Đối tượng nghiên cứu của khoa học xã hội
các đối tượng nghiên cứu của khoa học là những hiện tượng xảy ra trong tự nhiên và xã hội, mà kiến thức của chúng ta cho phép chúng ta giải thích các sự kiện và dự đoán chúng, một cách hợp lý. Show Giải thích chúng một cách hợp lý có nghĩa là chúng ta không để bất kỳ ý tưởng định kiến, chính trị hay tôn giáo nào can thiệp vào cách nghiên cứu khoa học. Đối tượng nghiên cứu của khoa học đặt ra câu hỏi một khi nó được quan sát. Khoa học cố gắng giải quyết các câu hỏi thông qua một thiết kế thí nghiệm. Điều này xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học và giới hạn nghiên cứu sẽ được thực hiện. Phân loại khoa học dựa trên đối tượng nghiên cứuChúng ta có thể tổ chức các ngành khoa học dựa trên đối tượng nghiên cứu của họ. Khoa học chính thức hoặc eideticKhoa học chính thức là một trong những nghiên cứu ý tưởng. Điều này có nghĩa là nó không chịu trách nhiệm nghiên cứu các đối tượng hoặc thực tế, nhưng những gì xung quanh chúng. Thông qua phương pháp suy luận, có những mô hình có thể được áp dụng vào thực tế. Nghiên cứu các đối tượng lý tưởng được tạo ra bởi con người, và không giống như khoa học tự nhiên, chứng minh kết quả của họ theo kinh nghiệm; các khoa học chính thức tranh luận về tính hợp lệ của chúng với các lý thuyết dựa trên các mệnh đề, định nghĩa, tiên đề và quy tắc suy luận. Logic và toán học là một phần của khoa học chính thức. LogicĐối tượng nghiên cứu của logic là suy luận. Chúng ta có thể định nghĩa suy luận là sự đánh giá mà tâm trí đưa ra giữa các mệnh đề. Nói một cách trần tục, chúng ta có thể định nghĩa làm thế nào để rút ra một hệ quả từ người khác. Logic điều tra tại sao một số suy luận là hợp lệ và những người khác thì không. Một suy luận được chấp nhận khi nó có cấu trúc logic. Có hai loại suy luận, suy luận và cảm ứng. Ví dụ cảm ứngTất cả các con bò là động vật có vú và có phổi, tất cả con người là động vật có vú và có phổi, do đó, có lẽ tất cả các động vật có vú đều có phổi Ví dụ về khấu trừTất cả bạn cùng lớp của tôi đều là sinh viên, họ là sinh viên, vì vậy, tôi là sinh viên. Như chúng ta thấy trong ví dụ, đối tượng nghiên cứu logic là các ý tưởng, không tập trung vào một sự kiện cụ thể xảy ra, mà là các ý tưởng xung quanh nó. Toán họcĐối với toán học, đối tượng nghiên cứu là các thuộc tính và mối quan hệ giữa các thực thể trừu tượng như số, hình hình học hoặc ký hiệu. Đó là một tập hợp các ngôn ngữ chính thức được sử dụng để đặt ra các vấn đề một cách rõ ràng. Ví dụ: chúng ta có thể nói rằng X lớn hơn Y và Y lớn hơn Z. Để đặt nó theo cách đơn giản hơn, chúng ta có thể sử dụng ngôn ngữ toán học và kết quả là một câu lệnh X> Y> Z. Toán học đơn giản hóa ngôn ngữ được sử dụng trong các khái niệm trừu tượng để giải thích các vấn đề. Khoa học tự nhiên sử dụng toán học để giải thích và chứng minh lý thuyết của họ và cho họ sự gắn kết. Khoa học thực tếNhững khoa học này là những người có mục đích nghiên cứu thực tế. Chúng được nghiên cứu thông qua các sự kiện dựa trên quan sát và thử nghiệm. Trong các ngành khoa học thực tế, chúng ta có thể phân biệt dựa trên đối tượng nghiên cứu, giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Khoa học tự nhiênKhoa học tự nhiên là những ngành nghiên cứu hoạt động của vũ trụ và thế giới xung quanh chúng ta. Là một đối tượng nghiên cứu, họ có bản chất và họ sử dụng một phương pháp thực nghiệm để chứng minh giả thuyết của mình. Để hạn chế đối tượng nghiên cứu của mình, các ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu các khía cạnh vật lý của thực tế, cố gắng tránh các hành động của con người trong các giả thuyết của họ. Ngay cả