sống, tác giả dân gian còn cho ta thấy được sự phản kháng
của người nông dân, tuy ở một mức độ nhất định nhưng phần nào thể hiện được sự nổi
dậy của người nông dân nhằm vươn tới một cuộc sống công bằng xóa bỏ áp bức bất
công:
“Bớt đồng thì bớt cù lao,
Bớt ăn bớt việc thì tao bớt làm”
Với ngôn từ giản dị, gần gũi không cầu kì trau chuốt trong từng câu chữ, tác giả
dân gian đã tái hiện bức tranh làng quê xưa với đầy đủ khía cạnh về vẻ đẹp của cảnh vật
thiên nhiên, của cuộc sống con người cũng như đời sống, nỗi cơ cực của người
nông
dân… Qua đó còn cho ta thấy được tình cảm thiết tha, niềm tự hào của tác giả dân gian
đối với quê hương, đất nước.
1.2.2. Văn chương trung đại
Hình ảnh làng quê Việt Nam thân yêu với những nét đơn sơ mộc mạc không chỉ
được chuyên chở đầy ắp qua những câu ca dao mượt mà, trữ tình mà còn được thể hiện rõ
trong mạch nguồn cảm xúc của văn chương trung đại. Những trang thơ thấm đẫm hương
vị làng quê, miêu tả cuộc sống bình dị nơi thôn dã được vua Trần Nhân Tông thể hiện
chân thành và hết sức tinh tế: 23
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền”.
Dịch thơ
[Xóm trước thôn sau tựa khói lồng
Bóng chiều như có thoắt dường không.
Mục đồng thổi sáo trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng].
[Thiên trường vãn vọng]
Thật đẹp biết bao khi đứng trước bức tranh đồng quê rộng lớn với những nét vẽ hết
sức tinh tế về cảnh sắc thôn quê bình dị. Hình ảnh đàn trâu thong thả về chuồng
trong
điệu sáo dặt dìu thấm đẫm tình quê của những đứa trẻ chăn trâu hồn nhiên trong sáng,
hòa
cùng hình ảnh từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng, thi nhân đã hoàn thành bức tranh
đồng quê tuyệt đẹp của mình. Tuy nhà thơ chỉ miêu tả bằng thứ ngôn ngữ rất
giản dị

nhưng vẫn thể hiện được cái “thần” riêng của bức tranh phong cảnh.
Đến với hình ảnh làng quê trong thơ Nguyễn Trãi, ta bắt gặp cảnh mùa xuân
tươi mát, mơn mởn nơi làng quê nông thôn có cỏ xanh, có mưa xuân, đường đồng quạnh
quẽ, con đò gối bãi vắng lặng. Làng quê hiện lên tuy phảng phất một nỗi buồn nhưng rất
đỗi thơ mộng:
“Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
Quạnh quẽ đường đồng thưa vắng khách
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi”
[Bến đò ngày xuân] 24
Cuộc sống làng quê với hình ảnh lao động thường nhật của người nông dân được
nhà thơ khắc họa một cách sinh động gần gũi:
“Một cày một cuốc thú nhà quê
Áng cúc lan chen vãi đậu kê
Khách đến chim mừng hoa xẩy rụng
Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về”
[Thuật hứng bài số 3]
Nhà thơ vẽ ra trước mắt chúng ta hình ảnh thân quen gần gũi của người nông dân,
ngày ngày vác cuốc ra đồng cày xới trên thửa ruộng của mình. Con người và thiên nhiên
giao hòa, khăng khít với nhau. Người đến thì chim mừng, hoa reo vui, trên đường gánh
nước về thì có trăng bầu bạn. Dù con người chỉ có một mình cô đơn, cuộc sống vẫn sống
động và đầy thi vị. Cảnh làng quê và cuộc sống làng quê thật bình dị, êm đềm qua cái
nhìn tinh tế của nhà thơ, dù cảnh sống nghèo khó vẫn lạc quan thư thái.
Khi nhắc đến hình ảnh làng quê trong thi ca trung đại, ta không thể nào không nhắc
đến nhà thơ của làng cảnh Việt Nam - Nguyễn Khuyến. Bằng tài năng của mình, ông đã
đưa thơ Việt Nam phát triển lên một bước mới, đặc biệt là đến gần với hiện thực, cụ thể
và sinh động hơn trong bút pháp miêu tả. Thiên nhiên làng quê trong thơ Yên Đổ đến với
độc giả bằng tất cả vẻ đẹp giản dị, thanh sơ mà vẫn có được những nét hấp dẫn riêng của
nó.
Trong số rất nhiều bài thơ tả cảnh làng quê của Nguyễn Khuyến, có ba bài thơ đã
luôn toả ra thứ ánh sáng êm dịu và trong trẻo, làm say đắm lòng người. Thiên nhiên bao
la
của những ngày thu muộn, có ao nước trong veo lóng lánh bóng trăng, có đom đóm
lập
loè ngõ tối đã tạo nên ba bức tranh đặc sắc về cảnh thu Việt Nam ở vùng đồng bằng Bắc
Bộ. Ba bài thơ này được nhân dân ghi nhớ và truyền tụng bởi mùa thu của miền Bắc nước
ta được miêu tả rất sinh động, sát thực, chứ không phải mùa thu mượn ở nơi khác. Tiêu
biểu cho thu Việt Nam phải nói đến Thu điếu:
25
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
[Thu điếu]
Đọc bài thơ, chúng ta có thể tưởng tượng ra trước mắt một bức tranh thuỷ mặc, có
bối cảnh xa, gần thật sống động. Khung cảnh mùa thu làng quê Bắc Bộ được gói
vào
trong một không gian hẹp, chiếc ao thu be bé, xinh xắn, chiếc thuyền câu cũng bé tẻo teo.
Làn nước trong veo làm nổi bật chiếc thuyền câu nhỏ nhắn. Bài thơ xinh xắn đã mở ra
trước mắt chúng ta cảnh vật thiên nhiên nơi làng quê: đây là từng gợn lăn tăn của
dòng
nước xanh biếc; kia là chiếc lá vàng khẽ rơi làm duyên cùng làn gió nhẹ; ngước mắt lên
nhìn là bầu trời xanh ngắt, rộng lớn, không hề vẩn tạp, cao vời vợi, sâu thăm thẳm trong
không gian đa chiều.
Cũng trong mạch cảm xúc ấy, Nguyễn Khuyến đã đưa cái thần của cảnh thu Việt
Nam vào bài Thu vịnh. Cái thanh thoát nhẹ nhõm, cái cao vời vợi của không gian được
gói gọn trong bầu trời thu xanh ngắt kia..
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào”
[Thu vịnh] 26
Đến với Thu ẩm, chúng ta cũng không thấy những hình ảnh ước lệ, tượng trưng,
sang
trọng như “rèm châu, lầu ngọc, chén vàng” mà thay vào đó là sự bình dân, thanh sơ và
giản dị, với :
“Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè”
[Thu ẩm]
Hình ảnh ngôi nhà, vừa là tả thực, vừa khái quát tầm vóc của một làng quê vùng
đồng chiêm trũng. Từ láy “le te” đã khắc hoạ hình dáng của ngôi nhà cỏ trong không
gian,
nó là nơi thu hút, hội tụ sự ấm áp, dung dị của đời sống nông thôn đất Việt. Trong
thơ
Nguyễn Khuyến, thiên nhiên được miêu tả cũng là một thiên nhiên nông thôn rất rõ.
Cảnh
mùa thu trong thơ của ông không phải là mùa thu ở miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở
quê ông, vùng đồng chiêm Bắc Bộ lúc bấy giờ. Ta có thể nhận thấy điều ấy qua cái màu
“xanh ngắt” của bầu trời, đến cái nước “trong veo” của ao cá hay từ cái “Lưng giậu phất
phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng loe”.
Sau khi cáo bệnh từ quan, Nguyễn Khuyến trở về với ruộng vườn. Hai mươi năm
của đời cụ là hai mươi năm giữa người, giữa cảnh thôn quê. Khác với Chu Mạnh Trinh,
Nguyễn Khuyến không chỉ mượn thiên nhiên làm bạn tiêu sầu, mà còn hòa mình vào
cuộc
sống nông thôn. Với đặc điểm ấy, lời thơ cụ Nguyễn Khuyến là những lời rung cảm chân
thành của một tâm hồn dân quê, lắm khi nhẹ nhàng mộc mạc như lời ca dao. Thiên nhiên
trong trong thơ ông không bó buộc phải là rộng lớn, đặc sắc, mà nhiều khi chỉ là những
cảnh, những hình ảnh giản dị, quen thuộc của quê hương xứ sở, nhất là cảnh nông thôn:

