Cách đánh giá, xếp loại học sinh THPT

Trước đây, việc đánh giá học lực của học sinh THPT sẽ dựa trên điểm tổng kết trung bình các môn học theo kỳ và theo năm học. Điểm trung bình môn theo học kỳ được tính bằng cách lấy trung bình cộng điểm tổng kết của tất cả các môn học trong học kỳ đó. Điểm trung bình năm học được tính bằng cách lấy trung bình cộng của tất cả các môn học trong cả năm học.

Khi tổng kết kỳ và năm học sẽ tính điểm trung bình các môn học

Tuy vậy, cách tính này chưa thực sự triệt để và chưa đánh giá hoàn toàn chính xác học lực của học sinh THPT. Chính vì vậy, trong Thông tư 22 năm 2021, việc tính điểm trung bình các môn học để làm căn cứ xếp loại học lực sẽ được lại bỏ và thay bằng tiêu chuẩn khác.

Theo quy định cũ, có 5 mức đánh giá xếp loại học lực của học sinh THPT bao gồm: Giỏi, Khá, Trung Bình, Yếu và Kém. Tuy nhiên, theo quy định mới nhất, hệ thống xếp loại 5 mức này sẽ được loại bỏ và thay thế bằng hệ thống đánh giá theo 4 mức mới là Tốt, Khá, Đạt và Chưa Đạt.

1.2.1. Tiêu chí xếp loại học lực mức Tốt

Mức Tốt là mức xếp hạng cao nhất trong các bậc đánh giá học lực của học sinh THPT. Trong số các môn học, có cả những môn được đánh giá bằng điểm số và những môn không được đánh giá bằng điểm số.

Thay đổi các mức xếp loại học lực học sinh THPT

Bởi vậy, theo quy định. học sinh được đánh giá học lực ở mức Tốt sẽ cần đáp ứng được những tiêu chi sau đây:

- Tất cả các môn học mà không được đánh giá bằng điểm số đều phải ở mức Đạt.

- Đối với các môn học được đánh giá bằng điểm số, điểm trung bình của học kỳ hoặc điểm trung bình cả năm học phải đạt tối thiểu là 6.5.

- Có từ 6 môn học trở lên đạt điểm tổng kết học kỳ hoặc tổng kết cả năm đạt 8.0 trở lên.

1.2.2. Tiêu chí xếp loại học lực mức Khá

Tiêu chí xếp loại học lực mức Khá cũng tương tự như tiêu chí xếp loại học lực mức Tốt, chỉ khác nhau một chút về điểm tổng kết các môn học. Cụ thể, những tiêu chí để học sinh THPT được xếp loại học lực ở mức Khá bao gồm:

- Tất cả các môn học mà được đánh giá bằng nhận xét của giáo viên đều phải ở mức Đạt.

- Tất cả các môn học mà được đánh giá thông qua điểm số thì phải có điểm trung bình của học kỳ hoặc điểm trung bình cả năm học từ 5.0 trở lên.

- Có ít nhất 6 môn học đạt điểm tổng kết học kỳ hoặc tổng kết cả năm tối thiểu là 6.5.

Thay đổi tiêu chí xếp loại học lực học sinh THPT

Điều kiện để học sinh THPT được đánh giá học lực xếp loại Đạt cũng được xét trên 3 tiêu chí như trên. Cụ thể:

- Trong số các môn được đánh giá bằng nhận xét, chỉ được phép có 1 môn được đánh giá là Chưa Đạt.

- Có ít nhất 6 môn học, trong đó kết hợp đánh giá bằng nhận xét và đánh giá bằng điểm số, có điểm tổng kết trung bình kỳ hoặc năm từ 5.0 trở lên.

- Học sinh không có môn học nào được điểm tổng kết kỳ học hoặc năm học dưới 3.5.

Mức cuối cùng là mức Chưa Đạt thuộc các trường hợp còn lại.

Trong số các môn học, các môn không được đánh giá bằng điểm số mà thay vào đó sẽ đánh giá ở hai mức Đạt và Chưa Đạt bao gồm: Giáo dục thể chất, Mỹ thuật, Âm nhạc, Nghệ thuật, Giáo dục tại địa phương và hoạt động hướng nghiệp dạy nghề. Các môn học còn lại có thể được đánh giá kết hợp bằng cả nhận xét và điểm số.

