Cận lâm sàng nào quan trọng nhất trong sỏi thận năm 2024

Trong tất cả các loại sỏi tiết niệu, sỏi niệu quản là bệnh thường gặp và nguy hiểm nhất. Sỏi niệu quản là sỏi hình thành từ thận và di chuyển xuống niệu quản. Trong khi đó, niệu quản là con đường duy nhất dẫn nước tiểu đi từ thận xuống bàng quang. Nếu niệu quản bị tắc nghẽn do sỏi sẽ khiến thận bị giãn dần, ứ nước, ứ mủ, nguy hiểm nhất là thận bị hủy hoại sẽ dẫn đến nguy cơ tử vong.

Siêu âm sỏi niệu quản là một trong những phương pháp để chẩn đoán phát hiện sỏi. Siêu âm sỏi niệu quản cho biết vị trí sỏi và mức độ tác động của sỏi đối với hệ tiết niệu. Do đó, vai trò của siêu âm phát hiện sỏi và xác định tình trạng sỏi là vô cùng quan trọng.

Đặc điểm của sỏi niệu quản trên siêu âm

Siêu âm là một trong những phương pháp phổ biến để chẩn đoán sỏi niệu quản. Phương pháp này ứng dụng sự phản hồi của sóng âm thanh trên vật chất để tạo ra hình ảnh sỏi niệu quản. Trên hình ảnh, sỏi niệu quản là một vật cản âm [bóng sáng].

Hình 1: Siêu âm sỏi niệu quản

Ưu điểm của siêu âm sỏi niệu quản

Đây là kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh không xâm lấn, không nhiễm xạ, cho chất lượng hình ảnh tốt, giá thành thấp, kết quả nhanh, có thể sử dụng để theo dõi diễn tiến của sỏi.

Góp phần tiên lượng, đánh giá biến chứng sỏi niệu quản, từ đó giúp bác sỹ lâm sàng đưa ra phương án điều trị

Thao tác thực hiện đơn giản, do đó rất hữu ích khi thực hiện đối với trẻ em hoặc những bệnh nhân kém hợp tác.

Nhược điểm của siêu âm sỏi niệu quản

Siêu âm sỏi niệu quản không phải là phương pháp chẩn đoán xác định hay chẩn đoán phân biệt, do có thể nhầm lẫn giữa sỏi với cặn nước tiểu, và không thể phân biệt các loại sỏi khác nhau.

Trong các trường hợp thành bụng dày hoặc chướng hơi sẽ gây hạn chế khảo sát niệu quản trên siêu âm.

Siêu âm sỏi niệu quản chỉ hỗ trợ các phương pháp chẩn đoán khác hoặc dùng để theo dõi sự tiến triển và tái phát của sỏi.

Vai trò của siêu âm sỏi niệu quản

Hình ảnh sỏi niệu quản khi siêu âm đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán sỏi niệu quản. Dựa vào siêu âm, bác sỹ có thể:

Biết số lượng , kích thước, vị trí của sỏi niệu quản và sỏi thận.

Đánh giá kích thước thận, niệu quản, sự lưu thông của thận.

Phát hiện biến chứng của sỏi niệu quản: tình trạng giãn đài bể thận, độ dày- mỏng và các tổn thương nhu mô thận, đài bể thận,...

Hình 2: Sỏi niệu quản gây ứ nước thận

Kết quả siêu âm là cơ sở quan trọng để lựa chọn phương pháp điều trị hiệu quả.

Siêu âm sỏi niệu quản cho phép xác định vị trí sỏi ở đoạn nào của niệu quản, đồng thời kết hợp với các kỹ thuật hình ảnh khác như: X quang hệ tiết niệu, X-quang hệ niệu có cản quang [UIV], chụp cắt lớp vi tính hệ tiết niệu. Ngoài ra, bệnh nhân có thể làm thêm một số xét nghiệm huyết học, xét nghiệm tổng phân tích máu và nước tiểu để đánh giá chức năng của thận ... Dựa trên kết quả đầy đủ, bác sĩ sẽ chọn lựa phương pháp điều trị phù hợp.