một ao thu nhỏ lạnh, một ngõ xóm trồng trúc, một khoảng trời xanh, một ngọn núi, một
cánh đồng nước lụt, mảnh vườn sau nhà lúc vào hè… Những cảnh đó ông khéo khơi rộng
và tìm ra những vẻ đẹp chưa ai khai thác bao giờ. Nhà thơ Yên Đỗ cũng đau đáu nỗi lo
của một lão nông nghèo trước cuộc sống khó khăn thiếu thốn:
“Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa, trầu chè chẳng dám mua”
[Chốn quê] 27
Hay nỗi ám ảnh thường xuyên của người nông thôn là lo mất mùa, lụt lội:
“Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa”.
[Chốn quê]
Và:
“Quai Mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi”
[Nước lụt Hà Nam]
Trong một khung cảnh như vậy, hình ảnh người dân quê hiện lên hết sức chân thực
và sinh động. Nhà thơ cũng lo cái lo của người dân, sống cuộc sống bần hàn chạy ăn từng
bữa, đo đếm cân đong từng xu như họ.
“Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa
Phần thuế quan thu, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua”
[Nhà nông than thở]
Cách hàng mấy chục năm, trước khi Ngô Tất Tố viết Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan
viết Bước đường cùng, ta đã được biết đến một nông thôn Việt Nam đói nghèo với cảnh
mất mùa năm này qua năm khác, cảnh công xá bèo bọt, cảnh thuế má quan lệ thúc đòi,
cảnh nợ nần với người cùng khổ “lãi mẹ, lãi con sinh đẻ mãi”, cảnh “sâu hạn liên miên
úng lụt tràn ”, …trong thơ Nguyễn Khuyến.
Những hình ảnh ước lệ, tượng trưng trong thơ cổ rất ít gặp nơi thơ Nguyễn
Khuyến, mà phần nhiều là những hình ảnh quen thuộc, chất phác, gắn liền với dân quê
như: con trâu, con gà, ngõ trúc, đường làng, khúc sông, bãi chợ, vườn cà, cây cải, ao cá,
28
bờ tre. Trong bài thơ Bạn đến chơi nhà, Nguyễn Khuyến đã thể hiện tình bạn chân thành
một cách hóm hỉnh qua việc sử dụng những chất liệu rất đời thường:
“Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thời đi vắng chợ thời xa.
Ao sâu nước cả khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta”.
[Bạn đến chơi nhà]
Không gian trong bài thơ là ao cá, vườn rau, lại có cà, cải, bầu, mướp… những loại

cây trồng thường thấy ở thôn quê. Khung cảnh làng quê rất quen thuộc, gần gũi và đậm
đà
phong vị dân tộc. Cuộc sống của người dân quê thường gắn liền với vườn rau, ao cá với
con gà, con vịt. Những chất liệu đời thường ấy đã đi vào bức tranh thiên nhiên
của
Nguyễn Khuyến thật giản dị biết bao, điều đó chứng tỏ nhà thơ rất yêu quý và gắn bó với
cuộc sống nơi thôn dã.
Từ những hình ảnh, những chất liệu hết sức đời thường nhưng qua cái nhìn của
Nguyễn Khuyến tất đã trở nên tươi tắn, nhẹ nhàng và mềm mại thể hiện đầy đủ bức tranh
làng cảnh Việt Nam. Qua cảm nhận của ông, tất cả đã trở thành phong vị của quê hương.
Quan sát bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng trong thơ văn Nguyễn Khuyến
ta
nhận thấy ông là người gắn bó rất sâu sắc với làng quê Việt Nam mà nhất là vùng đồng
bằng Bắc Bộ nơi ông sinh sống.
Nhìn chung, làng quê trong thơ ca trung đại được các thi nhân thể hiện rất chân
thực và gần gũi. Đó là vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên miền thôn dã, vẻ đẹp của cuộc
sống con người đồng thời cũng là niềm day dứt xót xa của thi nhân khi cuộc sống của
người dân quê rơi vào nghèo khổ, cơ cực…Dù thể hiện ở phương diện nào ta cũng thấy
29
được tình yêu tha thiết cũng như niềm tự hào của các thi sĩ trung đại dành cho làng quê
của mình nói riêng cũng như quê hương đất nước Việt Nam nói chung.
1.2.3. Văn chương hiện đại
Trong lịch sử thi ca Việt Nam, làng quê là một nguồn cảm hứng lớn. Ca dao, thơ
trung đại đã có nhiều bài xuất sắc về đề tài này. Đến với văn chương hiện đại, đề tài làng
quê được các tác giả khai thác trên cơ sở kế thừa văn học truyền thống nhưng sáng
tạo
trên nền hiện thực xã hội mới.
Với các thi sĩ hiện đại [đặc biệt là các nhà thơ trong phong trào thơ Mới] tìm đến
thiên nhiên, họ đặc biệt say sưa với vẻ đẹp của phong cảnh làng quê. Hình ảnh làng quê
mà trước hết là phong cảnh đã ngấm vào máu thịt, ăn sâu trong tâm thức mỗi người bằng
tình cảm gắn bó tự nhiên, sâu nặng. Ta hãy nghe tiếng lòng rung cảm của Đoàn Văn Cừ
trước vẻ đẹp thật đơn sơ, bình dị :
“Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết”
[Chợ Tết - Đoàn Văn Cừ]
Đọc bài thơ ta như lạc vào không khí nhộn nhịp vui tươi, nô nức nơi thôn dã. Trên
lối cỏ quanh co, dưới bầu trời quang đãng, từng đoàn người các ấp tưng bừng đến chợ tết.
Không kể già trẻ trai gái mọi người đều hăm hở sốt sắng tạo nên một không khí tết ở làng
quê thật đầm ấm, nhộn nhịp. Trong những lời thơ đẹp một cách đơn giản và ý nhị, phiên
chợ tết ở nhà quê hiện ra cùng với những hình ảnh ngộ nghĩnh, những dáng điệu kỳ thú
dưới ngòi bút linh hoạt của Đoàn Văn Cừ.
Đến với nữ sĩ Anh Thơ, ta bắt gặp một chiều xuân mưa bụi êm đềm, bến sông
vắng lặng hòa với hình ảnh con đò, quán nước, hoa xoan tím, đàn cò bay, đàn sáo, cánh
bướm…gần gũi thân quen trong những vần thơ ngọt ngào:

Tải về bản full

NGƯỜI NÔNG DÂN VIỆT NAM TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Đọc bài viết

ĐỀ TÀI NGƯỜI NÔNG DÂN TRƯỚC CÁCH MẠNG

Văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã sinh ra những tác giả và tác phẩm để đời. Đặc biệt trong văn học hiện thực phê phán 1930-1945 ai đọc rồi thì không thể quên được, nó cứ ám ảnh đeo đuổi ta mãi.Mặc dù hình ảnh người nông dân bước vào văn học từ những câu ca xưa, từ những áng văn cổ điển nhưng đến với dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945, ta gặp những chị Dâu, anh Dậu, cái Tí, cái Bần, Chí Phèo, Thị Nở, lão Hạc, anh Pha …. Họ đến và họ không ra đi, họ bắt tay, xót xa, cay đắng mãi với cuộc đời họ. Họ bắt ta phải ngẫm nghĩ mãi về ánh sáng lương tâm, lương tri trong con người họ về sự cùng cực để bức ra cuộc sống ngột ngạt ấy của họ.

Riêng mảng đề tài về người nông dân, chúng ta phải xếp lên nhóm đầu Lão Hạc, Chí Phèo của Nam Cao và Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Các tác phẩm tuy chỉ là những truyện ngắn nhưng sức khái quát của chúng không hề nhỏ. Đọc tác phẩm, người ta thấy cả không khí ngột ngạt mà người nông dân Việt Nam trước Cách Mạng tháng Tám phải chịu đựng. Và ở giữa cái guồng quay tàn nhẫn ấy, có những con người, những thân phận đang cố chới với thoát khỏi dòng đời một cách đầy tuyệt vọng.

Với Tắt đèn và Lão hạc, cả Ngô Tất Tố và Nam Cao đều trở về với nông thôn. Nhưng nếu như người ta cứ tưởng nông thôn Việt Nam từ xưa đến nay yên bình sau những lũy tre làng thì hình ảnh cái vùng quê kiểu ấy biến mất hoàn toàn trên những trang văn của Ngô Tất Tố lẫn Nam Cao. Ở Tắt đèn và Lão Hạc, sau cái cổng làng đầy rêu mốc là một nông thôn dữ dội như một bãi chiến trường và kỳ thực ở đó người nông dân dù muốn hay không cũng đang bị biến thành những “chiến binh số phận”.

