Chữ hiếu trong truyền thống văn hóa việt nam năm 2024

inh thần hiếu thảo đối với cha mẹ tổ ti�n từ xưa đến nay lu�n lu�n l� một điểm son trong nề nếp văn h�a của người � Đ�ng n�i chung, v� của người Việt Nam n�i ri�ng. Người Việt Nam cũng như mọi d�n tộc � Đ�ng kh�c, thi�n về t�nh cảm, v� đương nhi�n t�nh cảm đ� được thể hiện ưu ti�n v� nhiều nhất đối với cha mẹ, l� người sinh th�nh ra m�nh, đồng thời y�u thương v� hy sinh cho m�nh nhiều nhất tr�n đời. V� thế, ngay từ nguy�n thủy, c�c d�n tộc � Đ�ng đ� c� một đạo phổ th�ng l� đạo thờ c�ng Tổ Ti�n, c�n gọi l� đạo �ng B�, coi việc hiếu thảo với cha mẹ v� tổ ti�n khi c�n sống cũng như khi đ� khuất l� một bổn phận hết sức quan trọng.

Hiện nay, tại Việt Nam cũng như tại � Đ�ng n�i chung, đạo thờ c�ng Tổ Ti�n vẫn c�n l� một đạo nền tảng. Cụ thể l� trong số những người kh�ng theo một t�n gi�o ch�nh lưu n�o, th� đa số xưng m�nh l� theo đạo thờ c�ng Tổ Ti�n hay đạo �ng B�.

T�m thức của người Việt Nam hay � Đ�ng l� như thế. V� thế, để hội nhập văn h�a sứ điệp Kit� gi�o v�o l�ng d�n tộc, ch�ng ta kh�ng n�n bỏ qua yếu tố văn h�a hết sức nền tảng n�y. C� lẽ ch�nh v� thế, m� trong Thượng Hội Đồng Gi�m Mục � ch�u vừa qua (năm 1998), c�c gi�m mục Việt Nam đ� n�u l�n vấn đề n�y như một yếu tố văn h�a quan trọng m� người Kit� hữu phải quan t�m để hội nhập văn h�a sứ điệp Kit� gi�o v�o l�ng d�n tộc. Đ� quả l� một định hướng s�ng suốt trong l�nh vực hội nhập văn h�a.

Để hội nhập văn h�a đ�ng theo đường hướng Gi�o Hội, trước ti�n, ch�ng ta cần x�c định hội nhập văn h�a l� g�.

Hội nhập văn h�a l� g�?

Hội nhập văn h�a sứ điệp Kit� gi�o l� đưa sứ điệp Kit� gi�o v�o trong nền văn h�a của d�n tộc bằng c�ch diễn tả sứ điệp Kit� gi�o một c�ch th�ch ứng với nền văn h�a đ�, đồng thời ho�n chỉnh nền văn h�a đ� theo tinh thần Kit� gi�o. Như vậy hội nhập văn h�a l� một cuộc hội thoại giữa đức tin v� văn h�a, n� c� hai chiều:

1. Một đằng l� th�ch ứng sứ điệp Kit� gi�o với văn h�a của d�n tộc l�nh nhận sứ điệp, vận dụng những yếu tố ph� hợp với tinh thần Kit� gi�o trong văn h�a của d�n tộc ấy để diễn tả sứ điệp, hầu đưa sứ điệp v�o l�ng d�n tộc ấy một c�ch thuận lợi v� dễ d�ng. Chẳng hạn khi diễn tả sứ điệp Kit� gi�o cho người Việt Nam, ta n�n d�ng những � niệm, h�nh ảnh, c�u n�i quen thuộc đối với người Việt như ca dao tục ngữ, hay những quan niệm triết l� Đ�ng Phương để giải th�ch, truyền đạt. Kh�ng n�n lạm dụng triết l� T�y Phương hay những h�nh ảnh tuy quen thuộc với người T�y Phương, nhưng lại rất xa lạ với người Việt để diễn đạt sứ điệp. Nhờ sự th�ch ứng đ�, Kit� gi�o trở n�n dễ hiểu, th�n thuộc v� dễ chấp nhận với người Việt. Nếu kh�ng, Kit� gi�o sẽ trở th�nh xa lạ, ngoại lai, kh� hiểu v� kh� chấp nhận.

2. Đằng kh�c hội nhập văn h�a c�n l� biến đổi nền văn h�a đ�, l�m cho nền văn h�a đ� ho�n thiện hơn. N�i kh�c đi l� l�m cho nền văn h�a ấy mang nhiều tinh thần Tin Mừng hơn. Đ�y ch�nh l� mục đ�ch phải đạt được của việc hội nhập văn h�a: đ� l� ph�c �m h�a nền văn h�a đ�, tức l�m cho sứ điệp Tin Mừng ảnh hưởng tr�n quan niệm, c�ch suy nghĩ, c�ch h�nh xử của d�n ch�ng, l�m cho tinh thần Ch�a Kit� thấm nhuần v�o l�ng d�n tộc ấy. Nếu sự th�ch ứng tr�n m� kh�ng nhằm mục đ�ch n�y, hay kh�ng đạt được mục đ�ch n�y, th� đ� kh�ng phải l� hội nhập văn h�a đ�ng nghĩa. Đ� mới chỉ l� hội nhập văn h�a nửa vời, hời hợt.

Trong việc hội nhập sứ điệp Kit� gi�o v�o nền văn h�a Việt Nam, một trong những yếu tố quan trọng v� nền tảng của nền văn h�a n�y m� người Kit� hữu n�n lưu �, đ� l� đạo hiếu, hay tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ, �ng b� tổ ti�n. Tại sao? V� người Việt cũng như c�c d�n tộc v�ng Viễn Đ�ng n�y lu�n lu�n đặt nặng tinh thần hiếu thảo đối với cha mẹ, �ng b�, tổ ti�n. Từ nguồn cội, đạo hiếu lu�n lu�n l� một nền tảng căn bản cho đạo l�m người của người Việt, v� nằm trong bản chất văn h�a của người Việt. V� thế, việc hội nhập văn h�a sứ điệp Kit� gi�o v�o Việt Nam n�n khởi đầu từ đạo hiếu, v� lấy đạo hiếu l�m nền tảng.

Sau đ�y, ch�ng ta thử t�m c�ch �p dụng đạo hiếu v�o vấn đề hội nhập văn h�a sứ điệp Kit� gi�o của ch�ng ta.

Hội nhập văn h�a sứ điệp Kit� gi�o với đạo hiếu

Như đ� n�i tr�n, hội nhập văn h�a c� hai chiều, được thực hiện trong hai giai đoạn:

� Giai đoạn I l� th�ch ứng c�ch diễn đạt sứ điệp Kit� gi�o với văn h�a của d�n tộc: Trước ti�n, ta nhận ra ngay l� c� sự ph� hợp giữa sứ điệp Kit� gi�o v� văn h�a Việt Nam trong chủ trương thảo hiếu với cha mẹ, tổ ti�n. Thật vậy, đạo hiếu trong Kit� gi�o thật r� r�ng v� được coi l� quan trọng.

� Trước hết, đạo hiếu nằm ngay trong thập giới, l� căn bản của luật lu�n l� Kit� gi�o. Thập giới của Kit� gi�o được chia l�m hai nh�m: 3 giới đầu li�n quan đến Thi�n Ch�a, 7 giới sau li�n quan đến tha nh�n. Giới thứ 4, �thảo k�nh cha mẹ�, l� giới đứng đầu nh�m sau. Điều đ� c� nghĩa: �thảo k�nh cha mẹ� l� giới luật quan trọng nhất trong c�c giới li�n quan đến tha nh�n.

� Thứ hai l� trong c�c bản văn Kinh Th�nh, Cựu Ước cũng như T�n Ước, c� biết bao nhi�u c�u hay đoạn văn khuyến kh�ch l�ng hiếu thảo của con c�i đối với cha mẹ, nhất l� trong s�ch Ch�m Ng�n v� Huấn Ca (1). Người Kit� hữu n�n khai triển những c�u, những đoạn văn đ�, để l�m nổi bật chủ trương đạo hiếu của Kit� gi�o vốn rất ph� hợp với nền văn h�a của d�n tộc. Nhờ đ�, người ngo�i Kit� gi�o dễ chấp nhận Kit� gi�o hơn.