khi có một đối tượng nghiên cứu khác với khoa học eidetic, khoa học tự nhiên dựa vào những điều này để phát triển mô hình nghiên cứu của họ, đặc biệt là về logic và toán học. Tất cả các ngành khoa học đều dựa vào lý luận logic để giải thích các giả thuyết của họ. Trong khoa học tự nhiên, chúng ta có thể phân biệt hai phạm trù rộng lớn là khoa học vật lý và khoa học sinh học. Trong ngành khoa học vật lý, chúng ta thấy mình đầu tiên với thiên văn học. Trong thiên văn học, đối tượng nghiên cứu là các thiên thể. Chúng tôi tiếp tục với vật lý, mà đối tượng nghiên cứu là không gian, thời gian, vật chất và năng lượng. Ngoài địa chất, nghiên cứu về Trái đất và hóa học, nó còn nghiên cứu thành phần của vật chất và các phản ứng của nó. Mặt khác, trong khoa học sinh học, đối tượng nghiên cứu là những sinh vật sống. Nhánh lớn nhất của nghiên cứu là sinh học, lần lượt được chia thành các phần nhỏ xác định đối tượng nghiên cứu của nó. Thực vật học và động vật học là hai nhánh của nó, trong đó đối tượng nghiên cứu là thực vật và động vật tương ứng. Sinh học, trong nghiên cứu của con người, chỉ tập trung vào các đặc điểm vật lý của cơ thể, vì tương tác trong xã hội là đối tượng nghiên cứu trong khoa học xã hội. Khoa học xã hộiCác khoa học xã hội được đặc trưng bởi vì đối tượng nghiên cứu của họ là con người trong xã hội và các tương tác của họ. Điều quan trọng là phải phân biệt giữa khoa học xã hội và nghiên cứu xã hội. Mặc dù đối tượng nghiên cứu là như nhau, nhưng trong khoa học xã hội, một phương pháp quy nạp hỗn hợp phải được tuân theo, đó là phương pháp được sử dụng để nghiên cứu khoa học tự nhiên. Tuy nhiên, các nghiên cứu xã hội dựa trên lý luận và quan sát, và mặc dù theo lý luận logic, không theo mô hình khoa học. Trong các ngành khoa học xã hội, chúng tôi tìm thấy một số nhóm tùy thuộc vào đối tượng nghiên cứu của họ. Có những ngành khoa học xã hội là đối tượng nghiên cứu sự tương tác của xã hội, như khoa học chính trị, nhân chủng học, kinh tế và xã hội học. Mặt khác, chúng ta cũng có các ngành khoa học tập trung vào đối tượng nghiên cứu hệ thống nhận thức của con người. Trong những điều này, chúng tôi tìm thấy ngôn ngữ học, bán và tâm lý học. Cuối cùng, có những ngành khoa học xã hội dựa trên đối tượng nghiên cứu về sự tiến hóa của các xã hội, như khảo cổ học, nhân khẩu học, lịch sử, sinh thái nhân văn và địa lý. Tài liệu tham khảo
(Last Updated On: 11/02/2022) Xã hội học được xem là khoa học về các quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội và các hình thái biểu hiện cụ thể của các quy luật ấy trong những điều kiện lịch sử khác nhau. Cho nên, cũng như tất cả các bộ môn khoa học khác, xã hội học là một khoa học độc lập, có đầy đủ các tiêu chí để khẳng định vị trí của nó trong nền khoa học thế giới:
1. Định nghĩa về xã hội họcCó nhiều cách định nghĩa khác nhau về xã hội học, tùy thuộc vào hướng và cấp độ tiếp cận. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều có những điều thống nhất, khái quát về các vấn đề cơ bản sau: Xã hội học là một khoa học nghiên cứu về xã hội loài người, thông qua các hành vi, các hoạt động của con người trong đời sống xã hội, trong điều kiện lịch sử xã hội cụ thể. Các nhà Xã hội học mác-xít nhấn mạnh: đó là khoa học về những quy luật phổ biến và đặc thù của sự phát triển các hình thái kinh tế – xã hội, về cơ chế hoạt động và hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động của các cá nhân, các tập đoàn, các giai cấp trong xã hội, dân tộc. Một số định nghĩa thường gặp về xã hội học:
Tóm lại: xã hội học là khoa học nghiên cứu có hệ thống xã hội loài người với sự nhấn mạnh vào các hệ thống xã hội hiện đại và công nghiệp hóa. Phạm vi nghiên cứu của xã hội học là rất rộng: các nhà xã hội học nghiên cứu tất cả các mối quan hệ của con người, các nhóm, các thể chế, và các xã hội. Tình yêu, hôn nhân, sức khoẻ, bệnh tật, tội phạm và hình phạt cũng là phạm vi nghiên cứu của xã hội học. Xã hội học nghiên cứu các quan hệ xã hội của chủ thể xã hội, nó nghiên cứu trạng thái xã hội trong từng giai đoạn cụ thể, nghiên cứu những mối tác động qua lại trong những khu vực dân cư, tập thể lao động, nhóm gia đình và xã hội. Xã hội học bao giờ cũng gắn liền với một thế giới quan triết học nhất định, xã hội học Việt Nam dựa trên nền tảng chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng HCM. Xem thêm: Xã hội là gì? 2. Đối tượng nghiên cứu“Xã hội học nghiên cứu đời sống xã hội, các nhóm và các tổ chức của con người một cách đầy thú vị. Phạm vi nghiên cứu xã hội học là rất rộng, từ việc phân tích sự gặp gỡ giữa con người với nhau trên đường phố đến các quá trình xã hội trên thế giới”. – Anthony Giddens (“Sociology”, 1989). Có nhiều quan niệm khác nhau về đối tượng của Xã hội học. Tuy nhiên, xem xét toàn bộ lịch sử phát triển của Xã hội học thế giới, có ba khuynh hướng chính trong cách tiếp cận Xã hội học như sau:
Cấu trúc xã hội thường được Xã hội học nghiên cứu dưới hai nhóm vấn đề: + Một là, những nhóm, cộng đồng xã hội cấu thành hệ thống cấu trúc ấy với tất cả những phân hệ cấu trúc của nó. + Hai là, những mối liên hệ tác động lẫn nhau giữa những cấu thành xã hội được định hình dưới dạng những thiết chế xã hội, những chuẩn mực giá trị quy định cơ chế hoạt động đặc thù của từng hệ thống xã hội riêng. – Khuynh hướng tiếp cận tổng hợp: Xã hội loài người và hành vi xã hội của con người là đối tượng nghiên cứu của xã hội học. Tóm lại, đối tượng nghiên cứu của Xã hội học chính là hành vi xã hội của con người, của các hoạt động tương tác giữa người và người trong những nhóm và cộng đồng xã hội phân theo những dấu hiệu xã hội đặc thù. Xã hội học nghiên cứu những quy luật và tính quy luật chi phối mối quan hệ và liên hệ tạo thành hệ thống tổng thể xã hội. Có thể coi đây là những vấn đề cơ bản nhất, chính yếu nhất về đối tượng của Xã hội học. 3. Cơ cấu của Xã hội họcLà một ngành khoa học độc lập, xã hội học cũng có cơ cấu của nó. Nói đến cơ cấu của Xã hội học cần phải hiểu Xã hội học gồm những bộ phận nào và mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận đó ra sao trong quá trình nhận thức xã hội. Có nhiều các trình bày khác nhau về cơ cấu của Xã hội học. Phổ biến nhất là hai cách xem xét về cơ cấu của Xã hội học dựa trên hai cơ sở khác nhau sau:
Ngoài ra, người ta có thể chia Xã hội học làm hai bộ phận: Xã hội học vi mô và Xã hội học vĩ mô. 4. Chức năng của Xã hội họcTrong nhiều công trình nghiên cứu về Xã hội học gần đây và theo xu hướng chung, người ta khẳng định Xã hội học có ba chức năng cơ bản sau:
Chức năng nhận thứcThực tế Xã hội học là một hệ thống tri thức về lĩnh vực đối tượng mà nó nghiên cứu. Xã hội học có vai trò lớn trong việc làm cho tri thức nhân loại phát triển đa dạng, phong phú hơn. Đặc biệt trong việc phát triển tư duy, khả năng sáng tạo, óc phân tích, khái quát trong các hoạt động tư duy của con người. Xã hội học trang bị cho chúng ta tri thức về những quy luật khách quan của sự vận động, phát triển của các hiện tượng, các quá trình xã hội… Xã hội học đã góp phần hệ thống hoá những hiểu biết của con người về xã hội, góp phần sáng tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh về xã hội, cũng như các bộ phận, các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Xã hội học với cơ sở lý luận của mình giúp chúng ta nhận thức