Chỉ với mấy chục trang văn, hai tác giả đã cho bạn đọc một hình dung khá trọn vẹn về người nông dân Việt Nam trước Cách Mạng. Đó là những con người đang dần nghẹn thở vì sự bóc lột của thực dân và phong kiến theo mọi cách khác nhau. Cuộc sống của họ tủi nhục, đau buồn khiến họ lúc nào cũng có thể nghĩ cái chết có khi còn dễ chịu hơn nhiều.

Ta hãy sống với cuộc đời của Lão Hạc. Một lão nông dân nghèo, chỉ cần nghe qua tiểu sử cũng đủ thấy bao điều bất hạnh. Ta thương cảm và xót xa cho số phận của người nông dân với cuộc sống mòn mỏi trong chờ đợi và hy vọng mong manh mà cuộc sống cô đơn gặm nhấm tâm hồn và thể xác già nua của lão Hạc. Vợ lão chết sớm để lại cho lão một cậu con trai với mấy sào vườn – thành quả bòn mót suốt cuộc đời của người đàn bà xấu số. Nhưng có vẻ như nhà lão Hạc còn khá khẩm hơn nhiều gia đình khác. Mọi chuyện chỉ nảy sinh khi con lão đến tuổi lập gia đình. Nhà gái thách cưới cao, nhà lão thì nghèo quá. Kết quả là thằng con lão đành nhìn cô người yêu lấy chồng sang cửa giàu hơn. Nó quẫn chí, ngay mấy hôm sau xin đi đồn điền. Lão Hạc đau lòng lắm nhưng tất cả cũng vì nghèo nên đành ngậm đắng nuốt cay. Con lão bỏ đi, lão còn con chó với mảnh vườn nhưng cái vườn của lão lúc nào cũng bị người ta dòm ngó đòi cướp mất. Lại thêm làng mất vê sợi, lão lại ốm đau luôn.Trăm cái bất hạnh, trăm cái lo lắng đổ xuống cái túi đang dần nhẵn thín của lão nông nghèo, lão phải sống cô đơn buồn tủi, trong những ngày xa con, lão chỉ có “cậu Vàng” làm bạn. “Vàng” là kỷ niệm thiêng liêng của đứa con để lại, càng thương nhớ con lão càng quý mến con Vàng. Lão âu yếm trò chuyện với nó như người ông hiền hậu ân cần với đứa cháu ngoan. Yêu thương cậu vàng như vậy nhưng bị dồn vào nước đường cùng, lão đành làm một việc nhẫn tâm là phải bán nó đi. Khi kể lại với ông giáo, lão đau đớn xót xa tột cùng: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những nếp nhăn xô lại ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít…”. Lão khổ tâm dằn vặt vì chuyện bán chó. Và cái đói cứ đeo đẳng làm cho lão dù đã phải bòn củ chuối, rau má, sung luộc để kiếm bữa cho qua ngày mà vẫn không xonglão không thể nào chống lại, lão đành chấp nhận “chết mòn” rồi “chết hẳn” trong đau đớn,xót xa. Một cái chết đầy bi kịch. Cuối cùng lão phải kết liễu cuộc đời bằng liều bả chó xin được của Binh Tư. Ôi cái chết thật đau đớn và dữ dội, lão “vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, áo quần xộc xệch, lão tru tréo, bọt mép sùi ra…”. Hình ảnh lão Hạc gợi trong ta ký ức buồn đau của thảm cảnh 2 triệu người chết đói năm 1945 trước khi cách mạng tháng Tám nổ ra

Chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố là một hình tượng tiêu biểu. Chị Dậu đầu tắt mặt tối không dám chơi ngày nào mà vẫn “cơm không đủ no, áo không đủ mặc”. Gia đình chị đã “lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Chồng chị ốm đau, vụ thuế đến cùng biết bao tai hoạ… Nào là phải chạy đôn, chạy đáo để cho đủ số tiền nộp sưu cho chồng mà không có một hạt cơm nào vào bụng. Chị như phải mò kim dưới đáy bể, như lạc vào cái sa mạc cát nóng bỏng, gió thổi tạt vào người như lửa. Trong cảnh “nửa đêm thuế thúc trống dồn” không có tiền nộp sưu cho chồng, vay mượn thì đều là bạn nghèo ai cũng không có, kẻ nhà giàu địa chủ thì đòi trả lãi với giá cắt cổ, chị đành phải bán đứa con ngoan ngoãn bé bỏng mà chị đã mang nặng đẻ đau, mà đã đến lúc nó có thể giúp chị rất nhiều. Chúng ta có thể cảm nhận được nỗi đau như đứt từng khúc ruột của chị khi bán cái Tý. Cái cảnh chị nuốt nước mắt vào trong mà van lạy cái Tý, thằng Dần để chúng đồng ý cho chị dẫn cái Tý sang nhà Nghị Quế làm người đọc không cầm lòng được. Cuộc đời chị bất hạnh này lại nối tiếp khổ đau kia. Sau khi bán con và đàn chó mới đẻ, cóp nhặt đem tiềm nộp sưu cho chồng xong tưởng chừng nạn kiếp đã xong mà cố gắng sống những ngày bình yên bên người chồng ốm yếu, nhưng bọn lý trưởng, chánh tổng trong làng lợi dụng thuế má muốn đục nước béo cò bắt chị phải nộp thêm suất sưu cho em chồng đã chết từ năm ngoái. Người đã chết, đã đi vào cõi hư vô, còn đâu mà bắt người ta đóng thuế, thật quá bất công. Rồi chị còn phải chứng kiến cảnh chổng ốm đau bệnh tật, rũ rượi như một chiếc lá héo khô bị ném vào nhà, chị chăm sóc cho anh chưa kịp hoàn hồn thì bọn cai lệ và người nhà lý trưởng xông vào định bắt trói anh điệu ra đình vì thiếu sưu của em mình. Trong hoàn cảnh ấy không thể chịu đựng được nữa, tình yêu thương chồng và nỗi tức giận bị đè nén bấy lâu đã thôi thúc chị hành động. Chị đã xông vào bọn chúng đánh trả quyết liệt sau những lời van xin thiết tha không hiệu nghiệm để rồi kết quả là cả hai vợ chồng chị bị bắt giải ra đình để quan tư phủ xử tội vì đã chống lại “người nhà nước”. Những khổ cực mà chị Dậu phải chịu cũng như những tâm lý uất ức trào dâng bột phát thể hiện thành hành động phản kháng của chị chính là hình ảnh chân thực về cuộc sống của người nông dân trước cách mạng tháng Tám

Người nông dân trong xã hội cũ gặp nhiều đau khổ bất hạnh là thế nhưng vượt lên trên những đau khổ bất hạnh đó, họ vẫn luôn giữ trọn những phẩm chất cao đẹp của mình mà đọc tác phẩm dù hiện thực có buồn thương nhưng nhân cách và phẩm chất cao quý của họ vẫn ngời sáng trong đêm tối khiến ta thêm tin yêu con người, tin yêu cuộc sống.

Ngay trong hoàn cảnh bất hạnh khổ cực vì bị hà hiếp bóc lột chị Dậu vẫn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ yêu thương chồng con đảm đang tháo vát. Trong văn bản “Tức nước vỡ bờ” hình ảnh chị dùng những lời lẽ van xin thảm thiết và dám xông vào chống trả quyết liệt tên cai lệ và người nhà lý trưởng để cứu chồng là biểu hiện sâu sắc nhất tình cảm yêu thương hy sinh vì chồng con của chị Dậu. Cử chỉ bê bát cháo đến bên chồng với những lời nói tự nhiên như tấm lòng chân thành của chị đối với chồng Thầy em cố dậy húp ít cháo cho đỡ mệt…” đã làm người đọc xúc động thực sự trước tấm lòng thơm thảo, vẻ đẹp nữ tính dịu dàng với tình cảm mộc mạc của người phụ nữ ấy. Ở chị là sự hội tụ những vẻ dẹp tự nhiên của người phụ nữ .Việt Nam mà Ngô Tất Tố muốn ngợi ca.