� Giai đoạn II của việc hội nhập văn h�a l� ho�n chỉnh nền văn h�a của d�n tộc được truyền gi�o: Ta thấy d�n tộc Việt Nam tuy đặt rất nặng đạo hiếu, nhưng đạo hiếu ở đ�y thường chỉ được hiểu l� th�i độ phải c� đối với cha mẹ hay �ng b� tổ ti�n ở dưới đất n�y. Nhưng con người c�n c� cha mẹ ở một cấp cao hơn, đ� l� cha mẹ ở tr�n trời, hay l� cha mẹ sinh ra vũ trụ vạn vật, m� con người cũng c� bổn phận phải thảo hiếu. Niềm tin c� Trời l� Đấng tạo dựng vũ trụ rất ph� hợp với niềm tin chung của d�n tộc. Đ�y l� một điểm nổi bật kh�c của nền văn h�a � Đ�ng, rất thuận lợi cho việc hội nhập văn h�a sứ điệp Kit� gi�o, đ� l� người ta tin rằng tr�n đầu m�nh c�n c� một Đấng thi�ng li�ng, tạo dựng n�n vũ trụ. Tuy nhi�n, � niệm về Đấng thi�ng li�ng n�y c�n rất mơ hồ, chưa r� rệt, v� Kit� gi�o c� thể đưa ra một � niệm r� rệt hơn. Kit� gi�o đặt rất nặng việc thảo hiếu với Đấng thi�ng li�ng n�y, cũng l� cha mẹ của ch�ng ta, nhưng ở cấp độ cao v� rộng hơn cha mẹ ở dưới đất n�y.

V� Kit� gi�o ch� trọng về đạo hiếu v� coi đạo hiếu như nền tảng của m�nh, n�n Kit� gi�o quả hết sức ph� hợp với tinh thần hiếu thảo của d�n tộc ta. Nhưng Kit� gi�o c�n cho thấy một chiều k�ch rộng lớn hơn của đạo hiếu, gi�p quan niệm về đạo hiếu của d�n tộc trở n�n rộng r�i v� ho�n chỉnh hơn. V� Kit� gi�o quan niệm vũ trụ như một đại gia đ�nh, trong đại gia đ�nh đ�, Thi�n Ch�a l� cha mẹ sinh ra tất cả, v� tất cả mọi tạo vật l� anh em. Ch�nh trong tinh thần n�y m� th�nh Phanxic� Assi đ� gọi �anh Mặt Trời�, �chị Mặt Trăng�, v.v� Như vậy cha mẹ cũng c� nhiều cấp độ, chứ kh�ng phải chỉ c� cha mẹ sinh ta ra ở trần gian n�y mới l� cha mẹ. Thần học �Tam Phụ� của Alexandre de Rhodes (2) cho ch�ng ta thấy cha mẹ c� ba cấp độ: Thượng Phụ, Trung Phụ v� Hạ Phu (3). V� thế, đạo hiếu cần được thể hiện ở cả ba cấp độ ấy mới đầy đủ, trọn vẹn.

Như vậy, Kit� gi�o ch�nh l� một t�n gi�o của đạo hiếu theo nghĩa ch�nh x�c nhất của n�, v� đạo hiếu n�y được thể hiện theo ba chiều k�ch r� rệt: đối với Cha tr�n trời (Thượng Phụ), đối với đất nước v� Gi�o Hội (Trung Phụ), v� đối với cha mẹ dưới đất (Hạ Phụ). Bổn phận đối với Cha tr�n trời l� căn bản, c�c bổn phận sau xuất ph�t từ bổn phận căn bản tr�n.

Trong Kit� gi�o, Thi�n Ch�a v� nh�n loại được quan niệm như một đại gia đ�nh, trong đ� Thi�n Ch�a l� Cha, v� nh�n loại l� anh chị em với nhau. Bổn phận đối với cha mẹ bao giờ cũng quan trọng hơn đối với anh chị em, v� tương quan h�ng ngang (giữa anh chị em với nhau) ph�t sinh từ tương quan h�ng dọc (giữa cha mẹ v� con c�i). Thật vậy, nếu kh�ng c�ng do một cha mẹ sinh ra th� đ�u phải l� anh chị em với nhau! Cha mẹ ta dưới đất cũng l� con c�i của Cha tr�n trời, v� thế, theo một � nghĩa n�o đ�, c�c ng�i cũng l� anh chị của ta, nhưng l� anh chị một c�ch đặc biệt, v� đ� cộng t�c với Thi�n Ch�a để sinh ra ta. V� thế, giữa hai thứ hiếu: hiếu đối với Cha tr�n trời, v� hiếu đối với cha mẹ, th� hiếu trước nặng hơn hiếu sau v� l� nền tảng cho hiếu sau. Người Kit� hữu tin tưởng rằng Cha tr�n trời y�u thương ta gấp trăm ng�n lần cha mẹ dưới đất y�u thương ta.

Tuy nhi�n, kh�ng n�n nghĩ rằng chủ trương như thế l� người Kit� hữu coi nhẹ chữ hiếu đối với cha mẹ dưới đất hơn c�c t�n gi�o kh�c. Thực tế kh�ng phải như thế, v� c�ng y�u Ch�a th� người Kit� hữu c�ng cảm thấy phải y�u thương nhau, v� do đ�, c�ng nhận ra bổn phận phải y�u mến thảo k�nh cha mẹ hơn. Tương tự như một người con c�ng hiếu thảo đối với cha mẹ, th� tự nhi�n c�ng y�u thương anh chị em hơn. T�nh y�u đối với Cha tr�n trời v� đối với anh chị em đồng loại chỉ l� một t�nh y�u duy nhất, nhưng c� hai mặt c� thể ph�n biệt nhưng kh�ng thể t�ch rời: mặt n�y lớn th� mặt kia cũng lớn theo, mặt n�y nhỏ th� mặt kia cũng nhỏ theo. Do đ�, c�ng mến Ch�a đ�ch thực th� c�ng y�u thương đồng loại đ�ch thực, hay n�i c�ch c� biệt hơn, c�ng hiếu thảo với Cha tr�n trời th� tất nhi�n c�ng hiếu thảo với cha mẹ dưới đất.

Như vậy, khi đưa quan niệm về đạo hiếu của m�nh v�o nền văn h�a d�n tộc, th� người Kit� hữu đ� ho�n chỉnh quan niệm thảo hiếu đối với cha mẹ vốn sẵn c� trong nền văn h�a Việt Nam, l�m cho quan niệm về đạo hiếu của d�n tộc trở n�n rộng r�i v� đầy đủ hơn

Nhưng điều ti�n quyết trong việc hội nhập văn h�a đối với đạo hiếu l� ch�ng ta phải biết th�ch ứng với đạo hiếu trong nền văn h�a của d�n tộc. Sau đ�y, ch�ng ta thử t�m hiểu một mẫu hội nhập văn h�a bằng đạo hiếu, đ� l� mẫu của Phật gi�o, một mẫu đ�ng cho ch�ng ta suy nghĩ v� r�t ra những b�i học qu� gi�.

Một mẫu hội nhập văn h�a bằng đạo hiếu: Phật gi�o

Theo H�a Thượng Th�ch Thiện Hoa (4). Phật gi�o đ� du nhập v�o Việt Nam v�o khoảng cuối thế kỷ thứ 2 sang đầu thế kỷ thứ 3 sau c�ng nguy�n. C�n Kit� gi�o mới được truyền v�o Việt Nam một c�ch sơ khởi khoảng giữa thế kỷ 16, v� một c�ch c� hệ thống v� qui m� từ thế kỷ 17. Như thế tại Việt Nam, tuổi của Phật gi�o đ� được 17 thế kỷ, c�n tuổi của Kit� gi�o mới được 3 thế kỷ. Do đ�, tại Việt Nam, một c�ch n�o đ�, Phật gi�o l� một t�n gi�o đ�n anh của Kit� gi�o.

