Chiến tranh nga nhật diễn ra vào thời gian nào năm 2024

Chiến tranh Nga-Nhật diễn ra giữaĐế quốc Nhật Bản và Đế quốc Nga trong năm 1904 và 1905 vì tham vọng đế quốc đối địch ởMãn Châu vàĐế quốc Triều Tiên .Các nhà hát chính của các hoạt động quân sự được đặt tại Bán đảo Liaodong và Mukden ở Nam Mãn Châu, Hoàng Hải và Biển Nhật Bản.Nga tìm kiếm một cảng nước ấm trên Thái Bình Dương cho cả hải quân và thương mại hàng hải.Vladivostok không có băng và chỉ hoạt động trong mùa hè;Cảng Arthur, một căn cứ hải quân ở tỉnh Liêu Đông được triều đại nhà Thanh của Trung Quốc cho Nga thuê từ năm 1897, hoạt động quanh năm.Nga đã theo đuổi chính sách bành trướng về phía đông của dãy núi Urals, ở Siberia và Viễn Đông, kể từ thời trị vì của Ivan Bạo chúa vào thế kỷ 16.Kể từ khi Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất kết thúc vào năm 1895, Nhật Bản đã lo sợ sự xâm lấn của Nga sẽ cản trở kế hoạch thiết lập phạm vi ảnh hưởng của họ ở Triều Tiên và Mãn Châu.Coi Nga là đối thủ, Nhật Bản đề nghị công nhận sự thống trị của Nga ở Mãn Châu để đổi lấy việc công nhận Đế quốc Triều Tiên nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Nhật Bản.Nga từ chối và yêu cầu thành lập vùng đệm trung lập giữa Nga và Nhật Bản tại Triều Tiên, phía bắc vĩ tuyến 39.Chính phủ Đế quốc Nhật Bản coi điều này là cản trở kế hoạch mở rộng sang lục địa châu Á của họ và chọn tham chiến.Sau khi các cuộc đàm phán đổ vỡ vào năm 1904, Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã mở chiến sự bằng một cuộc tấn công bất ngờ vào Hạm đội phía Đông của Nga tại cảng Arthur, Trung Quốc vào ngày 9 tháng 2 năm 1904.Mặc dù Nga phải chịu một số thất bại, nhưng Hoàng đế Nicholas II vẫn tin rằng Nga vẫn có thể chiến thắng nếu tiếp tục chiến đấu;anh ấy đã chọn tiếp tục tham gia vào cuộc chiến và chờ đợi kết quả của các trận hải chiến quan trọng.Khi hy vọng chiến thắng tan biến, ông tiếp tục cuộc chiến để bảo vệ phẩm giá của nước Nga bằng cách ngăn chặn một "nền hòa bình nhục nhã".Nga đã sớm phớt lờ thiện chí của Nhật Bản trong việc đồng ý đình chiến và bác bỏ ý tưởng đưa tranh chấp ra Tòa án Trọng tài Thường trực tại Hague.Chiến tranh cuối cùng đã kết thúc với Hiệp ước Portsmouth [5 tháng 9 năm 1905], do Hoa Kỳ làm trung gian.Chiến thắng hoàn toàn của quân đội Nhật Bản đã khiến các nhà quan sát quốc tế ngạc nhiên và làm thay đổi cán cân quyền lực ở cả Đông Á và Châu Âu, dẫn đến việc Nhật Bản nổi lên như một cường quốc và làm suy giảm uy tín và ảnh hưởng của Đế quốc Nga ở Châu Âu.Việc Nga phải chịu thương vong và tổn thất đáng kể vì một mục đích dẫn đến thất bại nhục nhã đã góp phần làm gia tăng tình trạng bất ổn trong nước mà đỉnh điểm là Cách mạng Nga năm 1905, và gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín của chế độ chuyên chế Nga.

Vào ngày này năm 1904, sau sự kiện Nga bác bỏ kế hoạch của Nhật đòi phân chia Mãn Châu và Triều Tiên thành các vùng ảnh hưởng, Nhật Bản đã tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ vào cảng Lữ Thuận, một căn cứ hải quân của Nga ở Trung Quốc. Hạm đội của Nga đã chịu nhiều thiệt hại.

Trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật sau đó, Nhật Bản đã giành được một loạt chiến thắng quyết định trước Nga, đất nước đã đánh giá thấp tiềm năng quân sự của đối thủ không thuộc phương Tây này. Tháng 1 năm 1905, căn cứ hải quân chiến lược Lữ Thuận của Nga rơi vào tay các lực lượng Nhật Bản dưới quyền Đô đốc Tōgō Heihachirō.

Tháng 3, quân đội Nga bị đánh bại ở Thẩm Dương, Trung Quốc, bởi nguyên soái lục quân Ōyama Iwao; và đến tháng 5, hạm đội Baltic Nga dưới quyền Đô đốc Zinovy Rozhestvensky đã bị Đô đốc Tōgō tiêu diệt gần quần đảo Tsushima.

Ba thất bại lớn này đã thuyết phục nước Nga rằng việc kháng cự hơn nữa trước những tham vọng đế quốc của Nhật Bản đối với khu vực Đông Á là vô ích, và trong tháng 8 năm 1905 Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt đã làm trung gian thành công cho một hiệp ước hòa bình ở Portsmouth, New Hampshire. [Sau này Roosevelt đã được trao giải Nobel Hòa bình cho thành tích này.]

Nhật Bản nổi lên từ cuộc xung đột thành một cường quốc thế giới phi phương Tây hiện đại đầu tiên và bắt đầu lên kế hoạch bành trướng hơn nữa đế quốc của mình. Tuy nhiên, đối với Nga, thất bại quân sự tai hại trong cuộc chiến là một trong những nguyên nhân trực tiếp của Cách mạng Nga năm 1905.

Ảnh: Phái đoàn Nga [bên trái ảnh] và Nhật trong hiệp ước Portsmouth [1905]. Nguồn: P. F. Collier & Son | Wikimedia Commons.

Hải đội Thái Bình Dương số 2 đi nửa vòng trái đất để rồi chịu sự thất bại khủng khiếp trong trận hải chiến gần đảo Tsushima của Nhật Bản.

Vào đầu thế kỷ XX, vị thế chi phối của Nga tại khu vực Viễn Đông bị thách thức từ phía Nhật Bản. “Đất nước mặt trời mọc” từng tự cô lập hoàn toàn, nhưng lúc đó đã được hiện đại hóa và tái vũ trang, công khai tuyên bố về lợi ích địa chính trị của mình tại Triều Tiên và vùng Đông Bắc Trung Quốc. Đây cũng là khu vực lợi ích truyền thống của Nga.

Chiến tranh Nga-Nhật nổ ra năm 1904-1905 đã gây sốc cho toàn thế giới. Chẳng ai có thể hình dung được rằng, quân đội Sa hoàng Nga trong suốt cuộc chiến không thắng một trận nào, còn Hải quân Nga trong trận hải chiến Tsushima thì chịu thất bại khủng khiếp nhất trong lịch sử.

Vượt quãng đường dài

Ngày 15-10-1904, những chiếc tàu chiến thuộc Hải đội Thái Bình Dương số 2 được thành lập trên biển Baltic rời cảng Libava [nay là thành phố Liepaja, Latvia]. Đoàn sẽ phải vượt qua quãng đường nửa vòng trái đất để đến khu vực biển Hoàng Hải và hỗ trợ cho Hải đội Thái Bình Dương số 1 đang chịu sức ép rất lớn từ phía Hải quân Hoàng gia Nhật Bản.

Đêm 22-10-1904, những chiếc tàu Nga ở gần bờ biển nước Anh đã nổ súng vào các tàu cá nước này, tưởng nhầm họ là lực lượng biệt kích của Nhật Bản. Kết quả làm một số ngư dân Anh thiệt mạng, và sau đó nhờ sự nỗ lực rất lớn của các nhà ngoại giao Nga nên xung đột mới được giải quyết bằng hòa bình.