Cũng xuất phát từ tình yêu chồng mà chị đã vùng lên quật ngã tên cai lệ và người nhà lý trưởng để bảo vệ chồng. Hành động của chị dù là bột phát nhưng suy nghĩ đầy ý thức “Thà ngồi tù, để cho nó làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được”. Ý thức đó phải chăng là ý thức phản kháng tiềm tàng trong người nông dân mà Ngô Tất Tố dường như đang “xui người nông dân nổi loạn” [theo nhận xét của Nguyễn Tuân] để nhằm phản ánh quy luật: có áp bức có đấu tranh, “Tức nước vỡ bờ”.Tôi nhớ mãi những ánh mắt, là nghị lực, lả sức sống của chị. Ánh mắt sáng rực nhân cách ấy rọi chiếu như tia đèn pha, dường như muốn thiêu đốt những rác rưởi trong đình làng, trong xã hội. Ánh mắt đầy sức mạnh theo sát ta trên chặng đường đời, góp sức đốt trụi những ý nghĩ thấp hèn, những lời van vĩ, dựng ta dậy, xốc ta đi. Giữa bãi bùn lầy nhơ nhuốc của lòng chảo ” tắt đèn”, chị là thứ “hương sen dã ngoại”. Một mùi hương không thể lẫn, một mùi hương thoang thoảng thôi nhưng không bao giờ hết. Cuối tác phẩm, chị Dậu rứt ra, lao vào đêm đen. Nhưng chính chị, bằng cuộc đời bị dồn đến chân tường ấy vẫn gieo trong ta một niềm tin mãnh liệt, dù hiện thực có nghiệt ngã hơn thế nữa thì chị Dậu vẫn đẹp, vẫn trong sáng. Niềm tin ấy hoà trong máu ta đốt thành niềm yêu say cuộc sống

Nếu như chị Dậu tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân trong những vẻ đẹp nhân ái vị tha và tiềm tàng sức sống, sự phản kháng mãnh liệt thì ở nhân vật lão Hạc ta lại cảm nhận được tâm hồn và tình yêu tha thiết, niềm tin cháy bỏng và một nhân cách cao thượng đáng nể trọng của người nông dần già nua nghèo hèn phải tìm đến cõi chết. Đến giọt nước mắt cũng phải dồn hai gò má lại mà “ép” ra. Có những lúc đói, đào được củ gì ăn củ nấy nhưng lão vẫn không bán một tấc đất, một mảnh vườn của con. Giữa lúc con người sống với nhau như thú vật ấy, cái tình của lão với con chó vàng mới đẹp làm sao. Đôi mắt van vỉ của con chó là cái tình của lão Hạc đấy, nói với lão Hạc là nói với chúng ta, và cái đẹp nhất, cái in đậm nhất trong ta chính là cái tình ấy. Có một thời tôi không dám đọc Lão Hạc vì nó khủng khiếp quá, vì cái chết của lão ghê gớm quá. Nhưng cái tình, cái đẹp trong câu chuyện ấy cũng nhiều lắm. Cái ân tình trĩu nặng như chính mảnh đất lão đã sống, đã chết để gìn giữ.Tôi muốn giữ chặt lấy thân hình lão đang cào cấu, nắn thẳng lại những cánh tay, bàn chân co quắp, và tôi thấy rõ ràng từ đôi mắt lão ứa ra những giọt nước mắt hiếm hoi, tôi thấy đôi tay lão từ từ nhấc dây vuốt ve con chó vàng, tôi thấy miệng lão mấp máy dặn dò ông giáo canh giữ mảnh vườn. Lão Hạc ơi, lão hãy yên lòng mà nhắm mắt.

Nếu nói lão Hạc chết vì đói nghèo quả là hoàn toàn chưa hiểu hết ý đồ của nhà văn. Nam Cao đã khơi vào “luồng chưa ai khơi” trong hiện thực lúc bấy giờ là tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương nhân ái, đức hy sinh cao cả của người cha trong hoàn cảnh vật lộn với cái đói. Lão Hạc chết là để bảo toàn danh dự và nhân cách, để giữ trọn tình yêu cho con, để thanh thản ra đi sau những gửi gắm về mảnh vườn, tiền cưới vợ cho con, tiền lo ma chay để khi ra về nơi miền cực lạc xa xôi còn có hàng xóm lo cho. Chính sự chất phác lương thiện đã giúp lão có những hành động đầy tự trọng ấy, lão không muôn liên luỵ đến ai mà chỉ âm thầm chịu khổ một mình.

Là người rất đôn hậu và cao cả, lão đã khóc hu hu, đã xót xa đến tột cùng khi phải bán con chó, lão ân hận, lão khóc như người có tội, lương tâm lão bị dày vò, cắn dứt chỉ vì không thuỷ chung với một con chó. Lòng nhân ái của lão khiến ta cảm động biết nhường nào.

Những đức tính khiến chúng ta phải cảm phục nhất ở lão Hạc đó là lòng yêu thương con bao la, đức hy sinh cao cả. Chính tình yêu con đã giúp lão ngăn con không bán vườn. Lúc khoẻ lão cố cày thuê cuốc mướn, đồng áng từ lúc bình minh đến khi hoàng hôn buông xuống, tất cả chỉ để dành dụm cho con ít tiền. Nhưng sau trận ốm, lão đã chẳng còn gì, thương con nên lão không muốn tiêu phạm vào một đồng tiền nào dành cho con. Lão nhịn ăn, nhịn mặc, một lòng vì con: để rồi lão đã chọn con đường quyên sinh để giữ trọn mảnh vườn cho con. Cái chết dữ dội và kinh hoàng lắm. Lão thương con ngay đến những giây phút cuối cùng của cuộc đời, nhưng lòng lão thanh thản đến êm dịu.

Cảm ơn Ngô Tất Tố, cảm ơn Nam Cao! Họ đã cho chúng ta hiểu rõ cái cuộc sống cùng quẫn, bi thảm của người nông dân, làm chúng ta càng cảm phục trước những phẩm chất cảo quý, đẹp đẽ và trong sáng của họ. Giữa bùn đen nhưng tâm hồn họ vẫn toả hương thơm ngát như đoá hoa sen đồng nội. Nhìn vào cuộc sống của người nông dân ngày nay ta càng xót xa cho cha ông thuở trước và thêm tin yêu cuộc sống mới.

Còn Chí Phèo, cái anh Chí Phèo ấy đã găm lại trong ta bởi cái kì dị, quái gở của cả hình thức lẫn cuộc đời và con người. Những cái đó, làm cho tôi, lần đầu tiên tiếp xúc với tác phẩm, cảm thấy sợ hãi. Sợ hãi cái con quỷ dữ ấy, sợ hãi cái thằng người say triền miên, sợ hãi, ám ảnh cái bóng Chí Phèo vật vờ dưới chân hắn trong đêm trăng. Tưởng như ngửi thấy mùi rượu, thấy được máu đang tưa ra trên khuôn mặt “vằn ngang vằn dọc”không tuổi ấy. Rồi cái sợ ấy ngấm mãi vào người và dần dần, trở thành sự chà xát ghê gớm. Chua xót lắm chứ, cái chua xót lớn nhất – Chí Phèo không được sống như một con người. Chị Dậu khổ, nhưng chị là một con người, là người mẹ, là người vợ, Lão Hạc khổ nhưng lão vẫn là một người bố và bên cạnh lão còn có ông giáo sẻ chia. Còn Chí Phèo, hãy thử hỏi xem có nỗi đau đớn nào lớn hơn thế nữa! Không có gì khốn nạn và cùng cực hơn anh nông dân Chí Phèo ấy. Có thể nói cuộc đời nhân vật Chí Phèo gói gọn trong hai chữ “bất hạnh” và một con số không tròn trĩnh. Cho đến bao giờ, tiếng thét, tiếng kêu của anh ta mới nguôi đi trong tôi “tao muốn làm người lương thiện”. “ai cho tao lương thiện?”Không, tiếng kêu đó sẽ chẳng bao giờ dịu đi, nó vật vã cái phần nhân bản cao quý của con người, nó giày vò cái phần lương tri, lương năng trong con người. Nó không còn là khổ, là đau nữa, nó sâu, đau tận trong tâm can ta. Khi gấp trang sách lại ta vẫn luôn ám ảnh bời cái hình dáng khật khưỡng của một gã say rượu với cái vỏ chai trong tay vừa đi vừa chửi bới của Chí Phèo.
Xã hội không cho Chí con đường sống. Nhát dao của Chí Phèo cho đến bây giờ vẫn còn đau trong tôi. Cái nhát dao kết liễu cuộc đời anh Chí và đó cũng là cái nhát dao khoét sâu trong ta. Nam Cao đã để cho lão Hạc cào cấu ta bởi cơn giãy chết điên dại của lão thì đến Chí Phèo lại là cảnh dãy dụa trên vũng máu và miệng “ngáp ngáp” như đang muốn nói một điều gì đấy với mọi người. Sao họ khổ đến thế, đến cái chết cũng cứ phải khổ, cũng cứ phải vật vã. Cái chết đau đớn, cái chết rùng rợn, bao nhiêu cái khắc nghiệt của cuộc sống đã dồn cả lên đôi vai gầy gò ốm yếu của họ và cho đến lúc chết họ vẫn cứ vẫn còn phải khổ.Cuộc sống của những người nông dân ấy tăm tối đớn đau, làm gì có cảnh

“Trên đồng lúa xanh rờn và ướt lặng

Lũ cò con chốc chốc vụt bay lên

Làm giật mình những cô nàng yếm thắm

Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”.