V� thế, t�i xin đưa ra một mẫu gương hội nhập văn h�a của Phật gi�o v�o Việt Nam, để người Kit� gi�o c� thể nh�n v�o đ� m� học hỏi, hoặc r�t ra những b�i học cho m�nh. Theo thiển � t�i, một người em học hỏi kinh nghiệm của anh m�nh, hay theo gương của anh m�nh th� thật l� hợp l� v� phải lẽ. T�i cũng rất mong c�c Phật tử bằng l�ng v� cho ph�p t�i được n�u ra đ�y một số ưu điểm của Phật gi�o để ch�ng t�i c�ng suy nghĩ v� học hỏi. Dẫu sao, điều t�i n�i về Phật gi�o ở đ�y cũng chỉ l� một nhận định mang t�nh c� nh�n, nếu c� điều g� sai s�t, xin qu� vị vui l�ng chỉ gi�o.

Trong Đạo Phật tuy phần gi�o l� căn bản như Tứ Diệu Đế hay Ngũ Giới, ho�n to�n kh�ng đề cập g� đến đạo Hiếu, nhưng trong đời sống thực tế, đạo hiếu đ� được Đức Phật đề cập tới trong nhiều kinh điển, v� được thể hiện ra trong văn h�a d�n tộc th�nh một lễ hội mang t�nh d�n gian, phổ biến: lễ hội Vu Lan. Đ�y l� một h�nh thức hội nhập văn h�a rất tuyệt vời của Phật gi�o Đại Thừa, khiến Phật gi�o trở th�nh một t�n gi�o rất gần gũi với t�m hồn người Việt, cũng như những d�n tộc � Đ�ng kh�c.

Lễ hội Vu Lan l� một lễ hội đặc biệt của Phật gi�o Đại Thừa, l� t�ng ph�i �p dụng triệt để chủ trương �T�y duy�n h�a độ� của Đức Phật. �T�y duy�n h�a độ� l� t�y theo ho�n cảnh, tr�nh độ v� căn cơ của ch�ng sinh m� thay đổi c�ch gi�o h�a cho th�ch hợp để đạt được hiệu quả gi�o h�a cao nhất. V� thế, khi Phật gi�o du nhập v�o Trung Hoa, Việt Nam v� c�c nước � Đ�ng, c�c nh� hoằng dương đạo ph�p đ� kh�o sử dụng tinh thần đạo hiếu của c�c d�n tộc � Đ�ng để biến Phật gi�o trở th�nh một t�n gi�o ph� hợp với t�m l� của d�n tộc, khiến cho người � Đ�ng dễ chấp nhận.

V� thế, khi du nhập v�o Việt Nam v� c�c nước � Đ�ng kh�c, Phật gi�o đ� t�m trong nguồn kinh điển hết sức phong ph� của m�nh những lời Phật dạy li�n quan đến c�ng ơn cha mẹ v� bổn phận hiếu thảo của con c�i. Những lời Phật dạy v� những c�u chuyện li�n quan đến vấn đề n�y cũng rất dồi d�o trong kinh điển Phật gi�o. T�i xin trưng dẫn một v�i c�u điển h�nh trong rất nhiều c�u như:

Về c�ng ơn cha mẹ, trong Kinh T�m Địa Qu�n, Phật dạy: �Ơn cha hiền cao như n�i cả, ơn mẹ hiền to như biển rộng. Kh�ng g� hơn l�ng hiếu thuận, đem vật nhỏ nu�i dưỡng mẹ l�nh�. Cũng trong kinh n�y c� c�u: �Người ta bảo quả đất nặng, nhưng ơn mẹ hiền c�n nặng hơn nhiều. Người ta bảo n�i Tu Di cao, nhưng ơn mẹ hiền c�n cao hơn nhiều�. Trong Kinh Tăng Chi, Phật n�i: �C� hai người m� ta kh�ng thể trả ơn được. Đ� l� mẹ v� cha. Nếu ta một b�n vai c�ng mẹ, một b�n vai c�ng cha, v� l�m như vậy suốt 100 năm, cho đến khi cha mẹ 100 tuổi, th� cũng chưa đủ để trả ơn mẹ v� cha�. Kinh Ph�n Biệt kể rằng Đức Thế T�n thường nhắc nhở đến c�ng ơn cha mẹ ng�i: �Ta trải qua nhiều kiếp tinh tấn nay mới th�nh Phật, to�n l� c�ng ơn của cha mẹ ta�.

V� thế, về đạo hiếu, Phật dạy: �Hiếu l� hạnh đứng đầu mu�n hạnh�. Trong Kinh Nhẫn Nhục, Phật dạy: �Thiện c�ng cực kh�ng g� hơn hiếu; �c c�ng cực kh�ng g� hơn bất hiếu�. Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy: �Thờ trời đất quỷ thần kh�ng bằng c� hiếu với cha mẹ. Cha mẹ l� vị thần minh cao nhất trong c�c thần minh�. Việc thờ k�nh cha mẹ được đ�nh gi� hầu như ngang với việc thờ k�nh Phật. Thật vậy, Kinh Đại Tập c� ch�p lời Đức Thế T�n: �Gặp thời kh�ng c� Phật th� h�y phụng thờ cha mẹ. Phụng thờ cha mẹ cũng như phụng thờ Phật�. Những người theo đạo thờ c�ng Tổ Ti�n chắc chắn rất t�m đắc với hai c�u sau c�ng n�y.

Nhưng gi�o l� tuyệt vời về đạo hiếu ấy l�m sao đi v�o l�ng d�n tộc được, nếu kh�ng biết đưa n� v�o. Phật gi�o Đại Thừa đ� kh�o l�o đưa gi�o l� đạo hiếu v�o bằng c�ch tổ chức lễ hội Vu Lan (Ullambana), biến n� th�nh một lễ hội mang đậm m�u sắc văn h�a d�n tộc. Lễ hội Vu Lan l� một lễ hội biểu lộ cụ thể chủ trương hiếu thảo của Phật gi�o, n� bắt nguồn từ một c�u chuyện thời Đức Phật (5). Trong lễ hội n�y, những người tham dự được nghe những b�i thuyết ph�p về l�ng hiếu thảo đối với cha mẹ v� l�ng biết ơn đối với mọi �n nh�n, đồng thời c�n c� những nghi thức ch� nguyện cho cha mẹ, d�ng qu� c�ng dường c�c chư tăng, những người c� c�ng đối với Phật ph�p v� ch�ng sinh (6).

N�i chung, c�c lễ hội của Phật gi�o thường mang t�nh cởi mở đ�n nhận mọi người, kể cả những người ngo�i Phật gi�o. Trước khi ra về, mọi người tham dự đều c� thể d�ng một bữa chay miễn ph� với nhau. Do đ�, mọi lễ hội Phật gi�o đều mang t�nh d�n gian rất cao. V� thế, lễ Vu Lan vốn chỉ l� một lễ hội ri�ng của Phật gi�o, nhưng rất ph� hợp với tinh thần chung của quần ch�ng, n�n đ� trở th�nh một lễ hội d�n gian, đ� đi v�o văn chương b�nh d�n của người Việt. Thật vậy, trong ca dao Việt Nam c� c�u: �Th�ng s�u bu�n nh�n b�n tr�m, Th�ng bảy ng�y rằm x� tội vong nh�n�, hay �D� ai bu�n b�n đ�u đ�u, Cứ rằm th�ng bảy mưa Ng�u l� về�.

Lễ hội Vu Lan kh�ng chỉ đề cao đạo hiếu, m� v�o dịp n�y, c�c b�i thuyết ph�p tại c�c ch�a c�n nhắc nhở đến bổn phận của mọi người l� phải biết ơn tất cả những người đ� l�m ơn cho m�nh. C� 4 trọng �n được nhắc tới: (1) ơn cha mẹ, (2) ơn Tam Bảo (Phật, Ph�p, Tăng), (3) ơn quốc gia x� hội, (4) ơn thầy bạn. L�ng biết ơn l� một trong những đức t�nh quan trọng của đạo l�m người, vốn tiềm t�ng trong t�m hồn rất phong ph� t�nh cảm của người � Đ�ng. Nhấn mạnh tới những yếu tố n�y sẽ l�m cho người � Đ�ng cảm thấy đạo Phật rất gần gũi, rất hợp với l�ng m�nh, với khuynh hướng của m�nh.

