Cuộc kháng chiến chống quân Tống của nhà Lý

Để chiếm Đại Việt nhà Tống âm mưu sử dụng lực lượng quân sự Chiêm Thành quấy phá, làm suy yếu ta và tạo thành mũi tấn công phối hợp từ phía Nam. Đó là chiến lược hai gọng kìm cùng một lúc tấn công Đại Việt từ hai phía Bắc và Nam.

         Để thực hiện âm mưu đó, năm 1074, trong khi ở Trung Quốc, Tống Thần Tông xuống chiếu cử Lưu Di giữ chức trấn thủ Quế Châu, chuyên công việc điều động binh mã, tích trữ lương thảo, xây dựng căn cứ Ung – Khâm – Liêm, thì ở phía Nam, quân Chiêm Thành cũng liên tục cướp phá và xâm phạm lãnh thổ nước ta. Quân Chiêm Thành đã được lệnh áp sát biên giới chuẩn bị đánh Đại Việt.

         Về phía Đại Việt vào thời điểm này đang là thời kỳ cường thịnh, nền quốc phòng ngày càng vững mạnh. Vì vậy, nhân dân ta bước vào thời kỳ kháng chiến chống Tống lần thứ hai trong tư thế hoàn toàn chủ động. Bấy giờ vua Lý Nhân Tông còn nhỏ tuổi, Thái Uý Lý Thường Kiệt ở cương vị như một tể tướng đóng vai trò chủ yếu điều hành công việc triều chính. Ông cũng trực tiếp lãnh đạo cuộc chiến tranh, sự lớn mạnh về mọi mặt của đất nước cho phép Lý Thường Kiệt đối phó với âm mưu xâm lược của nhà Tống một cách cương quyết chủ động. Nhưng đối với một kẻ thù lớn hiếu chiến và thâm hiểm như quân Tống, Lý Thường Kiệt không bao giờ chủ quan, mất cảnh giác. Những năm 1074 và 1075, quân Chiêm lại liên tục quấy phá ta để chuẩn bị lực lượng tấn công với quân Tống, Lý Thường Kiệt quyết định tiến công trước, nhằm tiêu diệt và khống chế quân Chiêm Thành, ngăn chặn mối hiểm họa từ phương Nam đất nước, đồng thời, làm phá sản âm mưu lôi kéo sử dụng lực lượng quân sự Chiêm Thành làm mũi tiến công thứ hai của nhà Tống. Nhờ đó, nhà Lý có thể rảnh tay ở phía Nam để tập trung đối phó với việc uy hiếp của quân Tống ở phương Bắc.

         Trong năm 1075, nhà Tống khẩn trương điều quân bắt lính ở vùng Quảng Châu, Quảng Đông, Quảng Tây. Quân đồn trú được tăng cường. Chúng triển khai chiếm giữ những nơi quan yếu trên tuyến biên giới. Năm liên trại lớn: Hoành Sơn, Thái Bình, Long Châu, Cổ Vạn và Tư Minh được xây dựng, trở thành vị trí án ngữ xây dựng ở phía trước, bảo vệ cho Ung – Khâm – Liêm. Đến giữa năm 1075, về cơ bản nhà Tống đã hoàn thành việc động binh và triển khai lực lượng phía trước. Hơn 10 vạn quân cùng với nhiều lương thảo, phương tiện chiến tranh đã được tập trung ở các kho, trại và căn cứ Ung – Khâm – Liêm đã được xây dựng thành bàn đạp tấn công xâm lược. Chỉ chờ 6 vạn quân chủ lực, tinh nhuệ từ phía Bắc xuống là vua Tống có thể ra lệnh xuất chinh.

         Nhờ có tin tức tình báo, với tầm nhìn chiến lược sắc sảo của mình, Lý Thường Kiệt đã phán đoán tình hình, phân tích tương quan lực lượng giữa ta và địch. Khi mọi lực lượng kháng chiến của Đại Việt đã sẵn sàng, khi mà sự chuẩn bị của nhà Tống đang ở giai đoạn cuối, Lý Thường Kiệt đã đề ra chủ trương chiến lược “ Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để chặn mũi nhọn của chúng và ông quyết định đánh trước địch, giáng đòn phủ đầu quân Tống, triệt phá hoàn toàn căn cứ xuất phát tấn công xâm lược của giặc, buộc chúng phải chuẩn bị lại từ đầu, đẩy lùi thời gian mở cuộc tấn công xâm lược của nhà Tống”[1]. Tư duy chiến lược sáng tạo và độc đáo trong chỉ đạo chiến tranh của Lý Thường Kiệt đã san bằng căn cứ Ung – Khâm – Liêm của địch trong vòng 3 tháng. Đồng thời Lý Thường Kiệt đã chặn được mũi nhọn của giặc, đẩy địch rơi vào thế bị động ngay từ đầu, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