“Cô nàng yếm thắm” ấy chợt đến rồi chợt đi, trong ta những chị Dậu, Chí Phèo thì sống mãi. Ôi những người nông dân thưở ấy càng nghĩ lại càng thương, càng đau. Càng sung sướng trong cuộc sống “Lúa mượt đồng ấm áp làng quê” lại càng xót xa cho họ.

Hình ảnh của những người nông dân trước cách mạng tháng tám không chỉ găm lại trong ta bởi cái khổ, họ còn đọng lại trong ta bởi ánh sáng lương tâm, lương tri trong họ, bởi sức sống ngầm trong con người họ. Dù cuộc đời có cay cực, bất công, dù cuộc sống quá tối tăm, Có phải vì Chí Phèo được mô tả như một con quỷ, một con vật không tuổi nên cái phần “người” trong hắn làm ta bàng hoàng, chỉ một bát cháo hành của Thị Nở,một “đặc ân” mà cuộc đời ban cho hắn cũng đủ thức dậy cái phần lương tâm lương tri cái bản chất con người, trong lúc tưởng như nó đã huỷ diệt trong cái vỏ kì quái, gớm ghiếc. Không, nó vẫn sống và sống mãnh liệt. Tôi nhớ mãi cái buổi sáng Chí Phèo tỉnh dậy. Lần đầu tiên hắn mới lắng nghe âm thanh cuộc sống, tâm hồn rung lên những nhịp rung mới lạ. Chí nhớ lại có một thời Chí cũng có những ước mơ nho nhỏ, có một thời Chí cũng là người là trong Chí khát khao một cuộc sống lương thiện, muốn hoà mình, gia nhập cái xã hội bình dị cúa những người dân. Cái phần người nhỏ bé nhưng kì diệu ấy có sức đốt nóng ghê gớm. Cái ấn tượng ấy không mất đi. Nó thì thầm, trong tôi: Dù người ta có nói gì với bạn đi nữa thì bạn hãy tin rằng cuộc sống vẫn đẹp và con người vẫn đẹp. Tôi lại thấy thoang thoảng đâu đây mùi cháo hành thơm nồng, thấy rạo rực như được sống cái buổi sáng mà Chí Phèo tỉnh giấc, có tiếng chân, có tiếng người đi chợ về hỏi nhau…

Trong đêm tối một tia sáng cũng đủ rạch màn đêm, trong khổ đau, người nông dân vẫn giữ cái phần “người” đốt sáng rực cái phần “người” ấy. Chúng ta – người đọc – không thể nào quên được đôi mắt của chị Dậu, bát cháo hành của Thị Nở, nụ hôn đẫm nước mắt của con Tí với em nó. Những hình ảnh đó thấm mãi vị ngọt ngào trong ta.

“Bát cơm chan đầy nước mắt” của người nông dân xưa ấy, ta ăn và thấy nghẹn ngào, đắng chát. Cái ý nghĩ họ sống khổ cứ bám riết lấy ta, bắt ta đau và chính họ cũng đốt lên, hằn sâu trong ta những tia sáng cao đẹp của nhân phẩm. Ta sống, ta lớn lên, mang theo mãi trong mình những ấn tượng, những cảm xúc sâu sắc ấy. Và mỗi lần nghĩ về họ, những người nồng dân ấy, ta lại thấy tất cả còn mới nguyên như lần đầu ta bước vào đêm đen “tắt đèn”, như lần đầu ta đến làng Vũ Đại. Và họ đứng bên nhau, hoà vào nhau, trở thành một bức tượng son sắt trong ta: Người nông dân thuở ấy.

Nỗi thống khổ của người nông dân bị áp bức trước Cách mạng qua nhân vật Chí Phèo trong truyện Chí Phèo của Nam Cao.

Quảng cáo

Xem thêm:

  • Soạn bài Chí Phèo [Phần tác phẩm] - Nam Cao siêu ngắn
  • Soạn Chí Phèo [Phần tác giả] - Nam Cao siêu ngắn
  • Chí Phèo - Nam Cao
Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn
  • Dàn ý
  • Bài mẫu
  • Dàn ý
  • Bài mẫu
Bài khác

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí Phèo

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài

- Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh một cách chân thực khách quan trong từng chi tiết về nỗi thống khổ của người nông dân bị áp bức, bị lưu manh hóa trước Cách mạng.

-Nam Cao không nói về sưu thuế như Ngô Tất Tố, mà tác giả nói về số phận người lao động bị chà đạp ở hai bình diện:

+Bị tha hóa, lưu manh.

+ Muốn trở lại làm người lương thiện nhưng bị cự tuyệt.

- Nam Cao có cái nhìn mới mẻ, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ của người nông dân bị áp bức bóc lột trong xã hội cũ. Từ nỗi đau khổ của họ, nhà văn đã biểu hiện thái độ căm thù giai cấp địa chủ, cường hào đã đẩy người nông dân vào chỗ lưu manh hóa..

- Từ hình tượng Chí Phèo sau khi ở tù ra, Nam Cao đã phản ánh được quy luật ở nông thôn nước ta thời thuộc Pháp: người lương thiện bị xô đẩy vào con đường cùng. Họ đã phản kháng lại để tồn tại.

- Nam Cao bày tỏ sự cảm thương cho số phận đau khổ của người nông dân [qua nhân vật Chí Phèo] và tác giả đã viết những trang văn đầy xúc động. Người đọc cảm thương cho người cố nông phai sống trong trạng thái cùng khổ triền miên, bị cướp mất hình người và linh hồn người.

- Nam Cao đã chỉ ra được bản chất lương thiện của người lao động ẩn giấu trong con người lưu manh của họ. Tác giả khẳng định tình người, tình yêu đã sưởi ấm và làm sống dậy trong tâm hồn kẻ bất hạnh như Chí Phèo. Thị Nở và bao kiếp người cùng khốn trong xã hội cũ.

3. Kết bài

- Thể hiện thái độ trân trọng, xót thương của Nam Cao đối với nỗi thống khổ của người nông dân

- Lên án, tố cáo xã hội đương thời

Bài mẫu

Năm 1941, truyện ngắn "Đôi lứa xứng đôi" của Nam Cao ra mắt độc giả. Đầu năm 1946, truyện được tái bản, ông đổi tên truyện thành "Chí Phèo". Nó là một tác phẩm viết về đề tài nông dân trước Cách mạng được xếp vào loại kiệt tác trong nền văn học Việt Nam hiện đại, làm cho tên tuổi Nam Cao trở thành bất tử. Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh một cách chân thực khách quan trong từng chi tiết về nỗi thống khổ của người nông dân bị áp bức, bị lưu manh hóa trước Cách mạng.

Chí Phèo bốn mươi hay ngoài bốn mươi, lúc hắn chết? Hai mươi năm đầu, đời hắn đầy nước mắt. Tám năm đi tù trong oan uổng và uất hận. Hơn mười năm cuối đời, hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, chỉ biết rượu và chửi, chỉ có máu và nước mắt. Chỉ có ba người quan hệ với hắn là Bá Kiến, vợ ba Bá Kiến và Thị Nở. Đó là lí lịch Chí Phèo.

Chí Phèo là một đứa không cha không mẹ, tứ cố vô thân. Kiếp người của hắn khổ từ khi nằm trong bụng một người đàn bà chửa hoang, cất tiếng khóc oe oe, mẹ hắn đùm hắn vào cái váy đụp vứt ở lò gạch cũ. Khi hắn xám ngắt, anh thả ống lưới rước hắn về đem cho mụ đàn bà góa mù; sau đó mụ ta bán hắn cho bác phó cối. Và khi bác phó cối chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Một hoang thai, một vật vứt đi, một vật cho không, một vật đem bán, một kẻ bơ vơ làm thuê kiếm sống. Đó là trang đời cô đơn, đầy nước mắt của Chí Phèo. Một tuổi thơ đầy bất hạnh, đáng thương!