Có 6 môn học không được đánh giá bằng điểm số

Thêm một điểm mới nữa trong quy định tại Thông tư 22 đó là sẽ bỏ cơ chế môn học chính là môn học phụ. Cụ thể, trước đây, để được xếp loại học lực Giỏi thì học sinh THPT phải có tổng điểm trung bình kỳ hoặc năm đạt mức 8.0 trở lên. Trong số đó, điểm tổng kết kỳ hoặc năm của một trong ba môn học Toán, Văn hoặc Ngoại ngữ bắt buộc phải đạt tối thiểu là 8.0.

Tuy nhiên, trong quy định mới nhất tại Thông tư 22, để được xếp loại học lực ở mức Tốt, học sinh THPT cần có tất cả các môn học được đánh giá bằng nhận xét đều ở mức Đạt, tất cả các môn được đánh giá bằng điểm phải đạt ít nhất 6.5 và có ít nhất là 6 môn đạt điểm trung bình kỳ hoặc năm từ 8.0 trở lên.

Các môn học không còn phân biệt chính và phụ

Như vậy, quy chế đánh giá và các xếp loại học lực học sinh THPT mới này sẽ toàn diện hơn và đánh giá chính xác học lực của học sinh hơn là quy định cũ. Đồng thời, theo quy định mới, cơ chế môn chính môn phụ đã chính thức được loại bỏ.

3. Quy định mới về đánh giá học lực và lên lớp

Theo quy định cũ, học sinh THPT cần phải đạt xếp loại học lực và hạnh kiểm từ Trung Bình trở lên mới đủ điều kiện xét lên lớp. Bên cạnh đó, số buổi nghỉ học trong một năm học không vượt quá 45 buổi.

Tuy nhiên, trong Thông tư 22 cũng ghi rõ quy định mới về điều kiện lên lớp của học sinh THPT. Theo đó, để được xét lên lớp, học sinh phải có mức đánh giá kết quả rèn luyện trong năm học ở mức Đạt trở lên. Cụ thể như sau:

- Chấp nhận trường hợp có 1 môn học đánh giá bằng nhận xét được đánh giá là Chưa Đạt.

- Có ít nhất 6 môn học có điểm tổng kết học kỳ và tổng kết năm học đạt tối thiểu 5.0 và không có môn học nào điểm tổng kết học kỳ, điểm tổng kết năm dưới 3.5.

Quy định mới về đánh giá học lực và lên lớp

Tóm lại, theo quy định mới thì học sinh có 1 môn bị đánh giá là Chưa Đạt vẫn có thể đủ điều kiện lên lớp. Cũng theo Thông tư 22 thì sự thay đổi này bắt đầu áp dụng cho đối tượng là học sinh THPT bắt đầu từ năm học 2022 – 2023.

Các trường học hiện nay cũng đang dần ứng dụng sâu hơn công nghệ thông tin vào trong hoạt động giảng dạy và quản lý. Việc quản lý trường học được thực hiện dễ dàng hơn với sự hỗ trợ của các phần mềm, chẳng hạn như phần mềm quản lý trường học 365.

Như vậy, bài viết đã cung cấp cho bạn đọc những thông tin thay đổi trong cách xếp loại học lực học sinh THPT Theo thông tư 22. Đồng thời quy định cũ về đánh giá hạnh kiểm cũng được thay thế bằng đánh giá kết quả rèn luyện. Đây là bước tiến mới nhằm đánh giá chính xác hơn học lực và kết quả rèn luyện của học sinh.

Phần mềm quản lý trường học

Lợi ích mang lại khi sử dụng phần mềm quản lý trường học là gì? Tham khảo top những phần mềm quản lý trường học chất lượng và hiệu quả nhất qua bài viết sau đây.

Phần mềm quản lý trường học

Bỏ đánh giá bằng điểm số và chuyển sang đánh giá hoàn toàn bằng nhận xét với một số môn học, bỏ tính điểm trung bình tất cả các môn học… là những điểm mới quan trọng trong cách đánh giá học sinh bậc trung học cơ sở và trung học phổ thông theo Thông tư Thông tư số 22/2021/TT-BGDĐT Quy định về đánh giá học sinh trung học cơ sở và học sinh trung học phổ thông vừa được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.

Thông tư có hiệu lực từ ngày 5/9/2021 và thực hiện theo lộ trình triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới đối với cấp trung học. Cụ thể, từ năm học 2021-2022 áp dụng Thông tư này đối với lớp 6; từ năm học 2022-2023 áp dụng tiếp cho lớp 7 và lớp 10; từ năm học 2023-2024 thực hiện với lớp 8 và lớp 11; từ năm học 2024-2025 thực hiện với hai lớp còn lại là lớp 9 và lớp 12.