         Khi mục đích của cuộc tập kích đã đạt được, Lý Thường Kiệt ra lệnh rút quân về nước chuẩn bị đánh địch trên đất mình. Đây là một quyết định bất ngờ đối với quân giặc. Ý định dùng Ung Châu để giữ chân quân Đại Việt của địch không đạt được. Một lần nữa Lý Thường Kiệt đã phán đoán đúng âm mưu của địch, đã khéo léo tính toán, xử lý nhanh, chủ động rút quân về phòng thủ đất nước.

         Biết thế nào quân Tống cũng sẽ mang quân sang để trả thù và lấy lại uy thế, sau khi rút quân về nước, Lý Thường Kiệt đã chủ trương xây dựng một trận địa phòng ngự vững chắc, để chặn đứng quân xâm lược, bảo vệ an toàn cho kinh đô Thăng Long. Ý đồ chiến lược của Ông là bằng phòng ngự chiến lược, chặn đứng, phá thế tiến công của địch, giam hãm quân Tống trong tình trạng bị tiêu hao, mệt mỏi, thiếu lương thực, không viện binh, tạo thời cơ để phản công, tiến công tiêu diệt chúng. Có thể nói, đây là một điểm độc đáo về mặt chiến lược chưa từng thấy trong lịch sử chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta; chứng tỏ tính chủ động, sáng tạo của tư tưởng quân sự Lý Thường Kiệt.

         Mặc dù bị quân đồn trú, quân địa phương và dân binh Đại Việt chặn đánh quyết liệt, nhưng trong thế tiến công mãnh liệt, 30 vạn quân Tống đã nhanh chóng chọc thủng tuyến phòng thủ vòng ngoài và tiến sâu vào lãnh thổ nước ta. Thế nhưng quân Tống không thể vượt sông được khi chỉ còn cách kinh đô Thăng Long khoảng 20Km nữa, phải chờ đợi sự hỗ trợ của đạo thủy quân do Dương Tùng Tiên chỉ huy; trong khi đó, chính đạo quân này đã bị Lý Kế Nguyên đánh tan ở sông Đông Kênh. Càng đóng lại lâu ngày, quân giặc càng sa vào thế bị động, càng bị tiêu hao, lương thiếu, binh mệt lại phải chống đỡ khắp nơi. Bởi thế, chủ tướng Quách Quỳ phải hủy bỏ kế hoạch tiến công "đánh nhanh thắng nhanh", chỉ lo phòng giữ, ra lệnh “ ai bàn đánh sẽ bị chém”. Như vậy, bằng phòng ngự chiến lược, Lý Thường Kiệt đã làm thất bại chiến lược tiến công của quân Tống buộc chúng phải chuyển sang phòng ngự bị động.

         Khi quân Tống đang ngày càng khó khăn, khốn quẫn, Lý Thường Kiệt đã chớp lấy thời cơ, chuyển sang phản công, tiến công tiêu diệt quân địch. Đây lại là một quyết định chiến lược sáng suốt và táo bạo, thể hiện tính chủ động và tài năng chỉ đạo chiến lược của ông. Với thắng lợi to lớn của đợt tiến công, quân ta đã dồn quân Tống đến chỗ bế tắc, buộc bọn tướng lĩnh chỉ huy phải lựa chọn một trong hai giải pháp: Hoặc là ngoan cố tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh để rồi không tránh khỏi sự tiêu diệt hoàn toàn, hoặc chấp nhận rút quân về nước chấm dứt chiến tranh giữ “thể diện Thiên Triều”. Đúng lúc này, Lý Thường Kiệt đã chủ động “dùng biện sĩ để bàn hoà, không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu, mà vẫn bảo tồn được tôn miếu xã tắc”. Đây là chủ trương kết hợp giữa đánh địch và thương lượng, giữa quân sự và ngoại giao, buộc vua Tống ra lệnh bãi binh và từ bỏ ý đồ xâm lược Đại Việt. Đồng thời, cũng là nghệ thuật kết thúc chiến tranh độc đáo của Lý Thường Kiệt.

[1] Bách khoa tri thức quốc phòng toàn dân - nxb ctqg, h. 2003, tr.18.

Giữa thế kỷ XI, quân Tống xâm lược nước ta, vua tôi nhà Lý đồng lòng đánh tan quân địch. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống là một dấu mốc quan trọng trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Cùng DINHNGHIA.COM.VN tìm hiểu cụ thể trong bài viết dưới đây nhé!