Năm 20 tuổi, Chí Phèo làm canh điền cho Bá Kiến. Chí Phèo bị vợ ba Bá Kiến lợi dụng "bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng” mà hắn bị đi tù bảy, tám năm. Một anh cố nông hiền lành đã bị người ta lợi dụng, bị tù oan uổng. Chính Bá Kiến là chủ mưu làm hại Chí Phèo. Nhà tù thực dân đã lưu manh hóa anh cố nông hiền lành này. Sau tám năm đi tù về, Chí hoàn toàn thay đổi. Cái đầu trọc lốc, cái mặt cơng cơng, cái răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy! Phải chàng Chí ngạo đời, thách thức với thiên hạ cho bõ uất ức căm hờn? Hay anh cố nông này bị nhà tù thực dân tha hóa, làm biến chất?

Nỗi thống khổ của Chí Phèo đến mức cùng cực là sau khi hắn đi tù về. Hắn đã gây ra bao "sự kiện", bao chuyện động trời. Chửi Bá Kiến, đến nỗi "mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất!". Xô xát với Lí Cường rồi rạch mặt, kêu làng ăn vạ. Cụ Bá phải xử nhũn với hắn, giết gà thết rượu, đãi thêm đồng bạc để hắn về uống thuốc! Chí Phèo đốt quán mụ bán rượu. Ngồi uống rượu với chuối xanh chấm muối ở ngôi miếu con cạnh bờ sông, cầm dao nhọn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai xin đi ở tù: "Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại cho con đi ở tù"..., "con phải đâm chết dăm ba thằng, rồi cụ bất con giải huyện". Một sự thật cay đắng phũ phàng, như Chí Phèo nói: "... bẩm quả đi ở tù sướng quá. Đi ở tù còn có cơm mà ăn, bây giở về làng về nước, một thước cắm dùi không có, chủ làm gì nên ăn". Bá Kiến là một tên cường hào xảo quyệt "trị không lợi thì cụ dùng". Chỉ một câu mơn trớn, cụ cho Chí Phèo biết là anh ta với Lí Cường, con trai cụ “ còn có họ kia đấy". Chỉ một câu nói khích, Bá Kiến sai anh đầu bò này cầm dao đi thẳng đến nhà đội Tảo đòi nợ. Vô học, ngu dốt và lưu manh [sản phẩm của chế độ thực dân], Chí Phèo đã bị Bá Kiến "chinh phục". Năm đồng bạc, năm sào vườn ở bãi sông, Chí được cụ Bá "thưởng" cho. Năm đó Chí Phèo hăm bảy hăm tám, hắn "bỗng thành ra có nhà", hắn trở thành "anh chân tay mới" của Bá Kiến.

Đoạn đời hơn mười năm còn lại của Chí Phèo đầy máu và nước mắt. Hắn bị đầu độc bằng rượu và các món lợi khác. Hắn trở thành kẻ đâm thuê chém mướn. Hắn "đập phá bao nhiêu cơ nghiệp... làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Hai bàn tay hắn vấy đầy máu và tội ác. Cuộc đời hắn là những cơn say dài bất tận, mênh mông: "hắn đập đầu, rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say nóng rượu trong lúc say để rồi say nữa, say vô tận". Chí Phèo đã bị cướp mất cả hình người lẫn linh hồn. Người ta biến hắn thành một con quỷ dữ. Cái mắt hắn "vàng vàng", "sạm màu lại", "vằn dọc vằn ngang... biết bao nhiêu là sẹo . Hắn bị đẩy xuống hố thẳm tội ác. Cái thẻ biên tên tuổi hắn cũng không có. Hắn không biết tuổi hắn, "hắn không còn ngày tháng nữa", cả làng Vũ Đại "đều sự hấn thù tránh mặt hẳn mỗi lần hắn qua".

Chí Phèo đâu phải là kẻ mạnh! Hắn là một tên điên khùng, là một kẻ mất trí, là một con quỷ dữ. Cuộc uống rượu giữa hắn với Tự Lãng, một kẻ làm nghề thầy cúng kiêm hoạn lợn cho thấy nỗi cô đơn bơ vơ của những kiếp người đau khổ. Cuộc "làm tình" năm ngày đêm của hắn với Thị Nở, một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi, dở hơi xấu ma chê quỷ hờn là một bước ngoặt trong cuộc đời Chí? Bát cháo hành và bàn tay săn sóc của Thị Nở đã đánh thức chút ít lương tri còn sót lại trong con người Chí Phèo. Hắn buồn nhớ lại mơ ước bình dị thời trai trẻ. Hắn "thèm lương thiện". Hắn muốn tùng với Thị Nở ở chung "một nhà cho vui” "làm thành một cặp rất xứng đôi". Muốn thoát khỏi lốt quỷ dữ, muốn trở lại làm người, nhưng ai cho Chí làm người nữa? Bà cô Thị Nở không cho thị lấy "một thằng không cha", chỉ có một nghề là "rạch mặt ăn vạ”. Thị Nỡ đã phải chối bỏ cuộc tình. Thị đã giúi cho hắn một cái làm cho "hắn lăn khoèo xuống sân". Ai cho Chí Phèo làm người lương thiện? Làm thế nào để mất đi những vết sẹo mảnh chai trên mặt hắn? Đó là nỗi thống khổ của Chí Phèo. Chí Phèo đã bị xô đẩy vào con đường cùng bế tắc, không có lối thoát! Hắn đã uống rượu cho thật say! Hắn đến gặp Bá Kiến để "đòi lương thiện". Hắn đà đâm chết Bá Kiến rồi hắn tự sát! Đó là quy luật khốc liệt ở đời: "ác giả ác báo!". Từ một cố nông lương thiện, Chí Phèo bị biến thành quỷ dữ, bị cướp mất cả hình người lẫn linh hồn, rồi từ quỷ dữ mà "thèm lương thiện", mà muốn được trở lại làm người nhưng không thể được, không ai cho Chí được làm người!. Đó là một kiếp người đầy máu và nước mắt. Đó là nỗi thống khổ của Chí Phèo, nỗi thống khổ của người nông dân bị lưu manh hóa trước cách mạng.

Nam Cao đã khắc họa và xây dựng nhân vật Chí Phèo thành một nhân vật điển hình cho sự thống khổ và lưu manh hóa của tầng lớp nông dân nghèo trong xã hội thực dân phong kiến. Chí Phèo lại có những nét riêng, tính cách riêng. Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức... đều là đầu bò, lưu manh, nhưng mỗi đứa lại có một cách riêng, một cuộc đời riêng, một số phận riêng. Chí Phèo, Lão Hạc, Lang Rận, v.v... đều chết bi thảm, nhưng mỗi người lại tự tử, tự sát một cách khác nhau.

Nam Cao có tài kể chuyện, sử dụng ngôn ngữ nhân vật trong đối thoại, độc thoại rất sinh động, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật Chí Phèo một cách sâu sắc. Ông đã phản ánh một cách chân thực, cụ thể nỗi thống khổ của người nông dân nghèo trước cách mạng. Qua cuộc đời thống khổ và cái chết bi thảm của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã gióng lên một liếng chuông cảnh tỉnh: Hãy cứu lấy con người, hãy cứu lấy những người nông dân nghèo khổ, đau khổ, dốt nát... Hãy xóa bỏ xã hội thực dân, phong kiến nguồn gốc của sự áp bức bóc lột, của cái ác và đau thương. Qua đó, ta càng thấy rõ, truyện Chí Phèo là một kiệt tác văn chương chứa chan tinh thần nhân đạo thống thiết!

Loigiaihay.com

  • Chí Phèo giết Bá Kiến trong trạng thái nào? Tỉnh hay say rượu? Ý nghĩa cái chết của hai nhân vật Chí Phèo và Bá Kiến

  • Cảm nhận về tình yêu trong tác phẩm ‘Chí Phèo’ của Nam Cao

  • Phân tích tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo

  • Ý nghĩa 3 lần Chí Phèo đến nhà Bá Kiến

  • Tác phẩm Chí Phèo từng có những nhan đề nào? Ý nghĩa nhan đề “Chí Phèo”?