sâu hơn về sự phát triển tương lai của xã hội. Thông qua các nghiên cứu Xã hội học thực nghiệm, Xã hội học tạo cơ sở khách quan cho việc nhận biết đúng bản chất khuynh hướng, tính quy luật của các quá trình và các hiện tượng xã hội đang xảy ra hàng ngày xung quanh Chức năng thực tiễnChức năng thực tiễn bắt nguồn từ bản chất của thực tiễn khoa học, bao gồm yếu tố tiên đoán. Dựa vào sự phân tích hiện trạng của xã hội và những mặt, những quá trình riêng lẻ của nó, Xã hội học có nhiệm vụ làm sáng tỏ triển vọng vận động của xã hội trong tương lai sắp đến cũng như tương lai xa hơn. Chức năng thực tiễn của Xã hội học không tách rời những kiến nghị mà khoa học đưa ra khi đáp ứng những yêu cầu của các cơ quan quản lý nhằm củng cố mối liên hệ giữa khoa học xã hội với đời sống, với thực tiễn, đang tạo điều kiện phát huy hơn nữa chức năng thực tiễn của Xã hội học, nâng cao hơn nữa vai trò của nó trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Biểu hiện của chức năng thực tiễn: + Biểu hiện cụ thể của chức năng thực tiễn là chức năng quản lý hoặc chỉ đạo của Xã hội học. Đây được xem như một chức năng cơ bản phổ biến nhất của Xã hội học. Xã hội học không phải là khoa học quản lý, nhưng tất cả các hoạt động quản lý kể cả quản lý kinh tế, hành chính hay nhân sự chỉ trở nên tối ưu khi mà biết sử dụng tốt các kết luận, nhận định và dự báo của Xã hội học. + Chức năng thực tiễn của Xã hội học còn thể hiện rõ một cách cụ thể hơn trong các đơn vị cần thiết cho mọi hoạt động quản lý, được gọi là sự dự báo (dự đoán). Hoạt động này nhằm xác định cái tối ưu trong nhiều khả năng biến thể để thực hiện một xu thế tự nhiên trong một lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội và trong một thời gian ấn định chặt chẽ, trước hết trên cơ sở các phương pháp định lượng. Trên cơ sở nhận diện được hiện trạng xã hội thực tại và sử dụng các lý thuyết dự báo, các nhà Xã hội học sẽ mô tả được triển vọng vận động của xã hội trong tương lai gần cũng như tương lai xa hơn. Dự báo xã hội là một thế mạnh của xã hội học. Có thể nói, trong tất cả các môn khoa học xã hội thì Xã hội học có chức năng dự báo mạnh nhất và hiệu quả nhất. Ngoài ra, các phương pháp, các kỹ thuật thao tác, các cách thức tiếp cận xã hội của Xã hội học được các ngành khoa học khác nhau cũng như các lĩnh vực khác nhau của kinh tế, chính trị, văn hóa,… sử dụng như một công cụ hữu ích và hết sức cần thiết trong quá trình hoạt động. Có thể thấy rõ điều đó qua các cuộc thăm dò dư luận xã hội trước các cuộc tranh cử, hay các phương pháp điều tra của Xã hội học được ứng dụng vào việc thăm dò nhu cầu, thị hiếu khách hàng trong marketing. Do vậy “Xã hội học sẽ làm một công cụ hữu hiệu để cho con người có thể xây dựng cho mình một xã hội tốt đẹp hơn”. Chức năng tư tưởngTrong việc giáo dục tư tưởng cho quần chúng, lý luận Xã hội học chung của chủ nghĩa Marx – Lenin – chủ nghĩa duy vật lịch sử – đóng một vai trò then chốt, vì nó vũ trang cho mọi người tri thức về quy luật khách quan của sự phát triển xã hội, luận chứng cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa, vạch ra con đường xây dựng xã hội mới. Khi vạch ra các quy luật phát triển các mặt và các quá trình riêng lẻ của hiện thực xã hội chủ nghĩa trong mối liên hệ với những quy luật phát triển phổ biến của chủ nghĩa xã hội, Xã hội học Mác–Lênin giúp cho con người ý thức được sức mạnh của mình, vị trí của mình đầy đủ và tốt hơn trong quá trình xã hội, góp phần nâng cao tính tích cực xã hội của quần chúng. Xã hội học Marx – Lenin cũng đóng một vai trò giáo dục quan trọng giúp phát triển và hình thành tư duy khoa học, tạo điều kiện hình thành thói quen