Sỏi tiết niệu là những phân tử rắn trong hệ tiết niệu. Chúng có thể gây đau, buồn nôn, nôn ói, đái máu và có thể gây sốt, rét run vì nhiễm trùng thứ phát. Chẩn đoán dựa trên chẩn đoán hình ảnh X-quang, thường là chụp CT xoắn ốc không thuốc cản quang. Điều trị bằng thuốc giảm đau, kháng sinh chống nhiễm trùng, tống xuất sỏi bằng điều trị nội khoa và đôi khi là các thủ thuật phẫu thuật xâm lấn tối thiểu [tán sỏi bằng sóng xung kích hoặc lấy sỏi qua nội soi].

Khoảng 1 trong số 1.000 người trưởng thành ở Hoa Kỳ phải nhập viện hàng năm vì sỏi tiết niệu, cũng thấy ở khoảng 1% số bệnh nhân trong tất cả các ca khám nghiệm tử thi. Có đến 12% nam giới và 10% phụ nữ sẽ hình thành sỏi tiết niệu ở tuổi 70. Sỏi có kích thước thay đổi từ các ổ vi tinh thể đến các sỏi có đường kính vài centimet. Sỏi san hô với kích thước lớn, có thể lấp đầy toàn bộ đài bể thận.

Khoảng 85% số sỏi ở Hoa Kỳ bao gồm canxi, chủ yếu là canxi oxalat [xem bảng ; 10% bao gồm axit uric; 2% bao gồm cystine; hầu hết phần còn lại chủ yếu gồm magie amoni photphat [struvite].

Các yếu tố nguy cơ nói chung bao gồm các rối loạn làm tăng nồng độ muối trong nước tiểu, tăng bài tiết canxi hoặc muối axit uric, giảm bài tiết citrate niệu.

Các yếu tố nguy cơ của sỏi canxi, thay đổi theo quần thể. Yếu tố nguy cơ chính ở Hoa Kỳ là tăng canxi niệu, một tình trạng di truyền có ở 50% số nam giới và 75% số nữ giới bị sỏi canxi; do đó, những bệnh nhân có tiền sử gia đình bị sỏi có nguy cơ cao hơn bị sỏi tái phát. Những bệnh nhân này có canxi huyết thanh bình thường, nhưng canxi trong nước tiểu tăng \> 250 mg/ngày [\> 6.2 mmol/ngày] ở nam giới và \> 200 mg/ngày [\> 5,0 mmol/ngày] ở nữ giới.

Giảm citrat niệu [citrate niệu < 350 mg/ngày, [1820 micromol/ngày]], gặp ở khoảng 40 đến 50% bệnh nhân sỏi canxi, thúc đẩy sự hình thành sỏi canxi vì citrate thường kết hợp với canxi niệu và ức chế sự kết tinh của muối canxi.

Khoảng 5 đến 8% số sỏi có nguyên nhân là do toan hóa ống thận Toan hóa ống thận Toan hóa ống thận [RTA] là tình trạng toan hóa và rối loạn điện giải do sự giảm bài tiết ion hydro ở thận [loại 1], giảm tái hấp thu bicarbonat [loại 2], hoặc rối loạn tổng hợp hoặc đáp ứng... đọc thêm . Khoảng 1 đến 2% bệnh nhân có sỏi canxi có cường cận giáp tiên phát. Các nguyên nhân hiếm gặp gây tăng calci niệu là bệnh sacoit Sarcoidosis Bệnh sarcoid là một bệnh lý viêm biểu hiện bằng tổn thương u hạt không hoại tử ở một hoặc nhiều cơ quan và mô; căn nguyên không rõ ràng. Phổi và hệ thống bạch huyết là cơ quan bị ảnh hưởng nhiều... đọc thêm