Quảng cáo
Luyện Bài Tập Trắc nghiệm Ngữ Văn 11 - Xem ngay
Báo lỗi - Góp ý

Phân tích truyện Chí Phèo của Nam Cao

THPT Sóc Trăng Send an email
0 34 phút

Phân tích tác phẩm Chí Phèo lớp 11 của Nam Cao để làm sáng tỏ nội dungnhân đạo sâu sắc mà Nam Cao muốn gửi gắm vào tác phẩm, nói lên những kiếp lầm than, không có chỗ đứng và tiếng nói trong chính cuộc sống của mình trong cái xã hội phong kiến đầy sự áp bức nhưng vẫn luôn khao khát muốn được trở thành người lương thiện.

Cùng tham khảo hướng dẫn chi tiết dưới đây để nắm được cách làm dạng bài phân tích Chí Phèo em nhé!

Bạn đang xem: Phân tích truyện Chí Phèo của Nam Cao

Đề bài: Em hãy viết một bài văn phân tích truyện Chí Phèo của nhà văn Nam Cao

Bài viết gần đây
  • Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

  • Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu [Thu điếu] của Nguyễn Khuyến

  • Bình giảng đoạn trích Tình yêu và thù hận

  • Phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận của Sếch-xpia

Nội dung

    • 0.1 Hướng dẫn làm bài phân tích tác phẩm Chí Phèo củaNam Cao
  • 1 Lập dàn ýphân tích truyện Chí Phèo
    • 1.1 1. Mở bài phân tích Chí Phèo
    • 1.2 2. Thânbài phân tích Chí Phèo
    • 1.3 3. Kếtbài phân tích Chí Phèo
  • 2 Top 3 bài văn mẫu hay phân tích truyện ngắnChí Phèo củaNam Cao
    • 2.1 Bài của học sinh chuyên vănphân tích tác phẩm Chí Phèo được đánh giá cao
    • 2.2 Phân tích truyện Chí Phèo lớp 11 để thấy bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh
    • 2.3 Phân tích truyện Chí Phèo – Bức tranh về đời sống xã hội phong kiến nông thôn Việt Nam
    • 2.4 Sơ đồ tư duy phân tích Chí Phèo

Hướng dẫn làm bài phân tích tác phẩm Chí Phèo củaNam Cao

1. Phân tích đề

– Yêu cầu đề bài: Phân tích nội dung, nghệ thuật thể hiện trong truyện ngắn Chí Phèo

– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các từ ngữ, chi tiết, hình ảnhtrong tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao.

– Phương pháp lập luận chính: phân tích.

2. Các luận điểm cần triển khai

– Luận điểm 1: Làng Vũ Đại – không gian nghệ thuật của truyện ngắn

– Luận điểm 2: Nhân vật Bá Kiến – điển hình cho loại địa chủ cường hào ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng

– Luận điểm 3: Hình tượng nhân vật Chí Phèo

Bài 3 trang 142 SGK Ngữ văn 11 tập 1

THPT Sóc Trăng Send an email
0 8 phút

THPT Sóc Trăng hướng dẫn trả lời câu hỏi bài 3trang 142sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 1 phần soạn bài Chí Phèo phần 1: Tác giảchi tiết nhất cho các em tham khảo.

Đề bài:

Viết về người trí thức nghèo và người nông dân cùng khổ, Nam Cao thường trăn trở, day dứt nhất về vấn đề gì?

Bạn đang xem: Bài 3 trang 142 SGK Ngữ văn 11 tập 1

Trả lời bài 3 trang 142 SGK Ngữ văn 11 tập 1

Để soạn bàiChí phèo phần 1: Tác giảtối ưu nhất, THPT Sóc Trăng tổng hợp nhiều cách trả lời khác nhau cho nội dung câu hỏi bài 3 trang 142 SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 như sau:

Bài viết gần đây
  • Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu

  • Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu [Thu điếu] của Nguyễn Khuyến

  • Bình giảng đoạn trích Tình yêu và thù hận

  • Phân tích đoạn trích Tình yêu và thù hận của Sếch-xpia

Cách trình bày 1

Các sáng tác trước CM tháng Tám của Nam Cao tập trung vào cuộc sống của người trí thức tiểu tư sản, cuộc sống của người nông dân.

⇒ Nỗi day dứt, đau đớn của tác giả trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, hủy hoại nhân cách trong xã hội.

Cách trình bày 2

– Viết về người trí thức nghèo: các nhân vật trong sáng tác là những nhà văn nghèo, những viên chức, những anh giáo khổ trường tư,… Họ mang nhiều hoài bão cao đẹp, lớn lao, khát khao được phát triển nhân cách, được đóng góp cho xã hội, được khẳng định trước cuộc đời. Nhưng họ bị xã hội bất công và cuộc sống nghèo đói “ghì sát đất”. Những hoài bão và ước mơ cao đẹp của họ bị vùi lấp một cách phũ phàng. Tác giả tập trung miêu tả và phân tích tình trạng “sống mòn” hay “chết mòn” của con người, Nam Cao đã phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi nhân đạo bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời thể hiện niềm khao khát một lẽ sống lớn, một cuộc sống có ích và có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.

– Ở đề tài người nông dân: Nam Cao phản ánh chân thật cuộc sống bi thảm, tối tăm của người nông dân sau lũy tre làng. Nhà văn quan tâm đến số phận khốn khổ của những người nông dân thấp cổ, bé họng, thường xuyên bị đè nén, bị áp bức. Ông đặc biệt đi sâu vào tình cảnh số phận những con người bị đày đọa vào cảnh nghèo đói, cùng đường, bị hắt hủi, lăng nhục một cách tàn nhẫn, bất công. Viết về hiện tượng người nông dân bị đẩy vào tình trạng tha hóa, lưu manh hóa, Nam Cao đã kết án đanh thép xã hội tàn bạo đã hủy hoại nhân tính của những con người bản chất vốn hiền lành. Nhà văn không hề bôi nhọ họ mà trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện của họ, ngay cả khi họ bị xã hội vùi dập, cướp mất cả nhân hình, nhân tính.

Cách trình bày 3

a. Ở mảng để tài người trí thức tiểu tư sản:

Ở mảng đề tài này, đóng góp nổi bật trước hết của Nam Cao là đã phán ánh một cách chân thực thực trạng buồn thảm, cơ cực của những người trí thức tiểu tư sán nghèo, đồng thời phần nào nhà văn cũng phác hoạ được bức tranh đen tối, u ám của xã hội Việt Nam đang đứng trước bờ vực thẳm của sự khủng hoảng trước Cách mạng.

Thông qua những bi kịch tinh thần của người trí thức tiểu tư sản nghèo, Nam Cao kết tội xã hội vô nhân đạo đã bóp nghẹt sự sống của con người, đẩy con người vào tình trạng chết mòn, tàn phá tâm hồn con người. Đồng thời nhà văn thể hiện cuộc đấu tranh kiên trì của những người này trước sự cám dỗ của lối sống ích kí, sự đầu độc của môi trường dung tục, từ đó ca ngợi lẽ sống nhân đạo và tình thương yêu.

b. Ở mảng đề tài người nông dân, Nam Cao cũng thường lấy nguyên mẫu từ những người quen biết, thân thuộc trong cái làng Đại Hoàng lam lũ của ông để xây dựng nên những dì Hảo, lão Hạc, lang Rận, Chí Phèo,…

Qua những sáng tác ở mảng đề tài này, Nam Cao đã phản ánh chân thật cuộc sống tối tăm, cực nhục của người nông dân sau lũy tre. Nhà văn thường quan tâm đến số phận khốn khổ của những người nông dân thấp cổ, bé họng, thường xuyên bị đè nén, áp bức nặng nề nhất. Đấy là những người cố cùng, lép vế, những người phụ nữ bất hạnh lấy phải chồng vũ phu,… Thông qua những số phận của họ, ông nêu lên tình trạnbất công ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng.

Ngoài những nhân vật nói trên, Nam Cao thường viết về những người chí vì đói quá nên đã bị lăng nhục, bị xúc phạm một cách tàn nhẫn, bất công [Một bữa no, Tư cách mõ, Lang Rận,…]. Đấy là những người cằn cỗi, u mê, thậm chí dị hình dị dạng, đầy thú tính, có khi gây nên những chuyện nhục nhã, xấu xa. Viết về quá trình tha hoá của những con người này, nhà văn đã có những phát hiện sâu sắc: Xã hội tàn bạo đã huỷ diệt cả thể xác lẫn tâm hồn của những người nông dân lương thiện, đẩy họ vào cuộc sống không lối thoát. Đồng thời, nhà văn cũng khắng định nhân cách và bản chất lương thiện của những con người này ngay cả khi họ dã bị xã hội độc ác cướp mất cả hình hài và tính cách con người.