Nhờ đưa gi�o l� đạo hiếu v� l�ng biết ơn của Phật v�o l�ng d�n tộc m� đạo Phật đ� chiếm được cảm t�nh của d�n Việt, v� đạo hiếu v� l�ng biết ơn đ� tiềm t�ng sẵn trong t�m thức người Việt. Khi Phật gi�o sử dụng yếu tố văn h�a n�y để đưa Phật gi�o v�o l�ng d�n tộc, th� những gi�o huấn của Phật gi�o cũng l�m cho l�ng hiếu thảo của người Việt Nam trở n�n s�u sắc, vững chắc hơn, b�m rễ s�u v�o trong văn h�a Việt Nam hơn. Nhờ đ� việc gi�o h�a ch�ng sinh trở n�n dễ d�ng thuận lợi hơn. Từ đ�, Phật gi�o c� thể ảnh hưởng s�u đậm tr�n văn h�a Việt Nam, v� l�m cho văn h�a Việt Nam mang rất nhiều sắc th�i Phật gi�o.

Đạo hiếu trong việc ph�c �m h�a tại Việt Nam

N�i người th� cũng phải n�i ta. Truyền thống Kit� gi�o dạy về đạo hiếu v� nhấn mạnh tới đạo hiếu rất nhiều. Tuy nhi�n, khi nh�n lại qu� khứ, ta thấy thật đ�ng tiếc l� trong qu� tr�nh ph�c �m h�a, Kit� gi�o đ� bị hiểu lầm l� một t�n gi�o đi ngược với Đạo Hiếu, thậm ch� l� một t�n gi�o chủ trương bất hiếu, v� đ� từng cấm kh�ng cho người Kit� hữu � Đ�ng thờ c�ng tổ ti�n như mọi người � Đ�ng thường l�m. Điều n�y đ� khiến cho nhiều người Trung Hoa v� Việt Nam bất m�n v� �c cảm với Kit� gi�o, chẳng hạn như nh� nho Nguyễn đ�nh Chiểu đ� biểu lộ sự bất m�n rất lớn của �ng qua c�u thơ đầy mỉa mai:

�Th� đui m� giữ đạo nh�

�C�n hơn c� mắt �ng cha kh�ng thờ�.

Khi người ta chưa hiểu Kit� gi�o l� g�, đương nhi�n người ta sẽ ph�n đo�n theo nề nếp tư tưởng cũ của m�nh. Do đ�, chỉ cần nghe n�i Kit� gi�o cấm thờ c�ng tổ ti�n, th� biết bao nhi�u người Việt � nhất l� những người thấm nhuần tinh thần đạo Tổ Ti�n, Khổng gi�o, v� Phật gi�o, vốn coi chữ hiếu l� quan trọng h�ng đầu � đ� coi Kit� gi�o l� t� đạo, kh�ng n�n theo, thậm ch� n�n cấm. Rất nhiều người đ� kh�ng thể gia nhập Kit� gi�o cũng v� lệnh cấm thờ c�ng tổ ti�n của Gi�o Hội. Biết bao người hiểu Kit� gi�o v� muốn gia nhập Kit� gi�o, nhưng kh�ng thắng nổi �p lực t�m l� của những người trong gia đ�nh hay gia tộc cho rằng theo Kit� gi�o l� bỏ cha bỏ mẹ, l� bất hiếu với tổ ti�n, v� một người như thế th� kh�ng xứng đ�ng l� người nữa.

Đ�y quả l� một sự hiểu lầm giữa c�c vị l�nh đạo C�ng gi�o thời đ� v� người � Đ�ng trong việc thờ c�ng tổ ti�n. Đ�y l� chuyện đ�ng tiếc g�y ra do sự kh�c biệt về văn h�a v� tập tục giữa Đ�ng v� T�y, đặc biệt giữa quan niệm của Kit� gi�o v� của c�c d�n tộc � Đ�ng.

Theo gi�o l�, người Kit� hữu chỉ thờ phượng duy nhất một m�nh Thi�n Ch�a l� chủ tể dựng n�n mu�n lo�i vạn vật, v� kh�ng được ph�p thờ phượng bất kỳ ai kh�c. Ngo�i Thi�n Ch�a ra, th� tất cả đều l� thụ tạo, cũng được Thi�n Ch�a dựng n�n như ch�ng ta. Ch�ng ta c� thể t�n k�nh những bậc th�nh, những vĩ nh�n, c�c vị minh qu�n, c�c anh h�ng d�n tộc, những �n nh�n của m�nh hay của d�n tộc, hoặc �ng b� tổ ti�n m�nh, chứ ch�ng ta kh�ng được t�n thờ họ.

Ph�n biệt giữa Đấng tạo dựng (Cr�ateur) v� những g� được tạo dựng (cr��s), để rồi từ đ� ph�t sinh ra hai th�i độ ph�n biệt đối với hai phạm tr� đ� th� thật l� hợp l�. Điều đ� c�n hợp l� hơn sự ph�n biệt giữa vua v� quan, giữa cha mẹ v� người anh cả. C� người d�n trung th�nh n�o lại t�n k�nh vua l�m sao th� cũng t�n k�nh c�c quan kh�c như vậy kh�ng? C� người con hiếu thảo n�o lại t�n k�nh người anh hay chị cả m�nh ngang với cha mẹ m�nh kh�ng? Đối xử một c�ch b�nh đẳng với hai người vốn kh�ng b�nh đẳng như thế l� một sự x�c phạm đối với người lớn hơn. Điều n�y bất cứ người Đ�ng Phương hay người Việt n�o cũng đều chấp nhận.

Thật ra, người Việt hay người � Đ�ng n�o cũng ph�n biệt Trời, Đấng sinh ra vạn vật, v� những vật do Trời dựng n�n. Nhưng theo văn h�a của họ, về mặt lễ nghi, việc thờ Trời l� d�nh cho vua, vua c� nhiệm vụ đối với Trời, c�n người d�n c� nhiệm vụ đối với vua. Đối với Trời, người d�n chỉ c� nhiệm vụ sống thuận � Trời: �Thuận Thi�n giả tồn, nghịch Thi�n giả vong�. V� thế, Trời tuy cao nhất, nhưng người d�n kh�ng được ph�p thờ Trời theo lễ nghi, m� chỉ c� vua tức Thi�n Tử (Con Trời) được ph�p thờ m� th�i (7). Đấy cũng l� một c�ch biểu lộ sự t�n k�nh cao cả nhất đối với Trời: điều n�y xem ra kh�ng hợp l� đối với n�o trạng văn h�a của người T�y Phương, nhưng lại rất hợp l� theo n�o trạng văn h�a Đ�ng Phương, v� để hội nhập văn h�a, ch�ng ta phải đặc biệt t�n trọng sự kh�c biệt về văn h�a.

Quan niệm về sự k�nh trọng của người � Đ�ng l� �k�nh nhi viễn chi�: c�ng k�nh trọng th� c�ng phải giữ một khoảng c�ch. Vua cũng chỉ l� người th�i, thế m� ở � Đ�ng, người d�n phải k�nh trọng vua đến độ kh�ng được ph�p nh�n, ngay cả c�c quan cũng kh�ng được ph�p nh�n trực diện, t�u c�i g� th� cũng phải quay mặt đi chỗ kh�c m� t�u. Đối với vua m� c�n phải giữ một độ xa như thế, huống g� đối với Trời, c�n cao hơn vua h�ng ng�n bậc (8). V� kh�ng được thờ Trời, n�n những lễ nghi tỏ sự t�n k�nh nhất đ�ng lẽ d�nh cho Trời, nếu kh�ng được d�ng cho Trời nữa, th� đương nhi�n phải được d�nh cho tổ ti�n hoặc người đ� khuất l� những người xứng đ�ng nhất (9).

Việc thờ c�ng tổ ti�n hay người chết với những lễ nghi như thế kh�ng c� nghĩa l� coi tổ ti�n ngang bằng với Trời. Việc thờ c�ng đ� theo tập tục văn h�a cổ truyền thực ra l� một h�nh thức k�nh nhớ nhiều hơn l� thờ phượng hiểu theo nghĩa T�y Phương (adorer hay worship), l� sự thờ phượng m� người Kit� hữu chỉ d�nh cho Thi�n Ch�a. Việc thờ c�ng tổ ti�n vừa mang t�nh văn h�a vừa mang �t nhiều t�nh t�n gi�o. Việc thờ c�ng trong đạo tổ ti�n c� thể phần n�o tương tự như việc thờ k�nh Đức Mẹ, c�c th�nh, c�c thi�n thần � trong Kit� gi�o, trong đ�, c� sự cầu nguyện, xin ơn, v� tin tưởng c�c ng�i c� khả năng ph� hộ hay ban ơn cho m�nh c�ch n�o đ�, chứ kh�ng coi c�c ng�i l� Ch�a Tể Tối Cao của mu�n lo�i.