, nhiễm độc vitamin D Ngộ độc Vitamin D Thông thường, ngộ độc vitamin D xảy ra do đưa vào quá nhiều. Khi ngộ độc vitamin D, sự tái hấp thu của xương và sự hấp thu canxi trong ruột tăng lên, dẫn đến chứng tăng canxi máu. Chứng tăng... đọc thêm , cường giáp Cường giáp Cường giáp được đặc trưng bởi tăng chuyển hóa và tăng nồng độ các hormone giáp tự do. Các triệu chứng bao gồm đánh trống ngực, mệt mỏi, giảm cân, không chịu được nhiệt, lo lắng và run. Chẩn... đọc thêm
, đa u tủy Đa u tủy xương Đa u tủy xương là ung thư của tương bào mà sản xuất ra các globulin miễn dịch đơn dòng, xâm lấn và phá hủy xương lân cận. Các biểu hiện thường gặp bao gồm tổn thương tiêu xương gây đau và/hoặc... đọc thêm
, ung thư di căn và tăng oxalat niệu nguyên phát.

Nồng độ oxalat trong nước tiểu tăng cao [tăng oxalat niệu, oxalat trong nước tiểu \> 40 mg/ngày [\> 440 micromol/ngày]] có thể gây hình thành sỏi canxi oxalat [sỏi thận oxalat canxi tăng uric niệu]. Tăng oxalat niệu có thể là nguyên phát hoặc do ăn quá nhiều thực phẩm chứa oxalat [ví dụ: đại hoàng, rau bina, ca cao, các loại hạt, hạt tiêu, trà] hoặc do hấp thụ quá nhiều oxalat do các bệnh đường ruột khác nhau [ví dụ: hội chứng phát triển quá mức của vi khuẩn, bệnh Crohn, viêm loét viêm đại tràng, bệnh tụy hoặc bệnh đường mật mạn tính] hoặc phẫu thuật hồi-hỗng tràng [ví dụ: phẫu thuật giảm béo].

Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm dùng liều cao vitamin C [ví dụ: \> 2000 mg/ngày], chế độ ăn hạn chế canxi [có thể do chế độ ăn hạn chế canxi gắn liền với chế độ ăn hạn chế oxalat] và tăng axit uric niệu nhẹ. Tăng axit uric niệu nhẹ, được định nghĩa là axit uric trong nước tiểu \> 800 mg/ngày [\> 5 mmol/ngày] ở nam giới hoặc \> 750 mg/ngày [\> 4 mmol/ngày] ở nữ giới, hầu như luôn là do ăn quá nhiều purine [trong protein, thường là từ thịt, cá và gia cầm].

Sỏi axit uric thường phát triển nhất do tăng độ axit trong nước tiểu [pH nước tiểu < 5,5], hoặc rất hiếm gặp với tăng axit uric niệu nặng [axit uric trong nước tiểu \> 1.500 mg/ngày [\> 9 mmol/ngày]], làm kết tinh axit uric không phân ly. Các tinh thể axit uric có thể tự hình thành toàn bộ cấu trúc sỏi hoặc hay gặp hơn là tạo ra một cấu trúc ở đó sỏi canxi hoặc sỏi hỗn hợp canxi axit uric được hình thành.

Các nguyên nhân hiếm gặp của sỏi tiết niệu gồm sử dụng indinavir, melamine, triamterene và xanthine.

Sỏi tiết niệu có thể nằm trong nhu mô thận, hệ thống ống góp hoặc di chuyển xuống niệu quản và bàng quang. Trong quá trình di chuyển, sỏi có thể kích thích niệu quản và có thể bị mắc kẹt làm tắc nghẽn dòng nước tiểu gây ứ nước niệu quản và đôi khi ứ nước thận. Các vị trí sỏi thường mắc kẹt bao gồm:

  • Vị trí nối bể thận niệu quản
  • Niệu quản đoạn xa [ngang mức bắt chéo các mạch chậu]
  • Vị trí nối bàng quang niệu quản

Sỏi càng lớn càng có nguy cơ bị mắc kẹt. Thông thường, một viên sỏi kích thước có đường kính \> 5 mm mới có thể bị kẹt. Sỏi ≤ 5 mm có nhiều khả năng tự bài xuất.

Ngay cả khi tắc nghẽn một phần gây ra giảm mức lọc cầu thận thì tình trạng này có thể còn tồn tại một thời gian ngắn sau khi sỏi đi qua. Ở bệnh nhân ứ nước thận áp lực cầu thận tăng, lưu lượng máu qua thận giảm càng ảnh hưởng xấu đến chức năng thận. Tuy nhiên nói chung nếu không có nhiễm trùng, rối loạn chức năng thận kéo dài chỉ xảy ra sau khoảng 28 ngày tắc nghẽn hoàn toàn.