Mất 7 tháng ròng rã, Hải đội Thái Bình Dương số 2 của Nga mới đến được khu vực Viễn Đông. Tại khu vực bờ biển Đông Dương, Hải đội Thái Bình Dương số 3 của Chuẩn Đô đốc Nikolai Nebogatov đuổi theo và gia nhập Hải đội số 2. Trước đó, Hải đội số 3 thay vì đi vòng qua châu Phi, đã đi tắt qua kênh đào Suez.

Ngày 27-5-1905, 11 chiếc thiết giáp hạm, 9 chiếc tuần dương hạm, 9 tàu phóng ngư lôi, các tàu vận tải và hỗ trợ dưới quyền chỉ huy của Phó đô đốc Zinovy Rozhestvensky đi vào khu vực eo biển Triều Tiên, cách không xa đảo Tsushima của Nhật Bản, nơi quân địch đang chờ sẵn họ.

Cuộc tàn sát đẫm máu

Liên minh Hải quân Nhật Bản không những có ưu thế vượt trội trước quân Nga về tuần dương hạm và tàu phóng ngư lôi, mà còn được chuẩn bị kỹ cho trận đánh với Hải đội Nga. Đô đốc Togo Heihachiro đầy quyết tâm tiêu diệt ngay đối phương bằng một đòn tấn công.

Tàu của Phó đô đốc Zinovy Rozhestvensky bị quân Nhật phát hiện khi đang tiến vào từ xa, trong khi chỉ huy trưởng phía Nga không những không tiến hành trinh sát, mà còn không có một kế hoạch hành động rõ ràng nào phòng trường hợp đối mặt với quân địch, ngoại trừ việc chạy về phía Vladivostok.

Giương vũ khí lên, Hải đội Nga đi theo đoàn, tàu này nối tiếp tàu khác theo một khoảng cách nhất định nhằm hạn chế tổn thất nếu bị bắn. Bên cạnh những chiếc tàu hiện đại nhất, trong biên chế của Hải đội còn có nhiều tàu đã cũ kỹ lạc hậu, nên đoàn di chuyển với tốc độ trung bình 9 hải lý. Đô đốc Nhật Bản Togo Heihachiro ra lệnh xé nát đối phương đang di chuyển chậm chạp bằng các binh đoàn cơ động nhỏ gồm 4 đến 6 tàu, chạy với vận tốc 16 hải lý. Sau đó, quân Nhật đuổi kịp đoàn tàu Nga và tiến đánh từ những vị trí thuận lợi.

Ngay đầu trận đánh, tàu chỉ huy thiết giáp hạm “Công tước Suvorov” đã bị hư hỏng nặng, trên tàu có Phó đô đốc Zinovy Rozhestvensky. Sĩ quan tham mưu chỉ huy trưởng Vladimir Semenov nhớ lại: “Tôi ngoảnh nhìn ra sau. Thôi chết rồi!... Mui tàu bốc cháy, trên boong ngổn ngang mảnh vỡ của tàu và thi thể binh lính... Các trạm phát tín hiệu, trạm đo khoảng cách, bốt quan sát đạn rơi, tất cả đã bị san phẳng, tất cả đã bị hủy diệt... Sau lưng tôi khói lửa bao trùm!...".

Phó đô đốc Zinovy Rozhestvensky bị thương và được sơ tán sang một tàu khác, còn Hải đội của Nga một lúc sau mất quyền chỉ huy, thảm họa lúc này mỗi lúc càng hiện hữu. Chuẩn Đô đốc Nikolai Nebogatov lên thay vị trí của Phó đô đốc Rozhestvensky cũng không thể tập hợp toàn bộ lực lượng dưới quyền của mình và trên thực tế vẫn tiếp tục chỉ ra lệnh được đơn vị của mình.

Được chuẩn bị tốt cho trận đánh, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu hơn, được vũ trang tốt hơn và có ưu thế vượt trội, Hải quân Nhật ngay từ đầu đã giành được thế chủ động và đến cuối cùng vẫn giữ vững được thế trận. Ban đêm họ đã đánh tan Hải đội Nga, sau đó dễ dàng tiêu diệt và chiếm lấy từng chiếc thiết giáp hạm, tuần dương hạm và tàu phóng ngư lôi.