suy xét trên quan điểm duy vật và biện chứng đối với các hiện tượng của đời sống xã hội, giúp nâng tư duy thông thường thành tư duy khoa học. Mặt khác, chức năng tư tưởng Xã hội học Marx – Lenin là đấu tranh chống những trào lưu tư tưởng phủ định chủ nghĩa Marx – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính Đảng của khoa học xã hội có nghĩa là công khai bảo vệ lợi ích sự nghiệp của giai cấp công nhân, sự nghiệp cải tạo và xây dựng xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 5. Nhiệm vụ của Xã hội họcXã hội học có 3 nhiệm vụ chính: nghiên cứu lí luận, nghiên cứu thực nghiệm và nghiên cứu ứng dụng. Các nhiệm vụ này đều nhằm thực hiện những chức năng cơ bản trên của XHH. Nhiệm vụ nghiên cứu lí luận: + Nhiệm vụ hàng đầu của XHH là xây dựng và phát triển hệ thống các khái niệm, phạm trù, lý thuyết khoa học riêng mang tính đặc thù của nó. + XHH có nhiệm vụ hình thành và phát triển công tác nghiên cứu lý luận để vừa củng cố bộ máy khái niệm vừa tìm tòi và tích lũy tri thức tiến đến phát triển nhảy vọt về chất trong lý luận và PPNC trong hệ thống khái niệm và tri thức khoa học. Nhiệm vụ nghiên cứu của XHH hướng đến hình thành và phát triển hệ thống lý luận, PPNC và tổ chức nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống về những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm đáp ứng y/c phát triển KT – XH của đất nước ta. Nhiệm vụ Nghiên cứu thực nghiệm: XHH tiến hành nghiên cứu thực nghiệm để: + Kiểm nghiệm, chứng minh các giả thuyết khoa học trong nghiên cứu; + Phát hiện, xây dựng những bằng chứng làm cơ sở cho việc sửa đổi, hoàn thiện các khái niệm, lí thuyết và PP luận nghiên cứu, kích thích hình thành và phát triển tư duy khoa học mới; + Kích thích và hình thành tư duy thực nghiệm; + Hướng đến vạch ra cơ chế, điều kiện hoạt động và hình thức biểu hiện của các quy luật XHH làm cơ sở cho việc đưa tri thức vào cuộc sống; Nghiên cứu thực nghiệm được xem là chiếc cầu nối giữa lý luận và thực tiễn. Khi thực hiện n/v này, trình độ lý luận và kỹ năng nghiên cứu của các nhà XHH cũng được nâng lên. Nhiệm vụ Nghiên cứu ứng dụng: + XHH quan tâm đặc biệt đến những nghiên cứu ứng dụng liên quan đến những vấn đề lí luận và thực tiễn của CNXH: bình đẳng và tiến bộ xã hội, tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế… + Nghiên cứu ứng dụng trong XHH hướng đến việc đề ra các giải pháp vận dụng những phát hiện của nghiên cứu lý luận và nghiên cứu thực nghiệm vào thực tiễn nhằm giải quyết những vấn đề xã hội mới: …. Cần đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách giữa tri thức lý luận, tri thức thực nghiệm với hoạt động thực tiễn và đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển KT-XH nước ta, XHH đã và đang tích cực nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề nảy sinh và góp phần đề ra các biện pháp thực tiễn có tính khả thi cao. Liên hệ với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, XHH có nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề: + Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; + Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; + Các chính sách đảm bảo tiến bộ xã hội và công bằng xã hội; + Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; + Tăng cường vai trò lãnh đạo và chiến đấu của Đảng; + Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; + Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo con đường XHCN… Có thể khẳng định, sức sống mãnh liệt của XHH với tư cách là một KH, một ngành đào tạo thể hiện rõ trong việc thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, thực nghiệm và ứng dụng để giải quyết các vấn đề của cuộc sống. |