Nhiễm trùng thứ phát có thể xảy ra khi tắc nghẽn kéo dài, nhưng hầu hết bệnh nhân có sỏi canxi không có nước tiểu nhiễm trùng.

Các triệu chứng và dấu hiệu của sỏi tiết niệu

Các sỏi lớn nằm trong nhu mô thận hoặc hệ thống ống góp thường không gây triệu chứng trừ khi sỏi gây tắc nghẽn và/hoặc nhiễm trùng. Khi sỏi thận di chuyển xuống niệu quản và gây tắc nghẽn cấp tính gây đau dữ dội, thường kèm theo buồn nôn và nôn. Đái máu đại thể cũng xảy ra, nhưng không phải ở tất cả các bệnh nhân bị sỏi đường tiết niệu.

Khi thăm khám, bệnh nhân có thể cảm thấy rất khó chịu, vã mồ hôi, tái mặt. Bệnh nhân có cơn đau quặn thận thường không thể nằm yên và có thể đi lại liên tục, đau quặn bụng hoặc liên tục thay đổi tư thế. Bụng có thể có cảm ứng ở vùng bị ảnh hưởng vì khi sờ làm tăng áp lực trong thận căng giãn [cảm ứng vùng góc sườn cột sống], nhưng không có các dấu hiệu phúc mạc [cảm ứng phúc mạc, phản ứng thành bụng, co cứng thành bụng].

Đối với một số bệnh nhân, triệu chứng đầu tiên là đái máu hoặc đái ra sỏi. Các bệnh nhân khác có thể có các triệu chứng của nhiễm trùng đường tiểu Nhiễm trùng đường tiết niệu do vi khuẩn Các vi khuẩn gây nhiễm trùng đường tiết niệu có thể liên quan đến niệu đạo, tuyến tiền liệt, bàng quang hoặc thận. Triệu chứng có thể không có hoặc bao gồm: tiểu dắt, tiểu gấp, tiểu buốt, đau... đọc thêm , chẳng hạn như sốt, đái khó Tiểu buốt Tiểu buốt là tình trạng đau hoặc khó chịu khi đi tiểu, điển hình là cảm giác đau buốt, nóng rát. Một số bệnh lý gây đau trên bàng quang hoặc đáy chậu. Tiểu buốt là một triệu chứng rất phổ biến... đọc thêm hoặc nước tiểu đục có mùi hôi.

  • Chẩn đoán phân biệt trên lâm sàng
  • Xét nghiệm nước tiểu
  • Chẩn đoán hình ảnh
  • Xác định thành phần cấu tạo sỏi

Các triệu chứng và dấu hiệu có thể gợi ý các chẩn đoán khác, chẳng hạn như

  • Viêm phúc mạc [ví dụ: do viêm ruột thừa Viêm ruột thừa Viêm ruột thừa là tình trạng viêm cấp tính của ruột thừa giống con sâu, thường dẫn đến đau bụng, chán ăn và đau bụng. Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, thường có siêu âm hoặc cắt lớp vi tính hỗ trợ... đọc thêm
    , bệnh túi thừa Bệnh túi thừa đại tràng Bệnh túi thừa ở đại tràng là sự hiện diện của một hoặc nhiều túi thừa ở đại tràng. Hầu hết các túi thừa đều không có triệu chứng, nhưng một số sẽ bị viêm hoặc chảy máu. Chẩn đoán bằng nội soi... đọc thêm
    , thai ngoài tử cung Có thai ngoài tử cung Ở thai ngoài tử cung, việc làm tổ ở một vị trí khác ngoài lớp nội mạc tử cung của buồng tử cung - tức là trong ống fallopian, sừng tử cung, cổ tử cung, buồng trứng, hoặc khoang bụng hoặc vùng... đọc thêm hoặc bệnh viêm vùng chậu Bệnh viêm vùng chậu [PID] Bệnh viêm vùng chậu [PID] là nhiễm trùng đa vi sinh vật đường sinh dục trên của phụ nữ: cổ tử cung, tử cung, vòi trứng và buồng trứng; áp xe có thể xảy ra. PID có thể do các bệnh nhiễm trùng... đọc thêm ]: Đau thường liên tục và bệnh nhân nằm yên do đau tăng khi vận động, bệnh nhân thường có cảm ứng phúc mạc, phản ứng thành bụng hoặc co cứng thành bụng.