Nhưng dưới con mắt c�c thừa sai T�y Phương, th� việc thờ c�ng đ� l� một h�nh thức t�n thờ m� đ�ng ra chỉ được ph�p d�nh cho Thi�n Ch�a. Ch�nh v� thế, c�c vị gi�o ho�ng thời đ� đ� nghi�m cấm việc thờ c�ng tổ ti�n l� v� c�c ng�i hiểu đ� l� một lễ nghi t�n gi�o mang t�nh thờ phượng, nhưng thực ra sự thờ k�nh ấy chỉ l� một tập tục mang t�nh văn h�a d�n tộc nhiều hơn l� t�n gi�o. Nếu c� t�nh t�n gi�o th� sự thờ c�ng ấy ho�n to�n kh�ng c�ng một loại với việc thờ phượng đặc biệt m� người Kit� hữu d�nh ri�ng cho Thi�n Ch�a.

Về sau, khi Gi�o Hội hiểu được như thế, th� việc thờ k�nh ấy đ� được Gi�o Hội chấp nhận như trong huấn dụ Plane Compertum ng�y 8-12-1939, cho ph�p Gi�o Hội Trung Hoa v� c�c Gi�o Hội l�n cận được ph�p thờ k�nh tổ ti�n. Như vậy, sự việc đ�ng tiếc tr�n đ� được giải quyết một c�ch �m thắm, tốt đẹp.

B�y giờ, thiết tưởng người Kit� hữu n�n sửa lại những đ�ng tiếc trong qu� khứ, kh�ng phải chỉ bằng việc cải ch�nh hay biện hộ cho những hiểu lầm đ� xảy ra, m� c�n bằng một c�i g� t�ch cực hơn về đạo hiếu. V� thế, ch�ng ta cần nhấn mạnh về đạo hiếu trong việc truyền gi�o v� mục vụ.

Cần nhấn mạnh đạo hiếu trong việc truyền gi�o v� mục vụ

Hiện nay, nền tảng gia đ�nh tr�n thế giới đang bị lung lay v� đe dọa trầm trọng. Chẳng hạn tại �u ch�u, c� tới 50% c�c gia đ�nh đ� th�nh lập nhưng bị tan r� v� đi đến ly dị. Để tr�nh vấn đề n�y, người ta đ� đưa ra nhiều giải ph�p kh�ng hợp lu�n l�: cứ sống độc th�n nhưng lại thoải m�i trong quan hệ t�nh y�u v� t�nh dục, h�n nh�n thử, sống chung với nhau kh�ng h�n nh�n v.v� Gia đ�nh tan r� đưa đến nhiều bất hạnh trong x� hội, nhất l� về ph�a c�c trẻ em kh�ng được chăm s�c đầy đủ v� kh�ng đủ cả cha lẫn mẹ. V� thế, Gi�o Hội đang chủ trương củng cố lại nền tảng gia đ�nh n�y.

Tại Việt Nam, khủng hoảng về gia đ�nh cũng đang bắt đầu. V� thế, Gi�o Hội Việt Nam cũng cần củng cố nền tảng gia đ�nh, nhưng n�n bắt đầu từ đ�u? T�i nghĩ ở Việt Nam, ch�ng ta c� một thuận lợi rất lớn để bảo vệ v� củng cố nền tảng gia đ�nh, đ� l� tinh thần đạo hiếu trong t�m thức d�n tộc. Ch�ng ta c� thể bắt đầu củng cố gia đ�nh bằng việc ph�t triển đạo hiếu, v�:

+ khi l�m tr�n phận sự đối với cha mẹ, người ta sẽ c� một nền tảng gi�p họ l�m tr�n phận sự đối với gia đ�nh họ tạo lập, nghĩa l� đối với vợ / chồng, con c�i họ. Việc đối xử hợp l� v� đầy t�nh thương với cha mẹ l� một kinh nghiệm v� cũng l� b�i thực tập cho mọi người trẻ sống hợp l� v� y�u thương trong gia đ�nh m� m�nh th�nh lập.

+ sống hiếu thảo với cha mẹ, người ta sẽ tập được một số đức t�nh cần thiết để sống đời sống gia đ�nh: t�nh y�u ch�n thật, vị tha, hy sinh, ki�n nhẫn, nhịn nhục, t�n trọng người kh�c, hy sinh � ri�ng, v.v� Ngược lại, nếu kh�ng hiếu thảo đối với cha mẹ, người ta sẽ kh� c� thể thật sự y�u thương v� hy sinh cho vợ con hay chồng con m�nh, v� kh� c� được những đức t�nh cần thiết tr�n. Thật vậy, cha mẹ l� người y�u thương, hy sinh cho m�nh v� c� c�ng với m�nh nhất m� m�nh kh�ng y�u thương th� l�m sao c� thể y�u thương v� hy sinh cho người kh�c một c�ch ch�n thật được?

+ khi con c�i thật sự hiếu thảo với cha mẹ, việc gi�o dục của ch�ng trong gia đ�nh sẽ đạt được kết quả tốt đẹp: nhờ sự hướng dẫn đầy kinh nghiệm của cha mẹ, con c�i biết v�ng lời sẽ bước v�o đời sống gia đ�nh một c�ch tốt đẹp, v� dễ th�nh c�ng v� hạnh ph�c trong đời sống gia đ�nh. Thật vậy, cha mẹ l� người c� rất nhiều kinh nghiệm trong đời sống gia đ�nh, v� c� thể đ� từng gặp nhiều cay đắng thất bại trong đời sống gia đ�nh. V� thế, cha mẹ c� thể chia sẻ kinh nghiệm, dạy cho con c�i những b�i học m�nh đ� học được bằng đau khổ v� nước mắt, v� chỉ dẫn cho con c�i con đường tốt nhất để th�nh c�ng trong h�n nh�n, v� tr�nh được những thất bại. Những đứa con hiếu thảo, nghĩa l� biết v�ng lời, biết coi trọng lời dạy dỗ của cha mẹ, chắc chắn sẽ dễ th�nh c�ng trong đời sống gia đ�nh hơn.

Như vậy, củng cố đạo hiếu ch�nh l� củng cố nền tảng gia đ�nh, v� đ� cũng l� một c�ch hội nhập văn h�a sứ điệp Kit� gi�o của ch�ng ta v�o l�ng d�n tộc. V� thế, ch�ng ta n�n đề cao đạo hiếu như một phương c�ch nền tảng để sống đời Kit� hữu. V� bản chất của Kit� gi�o l� đạo hiếu: hiếu với Cha tr�n trời, v� thể hiện l�ng hiếu thảo ấy qua sự y�u thương anh chị em đồng loại. Đ� l� cấp độ vĩ m� của đạo hiếu. C�n cấp độ vi m� l� thảo hiếu với cha mẹ dưới đất v� y�u thương anh chị em ruột thịt của m�nh. Cấp độ vi m� hữu h�nh phản �nh cấp độ vĩ m� v� h�nh, nghĩa l� l�ng hiếu thảo với cha mẹ dưới đất l� h�nh ảnh l�ng hiếu thảo với Cha tr�n trời.

Thật vậy, nếu cha mẹ hữu h�nh dưới đất l� người y�u thương m�nh v� hy sinh cho một c�ch cụ thể trước mắt m� m�nh kh�ng hiếu thảo, th� l�m sao m�nh c� thể hiếu thảo thật sự với người Cha v� h�nh ở tr�n trời m� sự hy sinh của Ng�i đối với ta phải nh�n bằng đức tin mới thấy được? Tương tự như lời của th�nh Gioan t�ng đồ: �Nếu ai n�i: �T�i y�u mến Thi�n Ch�a� m� lại gh�t anh em m�nh, người ấy l� kẻ n�i dối; v� ai kh�ng y�u thương người anh em m� họ tr�ng thấy, th� kh�ng thể y�u mến Thi�n Ch�a m� họ kh�ng tr�ng thấy� (1 Ga 4, 20). V� thế, c� thể n�i kh�ng sai rằng t�nh y�u đối với tha nh�n, đặc biệt l�ng hiếu thảo đối với cha mẹ dưới đất, ch�nh l� phản ảnh hay thước đo của t�nh y�u hay l�ng hiếu thảo đối với Cha tr�n trời. Do đ�, ai c�ng y�u mến Thi�n Ch�a, th� t�nh y�u ấy c�ng phải được chứng tỏ qua l�ng hiếu thảo đối với cha mẹ m�nh, v� qua sự hy sinh cho tha nh�n l� con c�i của c�ng một Cha tr�n trời.