Giai đoạn thứ I [1075]

Nhà Tống âm mưu xâm lược nước ta

  • Vào những năm 70 của thế kỷ XI, trong lúc Đại Việt đang phát triển thì nhà Tống bước vào giai đoạn khủng hoảng, phía bắc bị người Liêu, Hạ xâm lấn, trong nước nông dân nổi dậy ở nhiều nơi. Vì vậy, để giải quyết khó khăn về kinh tế – xã hội trong nước và bành trướng thế lực, nhà Tống đã xâm lược nước ta
  • Nhà Tống ban hành lệnh cấm buôn bán ở biên giới , dụ dỗ các tù trưởng dân tộc, xúi giục Chămpa đánh lên phía nam với mục đích làm suy giảm  lực lượng của nhà Lý.

Nhà Lý chủ động tấn công để phòng về

Sự chuẩn bị của nhà Lý

  • Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Tống lần 2, nhà Lý tăng cường lực lượng quốc phòng, cử Lý Thường Kiệt là chỉ huy cuộc kháng chiến
  •  Lý Thường Kiệt chủ trương : ”tiến công trước để tự vệ”, ông nói: “Ngồi yên đợi giặc, không bằng đem quân đánh trước để chặn thế mạnh của giặc”
  •  Các tù trưởng đánh lại các cuộc quấy phá của nhà Tống
  •  Ở phía Nam, đánh bại ý đồ phối hợp của nhà Tống và Chăm pa
Sự chuẩn bị của nhà Lý

Diễn biến cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống

  • Mục tiêu của quân ta: Đánh vào căn cứ xuất phát, địa điểm tập trung lương thực, vũ khí của nhà Tống bao gồm: thành Ung Châu, Châu Khâm, Châu Liêm
  • Vào cuối năm 1075, 10 vạn quân ta , chia làm 2 đạo tiến vào đất Tống:

+ Đạo quân bộ vượt biên giới đánh lên thành Ung Châu

+ Lý Thường Kiệt chỉ huy quân thủy, đổ bộ vào Châu Khâm rồi từ đó  tiến về phía thành Ung Châu.

  •  Trên đường tiến quân, ta treo bảng nói rõ mục đích của mình là tự vệ chứ không phải xâm lược, nhờ đó mà tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân Trung Quốc
  •  Sau 42 ngày đêm công phá, quân ta chiếm được thành, sau đó rút quân về và chuẩn bị  phòng tuyến chặn địch ở trong nước.
Diễn biến cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống

Ý nghĩa: là một đòn phủ đầu làm cho quân Tống hoang mang, bị động, từ đó làm chậm lại cuộc tấn công xâm lược Đại Việt của Nhà Tống

Giai đoạn thứ II [1076-1077]

Kháng chiến bùng nổ

Sự chuẩn bị của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống giai đoạn II

  • Sau khi rút quân khỏi thành Ung Châu, Lý Thường Kiệt bố trí quân mai phục ở biên giới, cử Lý Kế Nguyên giữ vùng biển Quảng Ninh để chặn quân thủy.
  • Xây dựng tuyến phòng vệ Sông Cầu [sông Như Nguyệt]. Đây là con sông chặn ngang tất cả các ngả đường bộ từ Quảng Tây [Trung Quốc] và Thăng Long. Việc chọn phòng tuyến Như Nguyệt sẽ thuận lợi cho ta phòng thủ và khó cho địch khi tiến công.

Diễn biến của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần II

Cuối năm 1076 quân Tống tấn công nước ta bằng 2 cánh quân thủy, bộ:

  • Quân bộ bao gồm 10 vạn bộ binh tinh nhuệ, 1 vạn ngựa chiến, 20 vạn dân phu do Quách Quỳ, Triệu Tiết cầm đầu vượt qua ải Nam Quan vào Lạng Sơn bị Thân Cảnh Phúc chặn đánh phải dừng lại ở bờ bắc sông Như Nguyệt
  •  Quân thủy do Hòa Mâu dẫn đầu theo đường biển vào tiếp ứng cho quân bộ nhưng bị Lý Kế Nguyên mai phục đánh bại.