Bệnh nhân nghi ngờ có sỏi gây cơn đau quặn thận cần được làm xét nghiệm nước tiểu cũng như các thăm dò chẩn đoán hình ảnh. Nếu chẩn đoán xác định có sỏi, cần đánh giá các bệnh lý nền bao cần chỉ định xét nghiệm xác định thành phần cấu tạo sỏi.

Tiểu máu đại thể hoặc đái máu vi thể là phổ biến, nhưng nước tiểu có thể bình thường mặc dù có nhiều sỏi. Đái mủ có hoặc không có vi khuẩn có thể gặp. Đái mủ gợi ý nhiễm trùng, đặc biệt nếu kèm theo các dấu hiệu lâm sàng gợi ý như nước tiểu hôi hoặc sốt. Xét nghiệm cặn nước tiểu có thể có sỏi hoặc nhiều thành phần tinh thể khác nhau. Nếu vậy, việc kiểm tra thêm thông qua thu thập nước tiểu 24 giờ thường là cần thiết để xác định nguyên nhân vì không thể xác định kết luận thành phần của sỏi và tinh thể bằng kính hiển vi. Ngoại lệ duy nhất là khi có các tinh thể lục giác điển hình của sỏi cystine được tìm thấy trong mẫu nước tiểu toan hóa cô đặc.

Chụp CT xoắn ốc không thuốc cản quang là nghiên cứu chẩn đoán hình ảnh đầu tiên, phổ biến nhất. Thăm dò này có thể phát hiện vị trí của sỏi cũng như mức độ tắc nghẽn. Hơn nữa, chụp CT xoắn ốc cũng có thể tiết lộ các nguyên nhân khác của cơn đau [ví dụ: phình động mạch chủ Tổng quan về Phình động mạch chủ Phình động mạch là sự giãn bất thường của động mạch gây ra bởi sự suy yếu của thành động mạch. Các nguyên nhân phổ biến bao gồm tăng huyết áp, xơ vữa động mạch, nhiễm trùng, chấn thương, bệnh... đọc thêm

]. Đối với bệnh nhân có sỏi tái diễn, sự tích lũy bức xạ do chụp CT nhiều lần là một điều đáng lưu tâm. Tuy nhiên, chụp CT thường xuyên với liều thấp có thể làm giảm có ý nghĩa việc tích lũy liều bức xạ mà chỉ giảm một chút độ nhạy của phương pháp [ ]. Đối với bệnh nhân có các triệu chứng điển hình, siêu âm hoặc chụp X quang bụng thẳng có thể chẩn đoán xác định có sỏi với sự phơi nhiễm tối thiểu với bức xạ. Chụp MRI có thể không xác định được sỏi.

Sỏi được thu thập qua lọc nước tiểu lấy sỏi [hoặc nếu cần, thu thập trong quá trình mổ lấy sỏi] sau đó được gửi đến phòng xét nghiệm để phân tích cấu trúc sỏi. Một số sỏi được bệnh nhân mang tới. Mẫu nước tiểu cho thấy hình ảnh các vi tinh thể được gửi đến để nghiên cứu tinh thể học.

