Bố cục bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học

CÁCH LÀM BÀI VĂN BIỂU CẢM VỀ TÁC PHAM văn học KIẾN THỨC Cơ BẢN Phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm văn học là trình bày những cảm xúc, tưởng tượng, liên tưởng, hồi tưởng, suy ngẫm của mình về nội dung và hình thức của tác phẩm đó. Bố cục của một bài cảm nghĩ về tác phẩm văn học gồm có ba phần: Mở bài: Giới thiệu tác phẩm và hoàn cảnh tiếp xúc với tác phẩm. Thân bài: Những cảm xúc, suy nghĩ do tác phẩm gợi lên. Kết bài: Ân tượng chung về tác phẩm. HƯỚNG DẪN TÌM HlỂU CÂU HỎI PHAN bài học Câu 1. Bài văn viết về bài ca dao: Đêm qua ra đứng bờ ao Ghi lại bài ca dao Đèm qua ra đứng bờ ao Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ Buồn trông con nhện chăng tơ Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai? Buồn trông chênh chếch sao mai Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ? Đêm đềm tưởng dải Ngân Hà Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. Câu 2. Chỉ ra các yếu tố liên tưởng, tưởng tượng, hồi tưởng trong bài viết. Nội dung bài viết Yếu tố sử dụng Đêm qua ra dứng bờ ao Trông cá cá lặn trông sao sao mờ... Cảnh minh họa trong bài học có một bóng Yếu tố tưởng người đội khăn, mặc áo dài, chắp tay sau lưng quay mặt trông trời sao lấp lánh, bên cái cầu rửa ở bờ áo tôi mờ. tượng Có lúc tôi đã nghĩ đây là một người quen thật Liên tưởng và của tôi, có thể là họ hàng ruột thịt kiếm ăn ở một phương xa đang hướng về cố hương. Buồn trông con nhện chăng tơ Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai? tưởng tượng Tôi chỉ lơ mơ nghe thầy giáo giảng các nghĩa, Hồi tưởng và các ý so sánh hình tượng. Tất cả tâm trí mắt nhìn của tôi càng như dính vào mạng tơ rung rinh trước gió với một con nhện lơ lửng giữa khoảng không đang giơ giơ càng, vừa ra vẻ nghển trông, vừa ra vẻ vờn đón, ngạc nhiên và thất vọng. Tiếng gió khuya vu vu và chính bóng người chỉ thấy đầu đội khăn, tay chắp sau lưng mà không thấy mặt kia, mà gọi trời, gọi sao, gọi nhện. Đêm đềm tưởng dải Ngân Hà Chuôi sao Tinh Đẩu đã ba năm tròn tưởng tượng Thì ra các vùng sao như cát, như thủy tinh Liên tưởng và vãi kia ở trong tranh minh họa là dải Ngân Hà? A! Sông Ngân! Sông Ngân! Thế là con sông điển tưởng tượng tích mà tôi được biết bấy lâu, hàng năm cứ đến tháng bảy thì có một đôi vợ chồng tên là Ngưu Lang và Chức Nữ được quá giang gặp nhau, và chỉ được gặp nhau có một ngày thôi, ấy chính là con sông có một người không có tên nhưng tôi lại thấy quen quen và thân thương, đang ngước mặt lên trông, ngắm mà nhớ thương, mà mong đợi. Mong đợi và nhớ thương không tả rõ là ai, là đâu, là gì, mà sao vẫn thấy có một người, có một nơi, có một tình huống, có một cảnh, vừa man mác, vừa bâng khuâng da diết vô cùng. Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Tào Khè nước chảy vẫn còn trơ trơ. Lại có con sông Tào Khê này nữa! Hơn bôn mươi năm sau đấy, tôi đã được tới đứng bên bờ phù sa của nó mà trông trời mây sông nước rồi cả sao khuya. Sông Tào Khê vắt ngang huyện Quế Võ tỉnh Hà Bắc, thông ra sông cầu, nhỏ hẹp thôi, nhưng cũng chảy xiết lòng người, khiến những ai kia đã phải nghẹn ngào: Đá mòn mà dạ chẳng mòn mà nói với sông: - Ôi Tào Khê! Nước Tào Khê làm đá mòn đấy! Nhưng dòng nước Tào Khê không bao giờ cạn chính là lòng chung thủy của ta! Vỉ nhớ mà buồn, một bài không học phải học kĩ mà cũng học thuộc lòng ngay, cả nhiều bạn tôi xưa cũng thấy như thế. [Nguyên Hồng, Một tuổi thơ văn] Liên tưởng và suy ngẫm Liên tưởng và suy ngẫm III. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP Câu 1. Phát biểu cảm nghĩ về một trong các bài thơ: “Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh”, “Ngẫu nhiên viết trong buổi mới về quê”, “Cảnh khuya”, “Rằm tháng giêng”. Chỉ chọn một bài mà mình yêu thích nhất. Bài viết phải tuân theo bô" cục 3 phần. Cảm nghĩ trong dèm thanh tĩnh à] Mở bài Đêm hôm ấy trăng sáng đến lạ, đáng lẽ đã phải ngồi vào bàn học bài từ lúc nãy, nhưng vì thấy trăng đẹp quá em ráng ngồi lại ngắm trăng thêm chút nữa.. Bài ngày mai rất nhiều em nhìn trăng luyến tiếc rồi bước vào nhà, học môn Sử xong, em lấy bài môn Văn ra soạn, bất ngờ và thú vị thay đó là Tĩnh dạ tứ của Lý Bạch. Em đọc liền một hơi: Sàng tiền minh nguyệt quang Nghi tliị địa thượng sương Cử đầu vọng minh nguyệt Đê đầu tư cố hương. Thân bài Trước mắt em hiện lên hình ảnh thi nhân Lý Bạch đang nằm nghỉ trong thư phòng trằn trọc thao thức, rồi bất ngờ nhận ra ánh trăng đang chiếu sáng ở đầu giường giật mình, thảng thốt: “Anh trăng ư?” Sàng tiền minh nguyệt quang Thi nhân ngồi dậy đi ra phía cửa sổ, sững sờ cả một không gian tràn ngập ánh trăng bao la huyền hoặc: Nghi thị địa thượng sương Sương hay trăng? Thi nhân thoáng chút nghi ngờ thị giác của mình. Ánh trăng như những sợi khói, như làn sương mỏng lãng đãng mơ hồ. Có lẽ cả hai, sương và trăng cùng hóa quyện hư ảo. Nhà thơ nhìn lên bầu trời kiểm chứng: Cử đầu vọng minh nguyệt Đây không phải là cái nhìn bình thường, mà sự tha thiết đắm đuôi. Trên bầu trời trăng thu vằng vặc, trăng càng sáng càng gợi nên nỗi niềm cô đơn trong lòng người xa quê. Nỗi nhó' tràn ngập con tim để rồi thi nhân: Để đầu tư cố hương Cái đê dầu chất chứa bao nỗi niềm tâm sự suy tư, quê hương nghìn trùng vời vợi luôn là sự khắc khoải trong lòng người, có phải nhà thơ Lý Bạch đang nhờ vầng trăng vằng vặc kia chuyển nỗi nhớ của mình về quê nhà? Khép lại bài thơ là hình ảnh một con người ngồi bên cửa sổ, trong không gian tràn ngập ánh trăng của một đêm khuya tĩnh mịch cúi đầu trầm tư. Bài thơ chỉ có 20 chữ. Hai mươi chữ đốì với chúng ta nhiều khi chưa thành một đoạn văn, hai mươi chữ của Lý Bạch thi tiên đã thành một bài thơ tuyệt vời, với bao tâm sự... Và đâu chỉ là thơ mà còn là một bức tranh nữa chứ. Bức tranh ấy có cảnh: bầu trời, vầng trăng và một con người đang trong tâm trạng suy tư. Kết bài Bài đã soạn xong và bài thơ đã được nằm trong trái tim nhưng em chưa gấp sách vội, thẫn thờ ngồi trên bàn, bởi tình cảm quê hương được thể hiện một cách nhẹ nhàng thấm thìa qua bài thơ đã làm cho em xúc động. Em cũng là người xa quê. Ngoài kia trăng vẫn sáng... Câu 2. Lập dàn ỷ cho bài phát biểu cảm tưởng về bài thơ “Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê”, à] Mở bài — Giới thiệu tác phẩm. Hạ Tri Chương làm quan thời nhà Đường, ông sống biền biệt xa quê 50 năm, tới năm 86 tuổi mới trở về quê. Bài thơ này ra đời lúc ông mới đặt chân trở về quê nhà. Hoàn cảnh tiếp xúc với tác phẩm. Nghe thầy cô giáo giảng, mình tự soạn bài, hoặc ngày trở về thăm quê. 6] Thân bài Những cảm xúc suy nghĩ do bài thơ gợi lên: Cảm nghĩ về thời điểm ra đi và trở về của nhà thơ. Giữa các không đổi và cái thay đổi của nhà thơ -» tình cảm của người xa quê. Cảnh ngộ bi kịch của nhà thơ bị gọi là khách ngay trên quê hương mình trong ngày đầu tiên trở về. Cảm thương cho hoàn cảnh của nhà thơ. Kết bài Thông cảm với những người xa quê. Nỗi nhớ quê hương của chính bản thân do bài thơ gợi lên.