Kết luận

Để kết luận, ch�ng ta thử đưa ra một số những việc l�m cụ thể để c� thể đưa tinh thần đạo hiếu của Kit� gi�o v�o trong l�ng d�n tộc, v� để c�ng h�a nhập với c�c t�n gi�o kh�c trong tinh thần đạo hiếu.

1. Thanh Minh v� Vu Lan (10) l� những lễ hội mang t�nh văn h�a d�n tộc nhấn mạnh đến l�ng thảo hiếu đối với cha mẹ hay tưởng nhớ đến những vị tổ ti�n đ� khuất b�ng. V� thế, tuy ch�ng ta đ� c� cả th�ng 11 để k�nh nhớ v� cầu nguyện cho cha mẹ, �ng b� tổ ti�n đ� khuất, nhưng ch�ng ta n�n đồng h�nh c�ng với d�n tộc m�nh trong tinh thần đạo hiếu n�y bằng c�ch:

+ ph�t động nơi người Kit� hữu l�ng hiếu thảo v� sự tưởng nhớ cầu nguyện cho tổ ti�n v�o những lễ hội d�n tộc ấy, v� v�o ng�y cuối năm l� dịp đa số người Việt tưởng nhớ đến cha mẹ c�n sống v� �ng b� tổ ti�n đ� khuất b�ng một c�ch đặc biệt.

+ c� những nghi thức phụng vụ v� � phụng vụ th�ch hợp song song với những nghi thức của Phật gi�o v� đạo thờ c�ng Tổ Ti�n v�o những dịp lễ hội n�y (11).

2. Khuyến kh�ch l�m b�n thờ gia ti�n trong gia đ�nh. Đ�y l� một c�ch l�m cho người Kit� hữu gần gũi với đồng b�o m�nh ở trong c�c t�n gi�o. V� trong c�c gia đ�nh người Việt, thường c� b�n thờ tổ ti�n. Vả lại, qua dấu hiệu n�y, c�c t�n hữu c�c t�n gi�o kh�c cũng cảm thấy gần gũi với người Kit� hữu trong việc hiếu thảo n�y.

3. Tưởng nhớ đến c�ng ơn tổ ti�n của d�n tộc Việt Nam c�ng với c�c anh h�ng d�n tộc v�o dịp giỗ tổ H�ng Vương ng�y 10-3 �m lịch mỗi năm. Nếu mỗi gia đ�nh đều c� tổ ti�n để k�nh nhớ, th� cả d�n tộc cũng thế. Thiết tưởng ch�ng ta cũng n�n tưởng nhớ v� cầu nguyện cho tổ ti�n d�n tộc m�nh đặc biệt trong th�nh lễ ng�y giổ tổ. Chẳng lẽ ch�ng ta chỉ d�nh bổn phận c�ng giỗ tổ ti�n d�n tộc cho những anh em t�n gi�o kh�c l�m, c�n m�nh th� kh�ng sao?

4. L�m b�n thờ tổ ti�n của d�n tộc trong c�c nh� thờ. Nếu mỗi gia đ�nh n�n c� một b�n thờ gia ti�n, th� tại mỗi nh� thờ, n�n c� một b�n thờ k�nh nhớ tổ ti�n của cả d�n tộc ở một chỗ n�o đ� thuận tiện, th�ch hợp v� danh dự, nhất l� tại những nh� thờ lớn c� tầm quan trọng quốc gia (12). Khuyến kh�ch tinh thần thảo hiếu đối với tổ ti�n cả nước l� một c�ch gợi l�n � thức d�n tộc, củng cố l�ng y�u nước thương n�i, b�y tỏ được l�ng biết ơn đối với tiền nh�n. Nếu ch�ng ta biết t�n k�nh những vị th�nh ở tận đ�u đ�u, nhưng tổ ti�n của d�n tộc rất gần gũi với ch�ng ta m� ch�ng ta lại qu�n kh�ng nhớ đến, th� l�m sao đồng b�o của ch�ng ta cảm phục ch�ng ta được?

5. Lễ Vu Lan cũng l� dịp c�c chủ chăn nhắc nhở gi�o hữu về l�ng biết ơn đối với những �n nh�n của m�nh: ơn Thi�n Ch�a, ơn Gi�o Hội, ơn tổ quốc, ơn x� hội, v.v� Đồng thời khuyến kh�ch c� những h�nh vi cụ thể biểu lộ l�ng biết ơn ấy.

PHẦN ĐỌC TH�M

Nguồn gốc lịch sử của lễ hội Vu Lan

Vu Lan hay Vu Lan Bồn l� phi�n �m từ tiếng Phạn Ullambana, dịch sang tiếng H�n Việt l� Giải Đảo Huyền, nghĩa l� cởi tr�i cho người bị treo ngược. Đảo Huyền l� h�nh phạt đau khổ nhất cho lo�i ngạ quỉ (quỉ đ�i). Người bị treo ngược kh�ng hề được ăn uống n�n bị đ�i kh�t gi�y v� suốt ng�y rất đau khổ. V� thế, Ullambana hay Giải Đảo Huyền c� nghĩa cứu vớt những vong hồn đang phải chịu những h�nh phạt đau đớn v� nghiệp chướng do m�nh g�y n�n khi c�n ở trần gian. V� thế, lễ Vu Lan c�n gọi l� lễ X� Tội Vong Nh�n.

Tương truyền, lễ Vu Lan c� nguồn gốc từ Đức Phật, khi Ng�i chỉ cho đệ tử của Ng�i l� Mục Kiền Li�n (Maudgalyayana) c�ch cứu mẹ m�nh khỏi h�nh phạt của kiếp ngạ quỉ. Về sau, c�c Phật tử cũng �p dụng phương c�ch đ� để cứu những vong hồn th�n nh�n của m�nh.

Kinh Vu Lan (Ullambanapatra-sutra) ch�p rằng:

Mục Kiền Li�n, một trong những vị đại đệ tử của Phật, nổi tiếng nhất về l�ng hiếu thảo v� về thần th�ng, sau khi chứng quả La H�n, b�n nhớ đến c�ng ơn cha mẹ v� muốn b�o đền. Nhờ c� đạo nh�n, �ng thấy mẹ m�nh đang bị đọa l�m lo�i ngạ quỉ, th�n thể ốm gầy, da bọc xương, bụng lớn đầu to, đ�i kh�t suốt năm kh�ng được ăn uống. Thương x�t qu�, �ng b�n vận thần th�ng, bưng ch�n cơm đang ăn đến chỗ mẹ ở để d�ng mẹ. B� mẹ v� qu� đ�i kh�t, n�n khi được cơm, l�ng tham nổi l�n, sợ người cướp giật, lấy tay tr�i che giấu ch�n cơm, c�n tay mặt bốc ăn. Bởi l�ng tham độc �c trong tiền kiếp nổi bừng l�n, n�n vừa đưa cơm v�o miệng, th� cơm h�a th�nh lửa, b� chẳng ăn được ch�t n�o.

Mục Kiền Li�n hết sức đau khổ, kh�c l�c thảm thiết. �ng trở về bạch Phật, thuật lại c�u chuyện v� cầu Phật chỉ dạy phương ph�p cứu độ th�n mẫu. Phật dạy rằng:

�N�y Mục Kiền Li�n, mẹ của �ng do l�ng tham lam độc �c đ� tạo ra tội lỗi nặng nề trong nhiều kiếp, nay sinh trong �c đạo l�m lo�i ngạ quỉ, n�n kh�ng thể một m�nh �ng cứu độ được. Dẫu l�ng hiếu thảo của �ng v� c�ng lớn lao cũng kh�ng sao chuyển được ho�n cảnh, chẳng kh�c g� chiếc thuyền con, kh�ng thể chở được tảng đ� lớn. Vậy �ng phải nhờ oai thần của ch�ng tăng trong mười phương, �thập phương ch�ng hội� đức lớn như biển, mới cứu độ mẹ �ng được giải tho�t. Ta sẽ chỉ cho �ng phương ph�p cứu độ mẹ �ng.