Kết quả của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần II:

 Quân Tống đóng quân ở bờ bắc sông Như Nguyệt, không tiến vào sâu được

Cuộc kháng chiến trên phòng tuyến Như Nguyệt

Diễn biến cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần II trên phòng tuyến Như Nguyệt

  • Quách Quỳ cho đóng bè 2 lần vượt vượt sông nhưng bị quân ta phản công phải lùi về bờ bắc.
  • Lý Thường Kiệt cho người vào đền bên sông ngâm bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà” để khích lệ tinh thần quân sĩ
  • Quân Tống chuyển sang củng cố phòng ngự, mệt mỏi,  lương thảo cạn dần, lòng quân chán nản, bị động.
  •  Cuối xuân năm 1077, quân Lý Thường Kiệt, bất ngờ vượt sông tấn công vào trại giặc.
Cuộc kháng chiến trên phòng tuyến Như Nguyệt

Kết quả cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần II

Quân Tống thua to, mười phần chết năm sáu phần, Quách Quỳ tuyệt vọng giảng hòa, chấp nhận rút lui, cuộc kháng chiến chống quân Tống kết thúc.

Ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân Tống lần II

  • Tinh thần đoàn kết của dân tộc ta.
  • Tinh thần chủ động, tích cực trong kháng chiến và có sự lãnh đạo tài tình của Lý Thường Kiệt.
  •  Đây là một trận đánh tuyệt vời trong lịch sử dân tộc ta.
  • Củng cố nền độc lập của Đại Việt.
  •  Đập tan âm mưu xâm lược Đại Việt của nhà Tống.

Nghệ thuật quân sự trong kháng chiến chống Tống thời Lý

Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống với kết quả thắng lợi vang dội không thể không nhắc đến người anh hùng vĩ đại Lý Thường Kiệt. Tài biến hóa trong phòng thủ và tấn công của ông là một trong những nguyên nhân quan trọng giúp quân ta giành được thắng lợi.

Nghệ thuật quân sự trong kháng chiến chống Tống thời Lý chính là sự biến hóa trong chiến lược lãnh đạo của vị tổng chỉ huy tài ba ấy.

Nghệ thuật quân sự trong kháng chiến chống Tống thời Lý thể hiện qua việc tấn công chớp nhoáng rồi chủ động quay về lập phòng tuyến nghênh địch, mỗi bước đều táo bạo và chắc chắn…

Phòng thủ bằng cách tấn công

  • Vào năm 1075 khi vua Lê Thánh Tông mới băng hà, lúc đó vua Lý Nhân Tông – thái tử Càn Đức vẫn còn nhỏ. Trước tình hình nội bộ nước ta như thế, vua Tống Thần Tông và tể tướng Vương An Thạch quyết định tấn công nước ta vào năm 981.
  • Lý Thường Kiệt đã tận dụng binh pháp “cách phòng thủ tốt nhất là tấn công” bèn tấu với vua rằng “Ngồi đợi giặc thà đem quân đi trước để chặn thế mạnh của giặc”. Lúc ấy nội tình trong nước Tống không ổn định, cụ thể là biên giới bị một số nước lân bang uy hiếp, bên cạnh đó thì triều đình thì chia rẽ sau các cải cách mạnh tay của vị tể tướng Vương An Thạch….
  • Sau khi phân tích tình hình cụ thể, đánh giá hướng đi của giặc, cuộc tiến công của Lý Thường Kiệt đã diễn ra vào tháng 10-1075.

Tấn công bằng cách phòng thủ

  • Khi bị thua một cách đau đớn, quân Tống lại vạch ra kế hoạch xâm lược nước ta lần nữa, bằng cách cử hai tướng lĩnh nhiều kinh nghiệm là Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy cuộc tấn công.
  • Với bản lĩnh của mình cùng với việc nhìn nhận cục diện hai bên một cách chính xác, Lý Thường Kiệt đã đưa quân vào tuần tra, trấn áp khu vực biên giới phía nam Đại Việt.
  • Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng một phòng tuyến kiên cố ở bên bờ nam sông Như Nguyệt nhằm bảo vệ kinh thành Thăng Long và lăng miếu nhà Lý [sông Như Nguyệt ngày nay là sông Cầu – chính là con sông này án ngữ tất cả các tuyền đường đi từ Quảng Tây tới Thăng Long].
  • Lý Thường Kiệt cho xây dựng phòng tuyến kiên cố ấy là thử thách đầy nhọc nhằn cho quân Tống, đồng thời ông cũng biết nhược điểm trầm trọng của kẻ địch chính là không giỏi thủy chiến.

Hai lần xâm lược, quân Tống đều đại bại bởi các vị tướng đại tài và tinh thần đoàn kết của dân tộc ta. Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống đã đem lại những kinh nghiệm quý báu cho nhân dân ta trong quá trình dựng nước và giữ nước.

Video liên quan

Chủ Đề