Thông tư 22 quy định hai hình thức đánh giá là bằng nhận xét và bằng điểm số. Trong đó, việc đánh giá bằng nhận xét, ngoài ý kiến chính của giáo viên còn có sự tham gia phối hợp của học sinh, phụ huynh và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có tham gia vào quá trình giáo dục học trò. Cả đánh giá bằng nhận xét và điểm số đều được sử dụng trong đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ.

Khác với các thông tư quy định về đánh giá học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông trước đây, Thông tư 22 cho phép một số môn chỉ thực hiện đánh giá bằng nhận xét. Cụ thể, các môn Giáo dục thể chất, Nghệ thuật, Âm nhạc, Mĩ thuật, Nội dung giáo dục của địa phương, Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, kết quả học tập theo môn học chỉ được đánh giá bằng nhận xét theo một trong hai mức: Đạt và chưa đạt.

[Bộ GD: Năm đầu dạy chương trình mới, học sinh mạnh dạn và tự tin hơn]

Đối với các môn học còn lại, kết hợp giữa đánh giá bằng nhận xét với đánh giá bằng điểm số. Kết quả học tập theo môn học được đánh giá bằng điểm số theo thang điểm 10 và phải làm tròn đến chữ số thập phân thứ nhất nếu điểm là số nguyên hoặc số thập phân.

Thông tư 22 cũng bỏ quy định về lấy điểm trung bình học các môn để lấy căn cứ xếp loại học lực học sinh trong học kỳ và cả năm. Điểm trung bình học kỳ và năm học chỉ được tính của riêng cho từng môn học.

Thay vì xếp loại học lực giỏi, khá, trung bình, yếu, kém như quy định hiện hành,Thông tư 22 đánh giá kết quả học tập của người học theo 4 mức tốt, khá, đạt, chưa đạt đối với môn học đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số và hai mức đạt, chưa đạt đối với môn chỉ đánh giá bằng nhận xét.

Khi tất cả các môn học đánh giá bằng nhận xét được đánh giá mức đạt; tất cả môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số có điểm trung bình môn học kỳ và điểm trung bình môn cuối năm đạt từ 6,5 điểm trở lên, trong đó có ít nhất 6 môn học có đạt từ 8 điểm trở lên, thì học sinh được đánh giá kết quả học tập ở mức tốt.

Nếu học sinh có kết quả học tập tất cả các môn đánh giá bằng nhận xét được đánh giá mức đạt, đồng thời tất cả các môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp với điểm số có điểm trung bình môn học kỳ và điểm trung bình môn cuối năm đạt từ 5 điểm trở lên, trong đó có ít nhất 6 môn đạt từ 6,5 điểm trở lên, thì được đánh giá mức khá.

Kết quả học tập của học sinh được đánh giá mức đạt khi có nhiều nhất một môn học đánh giá bằng nhận xét được đánh giá mức chưa đạt và có ít nhất 6 môn đánh giá bằng nhận xét kết hợp điểm số có điểm trung bình môn học kỳ và điểm trung bình môn cuối năm đạt từ 5 điểm trở lên, không có môn học nào dưới 3,5 điểm.

Các trường hợp còn lại, học sinh được đánh giá là chưa đạt.

Việc đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh ở Thông tư 22 được đánh giá theo một trong 4 mức tốt, khá, đạt và chưa đạt thay vì xếp loại hạnh kiểm tốt, khá, trung bình, yếu như quy định hiện hành.

Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, Thông tư 22 yêu cầu việc đánh giá phải vì sự tiến bộ của người học. Theo đó, việc đánh giá căn cứ vào yêu cầu cần đạt được quy định trong chương trình giáo dục phổ thông; bảo đảm tính chính xác, toàn diện, công bằng, trung thực, khách quan. Hoạt động này phải coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong rèn luyện và học tập của học sinh; không so sánh học sinh này với học sinh khác.

Mục đích của việc đánh giá là xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ rèn luyện và học tập của học sinh theo yêu cầu cần đạt, nhằm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời để học sinh điều chỉnh hoạt động rèn luyện và học tập; cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên thông qua đó cũng có sự điều chỉnh hoạt động dạy học cho phù hợp./.

Phạm Mai [Vietnam+]

Video liên quan

Chủ Đề