Kỹ sư Vladimir Kostenko, từng phục vụ trên thiết giáp hạm “Oryol”, kể lại: “Lúc tàu chúng tôi bị tiêu diệt từng chiếc một, bị đạn của quân địch xé nát và lửa thiêu cháy, chúng tôi bị ngã lộn nhào, nhưng vẫn không rời vị trí chiến đấu. Kẻ địch vẫn không bị suy yếu nhiều. Trong trận hải chiến Tsushima, Liên minh Hải quân Nhật Bản chỉ tổn thất 3 tàu phóng ngư lôi, một chiếc trong số đó không phải bị hỏa lực quân Nga tiêu diệt, mà bị chìm do va chạm với một tàu khác của quân Nhật.

Thảm họa

Những tổn thất của Hải đội Nga là nặng nề hơn nhiều so với phía Nhật Bản. Tổng cộng có 21 tàu của Nga bị đối phương tiêu diệt hoặc bị chính thủy thủ đoàn trên tàu phá hủy sau khi bị hư hỏng, gồm: 6 khu trục hạm, 2 thiết giáp hạm, 4 tuần dương hạm, 5 tàu phóng ngư lôi, 1 tàu hỗ trợ và 3 tàu vận tải. 5045 người tử trận, trong đó có 209 sĩ quan.

4 thiết giáp hạm, 1 tàu phóng ngư lôi và 2 tàu bệnh viện buộc phải kéo cờ trắng đầu hàng. Tổng cộng có 7282 người bị quân Nhật bắt làm tù binh, trong đó có 2 chỉ huy trưởng là Phó đô đốc Zinovy Rozhestvensky và Chuẩn Đô đốc Nikolai Nebogatov.

7 tàu chạy vào bờ biển Manila và Thượng Hải, nơi sau đó đã bị giam giữ. Đến được khu vực Vladivostok thuộc Nga chỉ có tuần dương hạm “Almaz”, hai tàu phóng ngư lôi “Bravy” và “Grozny” với 870 sĩ quan và thủy thủ trong số 16.000 người trong thành phần Hải đoàn trước trận chiến.

Thảm họa trong trận hải chiến Tsushima đã dẫn đến việc chấm dứt cuộc chiến tranh thất bại của Nga chống Nhật Bản. Bị mất gần như toàn bộ lực lượng chủ lực của Hải quân, Nga biến thành cường quốc biển thuộc hàng thứ yếu, uy tín quân sự của nước này trên trường quốc tế bị tổn hại nghiêm trọng, dư luận trong nước bắt đầu nhanh chóng bất mãn với chính quyền, cuối cùng dẫn đến cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất năm 1905-1907.

Tại khu vực Viễn Đông, Đế chế Nga đánh mất hoàn toàn vị thế chi phối của mình. Thay thế Nga nắm vị trí đó là Nhật Bản, tạo cơ hội cho “đất nước mặt trời mọc” tiến hành bành trướng quy mô lớn sang Triều Tiên và Trung Quốc. Đến năm 1945, Liên Xô mới có thể phục thù mối hận thất bại trong trận hải chiến Tsushima này.

Chiến tranh Nga và Nhật diễn ra trong bao lâu?

Chiến tranh biên giới Xô – Nhật hay còn gọi là Chiến tranh Nga – Nhật lần 2 là hàng loạt các cuộc xung đột biên giới giữa Liên Xô và Nhật Bản từ năm 1932 đến 1939. Rút kinh nghiệm từ thất bại trong chiến tranh Nga – Nhật lần đầu tiên [1904–1905], Liên Xô đã chủ động tiến đánh chậm rãi và hiệu quả.

Chiến tranh Nga Nhật năm 1904 năm 1905 có tác động như thế nào đối với Nhật Bản?

Đối với Nhật Bản, thắng lợi trong cuộc chiến tranh với Nga [1904 - 1905] đã nâng cao vị thế của Nhật Bản và tạo điều kiện để nước này xoá bỏ các hiệp ước bất bình đẳng đã ký với các nước đế quốc trước đó.

Cảng Lữ Thuận ở đâu?

Hải chiến cảng Lữ Thuận.

Chủ Đề