�N�y Mục Kiền Li�n, ng�y rằm th�ng bảy l� ng�y tự tứ (13) của chư tăng khắp nơi, sau ba th�ng an cư kiết hạ (14), c�c chư tăng tiến bộ rất nhiều tr�n đường tu học. Nh�n ng�y ấy, �ng h�y l�m lễ Vu Lan Bồn để b�o hiếu cho mẹ �ng.

��ng h�y sắm sửa đủ c�c m�n ăn chay, năm thứ tr�i c�y, c�ng hương dầu đ�n nến, giường ch�ng chiếu chăn, m�ng mền quần �o, thau rửa mặt, khăn lau tay � T�m lại, l� đủ bốn m�n c�ng dường qu� b�u tr�n đời. Rồi �ng phải th�n h�nh đi rước c�c vị đại đức trong mười phương, hoặc những vị thiền định trong n�i rừng chứng được bốn quả th�nh, hoặc c�c vị bồ t�t thị hiện l�m thầy tỳ kheo � �ng phải th�nh t�m k�nh lễ trai tăng c�ng dường v� thỉnh cầu chư tăng ch� nguyện (15) cho vong linh mẹ �ng được tho�t khổ. Nhờ c�ng đức ch� th�nh ch� nguyện, vong linh mẹ �ng sẽ được si�u tho�t. Cũng như tảng đ� d� nặng trăm c�n, nhưng c� nhiều người khi�ng th� dời đi đ�u cũng được�.

Mục Kiền Li�n v�ng lời Phật dạy, đến ng�y rằm th�ng bảy l�m lễ Vu Lan, sắm đủ c�c vật liệu, rước chư tăng đến c�ng dường, n�n vong mẫu của �ng tho�t khỏi kiếp ngạ quỷ sinh về cảnh giới l�nh. Sau đ�, Mục Kiền Li�n hỏi Phật xem những Phật tử kh�c muốn cứu độ cha mẹ m�nh c� thể d�ng phương ph�p đ� kh�ng. Phật trả lời:

�Qu� lắm! n�y Mục Kiền Li�n, đời sau, nếu c� ai v� l�ng hiếu thảo muốn đền đ�p c�ng ơn cha mẹ hiện tại hay qu� khứ, th� cứ ng�y rằm th�ng bảy l�m lễ Vu Lan n�y để c�ng dường trai tăng. Nhờ c�ng đức của chư tăng ch� nguyện, cha mẹ hiện tại được tăng ph�c thọ, khỏi những điều tai họa khổ n�o, c�n cha mẹ bảy đời trước th� khỏi bị khổ ngạ quỉ, được sinh trong c�i Nh�n hay Thi�n, hưởng ph�c vui vẻ kh�ng c�ng�.

Từ đ� về sau, cứ đến ng�y rằm th�ng bảy, c�c h�ng Phật tử ch� hiếu đều l�m lễ Vu Lan để đền đ�p c�ng ơn cha mẹ dẫu c�n sống hay đ� mất. Ngo�i ra, họ c�n tưởng nhớ v� ch� nguyện cho cửu huyền thất tổ, c�c �n nh�n, th�n nh�n, bạn b�, những người quen biết đ� qu� cố sớm được v�ng sinh nơi Phật Quốc.

Phật gi�o ch�n truyền dạy như thế. Nhưng t�n ngưỡng nh�n gian c� pha trộn nhiều điều kh�c. Chẳng hạn, do ảnh hưởng của Đạo gi�o, quần ch�ng cho rằng ng�y ấy, ở �m phủ, quỉ sứ mở cửa địa ngục cho c�c vong hồn bay về dương thế để tha hồ ăn hưởng, rồi sau đ� lại phải bay về �m phủ. V� thế, họ nảy sinh l�ng thương x�t đối với c�c vong hồn. Dần d� tục c�ng c� hồn th�ng bảy trở th�nh một tập tục d�n gian.

M� tả lễ hội Vu Lan

Đầu th�ng 7 �m lịch, Phật tử cũng như nhiều người ngo�i Phật gi�o, bắt đầu tưởng nhớ tới tổ ti�n, cha mẹ, những người th�n quen đ� khuất b�ng, một c�ch đặc biệt hơn b�nh thường. Nhiều người ăn chay, niệm Phật, l�m ph�c, đến ch�a nghe thuyết ph�p. Để chuẩn bị cụ thể hơn, người ta để d�nh tiền, quần �o, thực phẩm, thuốc men để c�ng dường (= k�nh biếu) chư tăng ni v�o ng�y lễ, đồng thời để mua những đồ c�ng tổ ti�n tr�n b�n thờ suốt hai tuần cuối th�ng 7.

Từ ng�y �p lễ (ng�y 14-7), bầu kh� ở c�c ch�a chiền đ� bắt đầu nhộn nhịp tưng bừng hẳn l�n. Nhiều Phật tử đ� đến ch�a để đảnh lễ Phật v� cầu nguyện. Chung quanh ch�a, người ta b�y b�n la liệt nhang hương, kinh Phật (nhất l� kinh Vu Lan), c�c lồng chim (để ph�ng sinh), v.v� Bầu kh� lễ lạc ở c�c ch�a c�ng l�c c�ng l�m cho t�m hồn người Phật tử l�ng l�ng, sốt sắng, như tiếp x�c được với thế giới v� h�nh.

Ng�y rằm, ch�a c�ng l�c c�ng đ�ng người. Tới khoảng 11 giờ trưa, ch�a đầy người: lễ Vu Lan bắt đầu cử h�nh. Ngo�i s�n cũng như trong ch�a, c�c trường phương bảo c�i (= cờ Phật gi�o dạng phướn c� lọng che) rải r�c khắp nơi. C�c cột trong ch�a cũng treo cờ. B�n thờ Phật, b�n thờ c�c Tổ đ�n nến s�ng chưng, hoa quả, nhang kh�i nghi ng�t.

Một hồi trống b�t nh� nổi l�n b�o hiệu lễ Vu Lan bắt đầu, mọi người im lặng. Trong ch�a, ngo�i c�c Phật tử đứng đối diện với tượng Phật ở ch�nh điện, c�n c� nhiều tăng ni bận lễ phục trang trọng được mời ngồi tr�n ghế trước mặt c�c Phật tử. Vị sư trụ tr� đứng ra n�i v�i lời khai lễ, rồi mời một vị thượng tọa trong số c�c tăng ni c� mặt tại đ� khai ph�p. Vị n�y giảng � nghĩa của lễ Vu Lan. Sau thời ph�p l� thời kinh: mọi người đều c�ng nhau tụng kinh Vu Lan � n�i về c�ng ơn cha mẹ v� bổn phận phải hiếu thảo đối với cha mẹ � một c�ch nhịp nh�ng theo nhịp m�.

Tụng kinh Vu Lan xong, c�c tăng ni được mời sang ph�ng Thọ Trai ăn một bữa cơm chay. Bất kỳ ai c� mặt tại đ�, d� kh�ng phải l� Phật tử, nếu muốn, đều c� thể c�ng d�ng bữa với c�c tăng ni (16). Sau lễ thọ trai, l� nghi thức c�ng dường c�n gọi l� lễ Tạ Ph�p cũng tại ph�ng đ�. C�c tăng ni được c�c Phật tử c�ng dường mỗi người một g�i. Trong g�i đ� c� thể l� quần �o, m�ng mền, thuốc men, thực phẩm, tiền bạc, hay những đồ vật thường d�ng. Sau khi vị thượng tọa đại diện cho c�c tăng ni được c�ng dường c�m ơn c�c Phật tử, lễ Vu Lan chấm dứt. Tất cả mọi người ra về trong bầu kh� tưng bừng vui vẻ. Buổi lễ k�o d�i từ 11g00 đến 12g30 hay tới 1g00 trưa.