Những bệnh nhân có tiền sử gia đình bị sỏi có nguy cơ hình thành sỏi [ví dụ: sarcoidosis Sarcoidosis Bệnh sarcoid là một bệnh lý viêm biểu hiện bằng tổn thương u hạt không hoại tử ở một hoặc nhiều cơ quan và mô; căn nguyên không rõ ràng. Phổi và hệ thống bạch huyết là cơ quan bị ảnh hưởng nhiều... đọc thêm

, di căn xương, đa u tủy xương Đa u tủy xương Đa u tủy xương là ung thư của tương bào mà sản xuất ra các globulin miễn dịch đơn dòng, xâm lấn và phá hủy xương lân cận. Các biểu hiện thường gặp bao gồm tổn thương tiêu xương gây đau và/hoặc... đọc thêm
] hoặc các điều kiện gây khó khăn trong việc điều trị sỏi [ví dụ thận đơn độc, bất thường giải phẫu đường tiểu] đòi hỏi cần đánh giá tất cả các nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ. Việc đánh giá này nên bao gồm điện giải đồ, axit uric và canxi huyết thanh trong hai lần xét nghiệm riêng biệt. Theo dõi đánh giá nồng độ hormone tuyến cận giáp nếu cần. Các xét nghiệm nước tiểu nên bao gồm phân tích nước tiểu thường quy và 2 lần lấy nước tiểu riêng biệt trong 24 giờ khi bệnh nhân đang ăn kiêng để xác định lượng nước tiểu, độ pH và sự bài tiết canxi, axit uric, citrat, oxalat, natri và creatinin. Để biết thêm thông tin về quản lý bệnh sỏi thận, xem Hướng dẫn của Hiệp hội tiết niệu Hoa Kỳ [ ].

  • 1. Zilberman DE, Tsivian M, Lipkin ME, et al: Low dose computerized tomography for detection of urolithiasis—its effectiveness in the setting of the urology clinic. J Urol 185[3]:910-914, 2011. doi: 10.1016/j.juro.2010.10.052
  • 2. Pearle MS, Goldfarb DS, Assimos DG, et al: Medical management of kidney stones—AUA guideline. doi: 10.1016/j.juro.2014.05.006 J Urology 92[2]:316-24, 2014 doi: 10.1016/j.juro.2014.05.006

Xem thêm

  • Giảm đau
  • Tạo điều kiện thuận lợi cho sỏi di chuyển, ví dụ sử dụng các thuốc chẹn thụ thể alpha như tamsulosin [liệu pháp điều trị tống sỏi]
  • Đối với những sỏi gây nhiễm trùng hoặc sỏi dai dẳng cần loại bỏ sỏi hoàn toàn bằng các kỹ thuật nội soi là chủ yếu.

Các opioid như morphin và fentanyl có thể giúp cải thiện các triệu chứng cơn đau quặn thận nếu khởi phát nhanh. Ketorolac 30 mg tiêm tĩnh mạch có hiệu quả làm giảm đau nhanh. Tình trạng nôn thường được giải quyết khi đau giảm, nhưng nôn kéo dài có thể được điều trị bằng thuốc chống nôn [ví dụ ondansetron 10 mg tiêm tĩnh mạch].

Tăng cung cấp dịch chưa có bằng chứng làm tăng tốc độ tống sỏi tuy nhiên liệu pháp tăng bù dịch [uống hoặc truyền tĩnh mạch] hiện vẫn được khuyến cáo. Bệnh nhân có sỏi đường kính < 1 cm không có nhiễm trùng hoặc tắc nghẽn, đau kiểm soát được bằng các thuốc giảm đau và những người có thể dung nạp với bù dịch có thể được điều trị tại nhà với thuốc giảm đau và thuốc chẹn thụ thể alpha [ví dụ tamsulosin 0,4 mg uống một lần/ngày] để tạo điều kiện cho việc tống sỏi. Các sỏi không bài xuất được trong vòng 6 đến 8 tuần thường đòi hỏi phải can thiệp lấy sỏi. Ở những bệnh nhân nghi ngờ nhiễm trùng và tắc nghẽn, điều trị ban đầu là làm giảm tắc nghẽn càng sớm càng tốt bằng cách đặt stent niệu quản qua nội soi bàng quang hoặc đặt ống nội soi cắt thận qua da và điều trị nhiễm trùng sau đó là cắt bỏ sỏi càng sớm càng tốt.