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Biểu cảm về tác phẩm văn học là gì?

Đọc bài “Cảm nghĩ về một bài ca dao” của Nguyên Hồng và trả lời các câu hỏi:

a] Bài văn viết về bài ca dao nào?

b] Tác giả phát biểu cảm nghĩ  của mình về bài ca dao bằng cách tưởng tượng, liên tưởng, hồi tưởng, suy ngẫm về các hình ảnh, chi tiết của nó. Hãy chỉ ra các yếu tố đó trong bài văn.

Gợi ý:

a] Bài viết của Nguyên Hồng viết về bài ca dao: Đêm qua ra đứng bờ ao [bài ca dao nói về nỗi nhớ của người bình dân xưa].

b] Tác giả đã phát biểu cảm nghĩ của mình bằng cách tưởng tượng một con người cụ thể đội khăn, mặc áo dài. Đó là một người quen, ở phương trời xa đang hướng về cố hương. Tác giả hình dung ra cái mạng nhện và cảnh con nhện nghển trông, vờn đón, ngạc nhiên, thất vọng. Tác giả cũng lại hình dung đến dòng sông Ngân Hà [trong điển tích Ngưu Lang – Chức Nữ] – nơi có người quen và thân thương đang ngẩng lên ngắm nhìn và trông đợi.  Từ con sông sao trên trời tới con sông Tào Khê, nhỏ hẹp nhưng cũng xiết lòng người, từ đó mà tác giả liên hệ đến lòng thuỷ chung không bao giờ vơi cạn.

2. Cách làm một bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học.

a] Tóm tắt các ý chính của bài văn Cảm nghĩ về một bài ca dao. Nhận xét về bố cục, cách triển khai ý của bài văn.

Gợi ý: Bài văn được bố cục thành ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài. Hệ thống ý được triển khai theo 4 phần tương ứng với 4 cặp lục bát của bài ca dao. Cảm nghĩ về hai câu đầu, cũng là mở đầu cho bài văn, là những liên tưởng về hình ảnh nhân vật trữ tình trong bài ca dao, người viết hình dung ra một người đàn ông “đội khăn, mặc áo dài, chắp tay sau lưng,…”. Cảm nghĩ về hai câu tiếp, người viết trình bày cảm nhận của mình về cảnh tượng ngóng trông, trạng thái cảm xúc của nhân vật trữ tình. Cảm nghĩ về hai câu tiếp là những liên tưởng, suy ngẫm về hình ảnh sông Ngân Hà với tình cảnh Ngưu Lang – Chức Nữ. Phần cuối của bài văn là những cảm nghĩ về hai câu kết của bài ca dao với hình ảnh sông Tào Khê, chốt lại bài văn ở cảm xúc vì nhớ mà buồn.

b] Ngoài những yêu cầu chung của một bài văn biểu cảm, khi làm một bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học, chúng ta phải lưu ý điều gì?

Gợi ý: Đối tượng biểu cảm là tác phẩm văn học. Tác phẩm văn học là một đối tượng mang tính nghệ thuật, biểu cảm về đối tượng này cần lưu ý các phương diện cảnh, người trong tác phẩm; tình cảm, số phận của con người được thể hiện trong tác phẩm; nghệ thuật sử dụng ngôn từ; tư tưởng của tác phẩm. Biểu cảm về tác phẩm văn học nghĩa là trình bày những cảm xúc, tưởng tượng, liên tưởng, suy ngẫm,… về các phương diện ấy của tác phẩm.

II. RÈN LUYỆN KĨ NĂNG

1. Phát biểu cảm nghĩ về một trong những bài thơ đã được học trong chương trình Ngữ văn 7.

Gợi ý: Trước khi vết bài, cần lập được dàn ý. Ví dụ về bài Cảnh khuya chẳng hạn.

a] Mở bài: Giới thiệu bài thơ của Bác và hoàn cảnh tiếp xúc của người viết.

b] Thân bài: Cảm xúc, suy nghĩ do tác phẩm gợi lên:

– Thời điểm tiếp xúc với thiên nhiên của người viết.

– Hình ảnh so sánh mang đầy chất thơ [tiếng suối như tiếng hát].

– Vẻ đẹp trừ tình của trăng.

– Tấm lòng vì nước vì dân của người thi sĩ – người chiến sĩ cách mạng.

c] Kết bài: Phát biểu ấn tượng chung về tác phẩm.

2. Lập dàn ý cho bài phát biểu cảm tưởng về bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê.

Gợi ý: có thể xây dựng dàn ý như sau:

a] Mở bài: Giới thiệu đôi nét về Hạ Tri Chương và bài thơ.

b] Thân bài: Cảm xúc, suy nghĩ về các hình ảnh và cảm xúc của tác phẩm.

– Hoàn cảnh viết bài thơ có nét gì độc đáo, đặc biệt.

– Sự đối lập các trạng thái trẻ – già, đi xa – trở về và sự thay đổi của tác giả [tóc mai đã rụng].

– Điểm không thay đổi sau bao năm xa cách: giọng quê [cũng chính là cái tình đối với quê hương].

– Cuộc gặp gỡ với lũ trẻ con trong làng.

– Sự xót xa của tác giả khi bị lũ trẻ coi là người khách lạ.

Chinh sự trớ trêu này lại càng làm nổi rõ tình yêu quê hương của nhà thơ.

c] Kết bài: Cảm xúc chung về tác phẩm. Tình cảm của người viết đối với quê hương.


Các từ khóa trọng tâm " cần nhớ " của bài viết trên hoặc " cách đặt đề bài " khác của bài viết trên:
  • soan bai cach lam bai van bieu cam ve tac pham van hoc
  • ,

    Video liên quan

    Chủ Đề