�Những tăng ni được c�ng dường thường l� những vị c� uy t�n, được c�c Phật tử y�u mến, ở những v�ng chung quanh, cũng c� khi ở những tỉnh xa được mời tới. Những qu� tặng đ� l� do c�c Phật tử t�y l�ng hảo t�m đ�ng g�p. � nghĩa của việc c�ng dường l� để tỏ l�ng biết ơn đối với Tam Bảo (Phật�Ph�p�Tăng) m� c�c vị l� đại diện. Tại c�c ch�a lớn, số c�c tăng ni được mời c� thể l�n tới h�ng trăm. Tại c�c ch�a nhỏ, c� thể khoảng 20, 30 vị.

Sau lễ, c�c Phật tử đi v�ng cảnh ch�a, hết ch�a n�y tới ch�a kh�c. Họ c� thể đi theo đo�n thể do ch�a tổ chức để tham quan c�c cảnh ch�a ở xa. Đ� vừa l� một cuộc h�nh hương, cầu nguyện, vừa l� một cuộc giải tr� mang t�nh c�ch hội h�.

Kể từ ng�y rằm th�ng 7 cho đến cuối th�ng, c�c Phật tử ng�y n�o cũng đọc kinh Vu Lan tại b�n thờ gia đ�nh hay tại ch�a, đồng thời ăn chay niệm Phật, l�m ph�c bố th�, để tưởng nhớ, ch� nguyện, v� hồi hướng c�ng đức cho cha mẹ �ng b� v� tất cả những người qu� cố kh�c, kể cả những vong linh mồ c�i vất vưởng đ� đ�y (gọi l� c� hồn). Trong nửa th�ng n�y, b�n thờ Phật trong nh� l�c n�o cũng trưng b�y nhang đ�n, b�ng hoa v� ngũ quả (5 loại tr�i c�y). Theo phong tục, gia chủ t�y nghi chọn ri�ng một ng�y n�o đ� trong nửa th�ng n�y để l�m lễ c�ng c� hồn ở ph�a trước nh�. C�ng xong, họ thường tung gạo, muối, tr�i c�y, b�nh kẹo, tiền bạc � � vừa được d�ng l�m lễ vật để c�ng � ra bốn phương với � nghĩa để c�c c� hồn hưởng dụng.

Phần ch� th�ch

(1) Một số c�u Kinh Th�nh n�i

�� về việc thảo k�nh cha mẹ: Xh 20,12; Lv 19,3.32; Đnl 5,16; Cn 1,8-9; 6,20-23; 23,22; Mt 15,4; Mc 10,19; Lc 18,20; Ep 6,1-3; Cl 3,20; 1 Tm 3,4;

�� về việc nghe những gi�o huấn kh�n ngoan của cha mẹ: Cn 4,1-11, 20-22; 5,1-2; 8,21-33; 27,11;

�� về bổn phận v�ng lời cha mẹ: Tv 119,9; Cn 3,1-3; 6,20-25.

�� về gương thảo hiếu đối với cha mẹ của Ch�a Gi�su: Ga 19,26-27; của b� R�t: R 1,16-18; v.v�

(2) Thần học �Tam Phụ� được n�i đến lần đầu ti�n trong cuốn �Ph�p Giảng T�m Ng�y� (1651) của Alexandre de Rhodes, với những từ như �Ba Đấng Bề Tr�n�, �Ba Đấng thưởng phạt�, đi k�m với ba điều �phải� hay ba nghĩa vụ. Thần học n�y c�n được n�i đến trong �Hội đồng Tứ gi�o� (kh�ng r� t�c giả, thế kỷ 18), trong thơ văn của linh mục Đặng đức Tuấn (1806-1874) v� trong một số bản văn của Nguyễn trường Tộ (1830-1871). C�c t�c giả tr�n kh�ng viết n�n một thần học về Tam Phụ, nhưng đ� c� những � niệm chung về bộ ba những người cha n�y.

(3) Thượng Phụ l� Cha ở tr�n, tức �ng Trời, hay Thi�n Ch�a. Trung Phụ l� Cha ở giữa, tức Cha của đất nước, hay Vua hoặc Ho�ng Đế cai trị nước. Hạ Phụ l� Cha ở dưới, tức Cha Mẹ sinh ra ta ở dưới đất.

(4) TH�CH THIỆN HOA, Phật học Phổ th�ng, Th�nh Hội Phật gi�o TP. Hồ ch� Minh ấn h�nh 1992, quyển hai, trang 53-54.

(5) Xin đọc phần nguồn gốc lễ hội ở phần đọc th�m cuối b�i.

(6) Xin đọc phần m� tả lễ hội ở phần đọc th�m cuối b�i.

(7) Tại Việt Nam, vua thờ Trời tại Đ�n Nam Giao, hiện vẫn c�n di t�ch tại Huế.

(8) Đức Kit� đến l�m cho khoảng c�ch giữa Thi�n Ch�a v� con người gần hẳn lại bằng c�ch dạy người ta gọi Thi�n Ch�a l� �Cha�, điều n�y c� thể bị người Do Th�i xưa � cũng l� người Đ�ng Phương � coi l� một x�c phạm đối với Thi�n Ch�a. Hơn thế nữa, Ng�i c�n cho biết Thi�n Ch�a ngự ngay trong th�m cung t�m hồn con người.

(9) Tương tự như c� hai m�n qu� biếu cho hai người. Cứ b�nh thường th� m�n qu� hơn d�nh cho người lớn hơn, v� m�n �t qu� d�nh cho người nhỏ hơn. Nhưng nếu người lớn hơn kh�ng nhận, th� m�n qu� qu� nhất kia đương nhi�n được chuyển xuống người nhỏ hơn. Biếu m�n qu� qu� hơn cho người nhỏ hơn trong trường hợp n�y kh�ng c� nghĩa l� coi thường người lớn hơn.

(10) Lễ Vu Lan l� một lễ hội tuy c� nguồn gốc Phật gi�o, nhưng nay đ� trở th�nh một lễ hội d�n gian, mang t�nh văn h�a d�n tộc

(11) Chẳng hạn v�o ng�y rằm th�ng 7 �m lịch:

� tại nh� thờ, c� th�nh lễ trọng thể cầu nguyện cho cha mẹ c�n sống, v� �ng b� tổ ti�n đ� khuất, với những pan� hay biểu ngữ về l�ng hiếu thảo

� tại nh� thờ hay tại mỗi gia đ�nh (hoặc li�n gia đ�nh), c� buổi đọc kinh chung ban tối đặc biệt cầu nguyện cho cha mẹ tổ ti�n.

� tại c�c gia đ�nh, n�n trưng hoa đ�n một c�ch đặc biệt tại b�n thờ gia ti�n.

� v.v�

(12) Nếu thấy kh�ng thuận lợi trong nh� thờ, th� c� thể trong khu�n vi�n nh� thờ.

(13) Ng�y Tự Tứ: Ng�y chư tăng ph� b�nh sửa lỗi cho nhau.

(14) An Cư Kiết Hạ: Thời gian (ba th�ng) Phật qui định chư tăng ở mỗi địa phương phải hội về một nơi thuận tiện để chuy�n tu mỗi năm, từ 16-4 đến 15-7 �m lịch.

(15) Ch� nguyện: Ch� = ch� �, tập trung tư tưởng hay năng lực tinh thần v�o việc g�; Nguyện = cầu mong, ước muốn. Ch� nguyện l� tập trung hết năng lực tinh thần của m�nh để ước muốn điều g�.

Ch� nguyện kh�c với cầu nguyện ở chỗ: ch� nguyện l� d�ng ch�nh sức mạnh tinh thần của m�nh để thực hiện hay đạt được điều m�nh muốn; c�n cầu nguyện l� xin Thi�n Ch�a hay thần linh thực hiện điều mong ước ấy.

(16) Đ�y l� một đặc điểm rất hay của Phật gi�o: v�o những ng�y m�ng 1 v� ng�y rằm mỗi th�ng, mọi người tới tham dự c�c lễ hội � d� kh�ng phải l� Phật tử � đều c� thể d�ng cơm chay trong ch�a trước khi ra về. Đ�y l� một điều g�y rất nhiều thiện cảm nơi người d�n, khuyến kh�ch cả những người ngo�i t�n gi�o đến dự c�c lễ hội, nhờ đ� họ được nghe những điều hay lẽ phải trong Phật gi�o, v� gi�o l� của Phật ảnh hưởng tr�n đời sống họ.