Kỹ thuật được sử dụng để lấy sỏi phụ thuộc vào vị trí và kích thước của sỏi. Các kỹ thuật bao gồm phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể và các kỹ thuật nội soi lấy sỏi để đảm bảo loại bỏ hoàn toàn hoặc để lấy các viên sỏi lớn hơn. Các kỹ thuật nội soi bao gồm nội soi niệu quản ống mềm hoặc ống cứng lấy sỏi trực tiếp hoặc phá vỡ sỏi sử dụng một số dụng cụ tán sỏi [ví dụ, khí nén, siêu âm, laser] hoặc cả hai. Đặt stent niệu quản trong thời gian ngắn [ví dụ: từ 4 ngày đến 7 ngày] thường được sử dụng cho đến khi hết viêm hoặc hết phù do sỏi hoặc thủ thuật gây ra.

Đối với sỏi có triệu chứng có đường kính < 1 cm trong hệ thống thu thập thận hoặc niệu quản gần, tán sỏi bằng sóng xung kích là lựa chọn điều trị hợp lý đầu tiên.

Đối với sỏi lớn hơn hoặc nếu tán sỏi bằng sóng xung kích không thành công, nội soi niệu quản [thực hiện theo kiểu ngược dòng] kèm theo tán sỏi bằng laser holmium hoặc thulium thường được sử dụng. Đôi khi can thiệp lấy sỏi có thể được thực hiện qua nội soi xuôi dòng vào trong thận [ví dụ tán sỏi qua da]. Đối với sỏi thận \> 2 cm, phẫu thuật lấy sỏi qua da với ống nội soi được đặt trực tiếp vào trong thận cũng là một lựa chọn điều trị.

Với sỏi niệu quản giữa, tán sỏi sử dụng laser holmium qua nội soi niệu quản thường được lựa chọn. Tán sỏi ngoài cơ thể là một lựa chọn thay thế.

Đối với sỏi niệu quản xa, các kỹ thuật nội soi [nội soi niệu quản], chẳng hạn như loại bỏ trực tiếp và sử dụng phương pháp tán sỏi trong cơ thể [ví dụ: laser holmium hoặc thulium, khí nén], được nhiều người coi là thủ thuật được lựa chọn. Tán sỏi ngoài cơ thể cũng có thể được sử dụng.

Sỏi axit uric ở đường niệu trên hoặc dưới đôi khi có thể được hòa tan bằng cách sử dụng liệu pháp kiềm hóa nước tiểu kéo dài sử dụng kali citrat 20 mEq [20 mmol/L] uống 2 đến 3 lần/ngày, phương pháp hòa tan sỏi là không thể đối với sỏi canxi và rất khó đối với sỏi cystine.

Ở bệnh nhân có sỏi canxi đã can thiệp, nguy cơ hình thành sỏi thứ 2 khoảng 15% sau 1 năm, 40% sau 5 năm và 80% sau 10 năm. Uống một lượng lớn nước 8 đến 10 ly [300 ml mỗi ly] mỗi ngày được khuyến cáo để phòng ngừa các loại sỏi. Những bệnh nhân đã hình thành sỏi [những người có tiền sử sỏi tái phát và những người có sỏi mới được chẩn đoán qua chẩn đoán hình ảnh] nên uống đủ nước để tạo ra ít nhất 2,5 lít nước tiểu mỗi ngày. Cần phục hồi và phân tích cặn, đo các chất tạo sỏi trong nước tiểu và bệnh sử để lên kế hoạch cho các biện pháp dự phòng khác.

Không tìm thấy bất cứ rối loạn chuyển hóa nào ở < 3% số bệnh nhân. Những bệnh nhân này dường như không dung nạp lượng muối tạo sỏi bình thường trong nước tiểu và không có các tinh thể kèm theo. Thuốc lợi tiểu thiazid, kali citrat và tăng lượng dịch hấp thu có thể làm giảm tỷ lệ hình thành sỏi.

Đối với những bệnh nhân giảm citrat niệu, kali citrat [20 mEq [20 mmol/L] uống 2 lần/ngày] làm tăng bài tiết citrat. Lượng canxi hấp thu bình thường [ví dụ, 1000 mg hoặc khoảng 2 đến 3 cốc sữa mỗi ngày] được khuyến cáo và tránh chế độ ăn nghèo canxi. Orthophosphate đường uống chưa được nghiên cứu đầy đủ. Các chất kiềm thay thế [ví dụ, natri hoặc kali bicarbonate] có thể được sử dụng để tăng cường bài tiết citrat nếu không thể dung nạp được kali citrat.