Ngoài ra, với tư cách là một cây bút hiện thực nghiêm ngặt, Nam Cao cũng không ngần ngại chỉ ra những thói hư, tật xấu của người nông dân, phần do môi trường nghèo đói, phần do chính những con người này gây ra [Đòn chồng, Trẻ con không dược ăn thịt chó,…]. Tất cả những điều đó chứng tỏ chiều sâu hiện thực và nhân đạo trong ngòi bút của Nam Cao.

=> Có thể nói, dù viết về đề tài người nông dân hay người trí thức, vượt lên trên ý nghĩa cụ thể của đề tài, sáng tác của Nam Cao thường chứa đựng những nội dung triết học sâu sắc, có khả năng khái quái những quy luật chung của đời sống như vật chất và ý thức, hoàn cảnh và con người, môi trường và tính cách,… Nam Cao luôn trăn trở, day dứt về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người, luôn day dứt tới mức đau đớn trước tình trạng xã hội vô nhân đạo dã đầy đoạ con người vào trong sự nghèo đói, vùi dập những ước mơ, làm chết mòn đời sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của họ; đồng thời cũng đau đớn vô hạn trước tình trạng con người bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí huỷ diệt mất nhân tính.

Cách trình bày 4

Sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tâp trung chủ yếu vào hai để tài chính: Người tri thức nghèo và người nông dân nghèo.

Đề tài trí thức, đáng chú ý có các truyện ngắn Giăng sáng, Đời thừa, Những truyện không muốn viết, Mua nhà, Truyện tình, Quên điều độ, Cười, Nước mắt,… và tiểu thuyết Sống mòn.

Trong những tác phẩm này, Nam Cao đã miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội cũ, đặt ra những vấn đề có tầm triết luận sâu sắc, có ý nghĩa rất lớn vượt ra khỏi phạm vi đề tài. Họ là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sống và nhân phẩm, có hoài bão, có tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo gạo tiền và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho “chết mòn”, phải sống như một kẻ vô ích, một người thừa.

Không chỉ thành công trong sáng tác về tri thức, Nam Cao còn là cây bút xuất sắc khi viết về người nông dân. Ông để lại một gia tài đồ sộ viết về cuộc sống tối tăm, số phận bi thảm của người nông dân, tiêu biểu là các tác phẩm: Chí Phèo, Lão Hạc, Dì Hảo, Lang Rận, Một bữa no, Một đám cưới, Mua danh, Trẻ con không được ăn thịt chó,…Chí phèo xứng đáng là một kiệt tác.

Viết về đề tài này, Nam Cao đã dựng lên một bức tranh chân thực vể nông thôn Việt Nam nghèo xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê thảm những năm 1940 – 1945. Ông chú ý tới những con người thấp cổ bé họng, những số phận bi thảm. Họ càng hiền lành nhẫn nhục thì càng bị trà đạp tàn nhẫn, phũ phàng. Ông đi sâu vào tình cảnh, số phận của những con người bị đọa đầy vào cảnh nghèo đói, cùng đường bị hắt hủi,..Viết về đề tài người nông dân bị đẩy vào tình trạng tha hóa lưu manh, Nam Cao đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đã hủy hoại nhân tính con người – những con người vốn có bản tính hiền lành.

Dù viết về đề tài nào thì sáng tác của Nam Cao luôn chứa đựng nội dung triết học sâu sắc, có khả năng khái quát những quy luật đời sống như vật chất, ý thức, hoàn cảnh và con người, môi trường và tính cách,…Nam Cao luôn trăn trở về vấn đề nhân phẩm, về thái độ khinh trọng đối với con người, luôn day dứt đến mức đau đớn trước tình trạng xã hội vô nhân đạo đã đọa đày con người trong đói khổ, vùi dập ước mơ, làm chết mòn đời sống tinh thần và lẽ sống cao đẹp của họ.

Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao là cây bút tiêu biểu của văn học giai đoạn kháng chiến chống Pháp [1945 -1954]. Nhật ký Ở rừng [1948], truyện ngắn Đôi mắt [1948] là những tác phẩm tiêu biểu thời kỳ đầu kháng chiến.

>> Tham khảo:Thuyết minh về tác giả Nam Cao

Bài 3 trang 142 SGK Ngữ văn 11 tập 1được hướng dẫn trả lời và trình bày theo các cách khác nhau. Hãy vận dụng kết hợp với kiến thức của bản thân em để có những lựa chọn trình bày tối ưu nhất, dễ hiểu nhất khi soạn bài Chí phèo phần 1: Tác giảtrong khi làm bài soạn văn 11 trước khi lên lớp.

Trả lời câu hỏi bài 3 trang 142 SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1 phần hướng dẫn soạn bài Chí Phèo phần 1: Tác giả

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Giáo dục

Tags
Ngữ Văn lớp 11
THPT Sóc Trăng Send an email
0 8 phút

Bài mẫu số 1: Phân tích cách nhìn người nông dân của Nam Cao qua truyện ngắn Lão Hạc?

1. Xuất phát từ quan điểm "Nghệ thuật vị nhân sinh": Cách nhìn của nhà văn là cách nhìn của một con người luôn thấu hiểu , đồng cảm với nỗi đau khổ của người khác . Nhà văn luôn thấu hiểu nỗi khổ về vật chất và tinh thầnh của người nông dân. Là người sống gần gũi , gắn bó với người nông dân Nam Cao đã nhìn sâu hơn vào nỗi đau tinh thần của nhà văn.

2. Bằng cái nhìn yêu thương trân trọng, Nam Cao đã nhận ra vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của lão Hạc trong cuộc sống không phải giành cho con người.

a. Nhà văn nhận thấy từ thẳm sâu tâm hồn lão Hạc tấm lòng nhân hậu thật đáng quý

Nam Cao đã nhận ra tình cảm thân thiết máu thịt của con người dành cho con người.

Nam Cao còn phát hiện ra nỗi ân hận cao thượng và đức tính trung thực của Lão Hạc qua việc bán con chó

Nhà văn càn nhận thấy ở người cha còm cõi xơ xác như lão Hạc tình yêu thương con sâu nặng

b. Với phương chấm cố tìm mà hiểu, Nam Cao đã phát hiện ra đằng sau vẻ ngoài xấu xí gàn dở của Lão Hạc là lòng tự trọng và nhân cách trong sạch của lão Hạc

Mở rộng: Có thể so sánh cách nhìn trân trọng đối với người nông dân của Nam Cao và cách nhìn có phần miệt thị, khinh bỉ người nông dân của Vũ Trọng Phụng. Trong tiểu thuyết Vỡ đê, Vũ Trọng Phụng tả người nông dân như những con người không có ý thức không cảm xúc, coi họ như những bọn người xấu xa, đểu cáng. Thấy được cái nhìn của Nam Cao là cái nhìn tiến bộ và nhân đạo sâu sắc.

3. Là cách nhìn có chiều sau tràn đầy lạc quan tin tưởng.

Nam Cao nhìn người nông dân không phải bằng thứ tình cảm dửng dưng của kẻ trên hướng xuống dưới, càng không phải là hời hợt phiến diện.

Nam Cao luôn đào sâu, tìm tòi khám phá những ẩn khuất trong tâm hồn của lão Hạc, từ đó phát hiện ra nét đẹp đáng quý :Đó là cái nhìn đầy lạc quan tin tưởng vào phẩm hạnh tốt đẹp của người nông dân.

Trước cách mạng, không ít nhân vật của Nam cao đều bị hoàn cảnh khuất phục, làm thay đổi nhân hình lẫn nhân tính. Vậy mà kì diệu thay hoàn cảnh khắc nghiệt đã không khiến một lão Hạc lương thiện thay đổi được bản tính tốt đẹp .....

Lão đã bảo toàn nhân cách cao cả của mình để tìm đến cái chết : "Không cuộc đời chưa hẳn đã đấng buồn........." thể hiện niềm tin của nhà văn vào nhân cách vào sự tồn tại kiên cường vào cái tốt .

Như vậy chúng tôi đã gợi ý Phân tích cách nhìn người nông dân của Nam Cao qua truyện ngắn Lão Hạc? bài tiếp theo, các em chuẩn bị cho phần Nêu cảm nghĩ nổi bật nhất về truyện ngắn Lão Hạc và cùng với phần Kể về lão Hạc, Binh Tư cho rằng lão cũng ra phết chứ chẳng vừa đâu. Viết đoạn văn nêu ý kiến của em để có thể hiểu rõ hơn về nội dung này.

Video liên quan

Chủ Đề