Các biện pháp dự phòng tăng oxalat niệu khá đa dạng. Bệnh nhân bị bệnh ruột nhỏ có thể được điều trị kết hợp giữa tăng lượng dịch hấp thu, bù canxi [thường ở dạng canxi citrat 400 mg uống 2 lần/ngày trong bữa ăn], cholestyramine và chế độ ăn hạn chế oxalat và chất béo. Tăng oxalat niệu có thể đáp ứng với điều trị pyridoxine 100-200 mg uống một lần/ngày, có thể do cơ chế làm tăng hoạt tính của transaminase, bởi vì hoạt động này phụ trách việc chuyển đổi glyoxylate, tiền chất của oxalate, thành glycine.

Trong tăng axit uric niệu, nên ăn giảm lượng đạm động vật. Nếu chế độ ăn không có hiệu quả, allopurinol 300 mg mỗi buổi sáng giúp làm giảm sản xuất axit uric. Đối với sỏi axit uric, độ pH của nước tiểu phải được tăng lên từ 6 đến 6,5 bằng cách cho uống thuốc kiềm hóa có chứa kali [ví dụ: kali citrate 20 mEq [20 mmol/L] hai lần mỗi ngày] cùng với việc tăng lượng nước uống.

Nhiễm trùng do vi khuẩn phân hủy urê đòi hỏi các kháng sinh đặc hiệu theo kháng sinh đồ và cần can thiệp lấy sỏi toàn bộ tất cả các loại sỏi. Nếu không thể loại bỏ hoàn toàn nhiễm trùng, liệu pháp ức chế lâu dài [ví dụ dùng nitrofurantoin] có thể cần thiết. Ngoài ra, axit acetohydroxamic có thể được sử dụng để làm giảm sự tái phát của sỏi struvite.

Để tránh tái phát sỏi cystine, nồng độ cystine niệu phải được giảm xuống < 250 mg cystine/L nước tiểu. Bất kỳ sự kết hợp nào của việc tăng lượng nước tiểu cùng với việc tăng bài tiết cystine [ví dụ sử dụng alpha-mercaptopropionylglycine [tiopronin] hoặc penicillamine] cũng làm giảm nồng độ cystine trong nước tiểu.

  • 1. Ferraro PM, Bargagli M, Trinchieri A, et al: Risk of kidney stones: Influence of dietary factors, dietary patterns, and vegetarian–vegan diets. Nutrients 12[3]: 779, 2020 doi: 10.3390/nu12030779
  • 85% số sỏi tiết niệu bao gồm canxi, chủ yếu là canxi oxalat [xem bảng ]; 10% bao gồm axit uric; 2% bao gồm cystine; và hầu hết phần còn lại bao gồm magiê amoni photphat [struvite].
  • Các loại sỏi lớn hơn có nhiều khả năng gây tắc nghẽn; tuy nhiên, tắc nghẽn có thể xảy ra ngay cả với sỏi niệu quản nhỏ [ví dụ, 2 đến 5 mm].
  • Các triệu chứng bao gồm đái máu, triệu chứng nhiễm trùng và cơn đau quặn thận.
  • Kiểm tra thường bằng phân tích nước tiểu, chẩn đoán hình ảnh, và — nếu sau này có thể lấy được sỏi — thì xác định thành phần của sỏi.
  • Cho thuốc giảm đau và các loại thuốc khác để tạo điều kiện thuận lợi cho sỏi đi qua [ví dụ: thuốc chẹn thụ thể alpha] và loại bỏ sỏi gây nhiễm trùng hoặc tồn tại dai dẳng qua nội soi.

Giảm nguy cơ hình thành sỏi sau đó bằng các phương pháp điều trị như sử dụng lợi tiểu thiazide, kali citrat, tăng lượng dịch hấp thu và giảm protein động vật trong chế độ ăn phụ thuộc vào thành phần cấu tạo sỏi.

Chủ Đề