Ý nghĩa của tâm lý học trẻ em

Nhân cách khi trưởng thành phụ thuộc trẻ trong 6 năm đầu đời. Ảnh: Internet

Sự phát triển tâm lý trẻ em được thể hiện qua các lĩnh vực – bao gồm khả năng nhận thức, cảm xúc/ tình cảm/ ý chí, ngôn ngữ, các kỹ năng xã hội và sự phát triển những thuộc tính mới của nhân cách. Đây là chủ đề quan trọng được đề cập xuyên suốt trong bộ môn Tâm lý học phát triển. Vai trò của sự phát triển tâm lý trẻ em rất quan trọng, là trọng tâm nghiên cứu của các nhà thực hành chuyên môn.

Phát triển tâm lý trẻ là trọng tâm nghiên cứu của các nhà chuyên môn. Ảnh: Internet

Theo đó, trong bộ môn Tâm lý học phát triển, có rất nhiều hướng tiếp cận nghiên cứu khác nhau theo từng giai đoạn. Nhìn chung, có các giai đoạn phát triển tâm lý trẻ như:

  • Trẻ sơ sinh [từ 0 – 1 tuổi]
  • Trẻ giai đoạn tập đi [từ hơn 1 – 3 tuổi]
  • Trẻ mẫu giáo/ mầm non [từ 3 – 6 tuổi]
  • Trẻ giai đoạn dậy thì [từ 6 – 12 tuổi], hay còn gọi là trẻ Tiểu học
  • Trẻ giai đoạn tuổi từ trên 12 đến 18 tuổi [hoặc có thể chia thành 12 – 15 tuổi, và 15 – 18 tuổi]

2. Vai trò của sự phát triển tâm lý trẻ em đối với sự hình thành nhân cách khi trưởng thành

2.1 Sự phát triển tâm lý là tiền đề phát triển nhân cách trẻ em

Nhân cách là khái niệm không có sẵn khi chúng ta mới sinh ra, mà được hình thành trong suốt quá trình sống, rèn luyện, học tập, lao động, giao tiếp xã hội,…Do đó, chúng ta cần tìm hiểu vai trò của sự phát triển tâm lý trẻ em đối với sự hình thành nhân cách của trẻ khi trưởng thành, để có định hướng giáo dục đúng đắn, kịp thời, phù hợp.

Một tiết học kỹ năng sống – kỹ năng tương tác. Ảnh: Internet

Ví dụ, một đứa trẻ lên 3 có đặc điểm tâm lý nổi trội nhất là sự hình thành ý thức cá nhân, hay nói cách khác, là sự xuất hiện của cái tôi cá nhân. Trong quá trình này, trẻ xem bản thân mình là “cái rốn của vũ trụ”, là trung tâm của mọi sự chú ý, và cho rằng cách người khác nhìn nhận cũng giống như cách mình nhìn nhận [dù điều này còn rất hạn chế, vì bé còn nhỏ].

Các chuyên gia tâm lý trẻ em khuyên rằng, nếu không được giáo dục phù hợp, đặc điểm tâm lý này sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển nhân cách của trẻ sau này [trẻ có học được cách chia sẻ hay không/ hay ích kỉ giữ mọi thứ cho bản thân, trẻ có quan tâm đến người khác không/ hay chỉ nhìn nhận sự việc theo cách riêng của mình,…].

2.2 Giáo dục trong suốt quá trình phát triển tâm lý trẻ

Gia đình ảnh hưởng đến nhân cách trẻ khi trưởng thành. Ảnh: Internet

Để có hướng giáo dục phù hợp cho mỗi trẻ phát huy đầy đủ khả năng của mình, chúng ta cần tìm hiểu đặc điểm phát triển của từng bé. Như chúng ta đều biết, giáo dục có ý vai trò quan trọng đối với nhân cách trẻ, vì nhiều lý do:

  • Giáo dục hướng trẻ đến một mục đích tốt đẹp về giá trị sống, giá trị kiến thức, cũng như trong các mối quan hệ của trẻ với môi trường xung quanh, với người khác – một cách có tổ chức.
  • Giáo dục đem đến cho trẻ những tiến bộ, thành tựu, ý chí luyện rèn mà các nhân tố khác không thể làm được. Ví dụ, một em bé mới sinh ra không thể biết nói. Tuy nhiên, nếu được quan sát người lớn nói chuyện nhiều, trẻ sẽ có cơ sở để bắt chước hoạt động cơ miệng theo. Cùng với sự luyện tập của bố mẹ, khả năng ngôn ngữ của trẻ dần trở nên hoàn chỉnh hơn.
  • Giáo dục giúp phát hiện những khả năng riêng của từng trẻ, từ đó, định hướng và có phương pháp thúc đẩy phù hợp, nhân cách dần được hoàn thiện.

Như vậy, vai trò của sự phát triển tâm lý trẻ em đối với sự hình thành và phát triển nhân cách trong tương lai rất quan trọng. Đây là chủ đề mà mỗi bố mẹ cần tìm hiểu kỹ lưỡng, cẩn thận trước khi đề ra kế hoạch giáo dục cho con phù hợp, đúng đắn.

Trúc Nguyễn tổng hợp

Sách tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non, tâm lý học trẻ em, tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non, giáo án tâm lý học trẻ em, giáo án môn tâm lý học trẻ em, bài giảng tâm lý học trẻ em, khóa học về tâm lý trẻ em, tài liệu tâm lý học trẻ em, tài liệu bài giảng tâm lý học trẻ em, lịch sử phát triển tâm lý học trẻ em,

I. HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI VÀ SỰ HÌNH THÀNH XÃ HỘI TRẺ EM:

Ở lứa tuổi mẫu giáo bé, hoạt động vui chơi đồ chơi trẻ em mầm non của trẻ đã phát triển mạnh. Nhưng chỉ ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ, hoạt động vui chơi mới mang đầy đủ ý nghĩa của nó nhất. Có thể nói rằng hoạt động vui chơi ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡmẫu giáo lớn phát triển tới mức hoàn thiện, được thể hiện ở những đặc điểm sau đây:

Trong hoạt động vui chơi, trẻ thể hiện rõ rệt tính tự lực, tự do và chủ động.

Tính tự lực, tự do của trẻ biểu hiện ở các điểm sau đây:

Trong việc lựa chọn chủ đề và nội dung chơi: Do có ít nhiều vốn sống nhờ tiếp xúc hằng ngày với thế giới đồ vật, giao tiếp rộng rãi với những người xung quanh tạo điều kiện cho trẻ tự do lựa chọn chủ đề chơi và phản ánh vào vai chơi những mảng hiện thực mà mình quan tâm.

Trong việc lựa chọn bạn cùng chơi: Vào cuối tuổi mẫu giáo nhỡ và lớn, cá tính của trẻ đã bắt đầu bộc lộ rõ rệt, mỗi em có mỗi tính, mỗi nết. Do đó trẻ cần phải lựa chọn bạn ” tâm đầu ý hợp” với mình.

Trong việc tự do tham gia vào trò chơi nào mà mình thích và tự do rút ra khỏi những trò chơi mà mình đã chán: Khi tự nguyện tham gia vào các cuộc chơi thì trẻ chơi một cách say sưa, chơi hết mình, nhưng khi đã chán thì cũng sẽ bỏ cuộc một cách nhẹ nhàng.

2. Trong hoạt động vui chơi, trẻ đã biết thiết lập những quan hệ rộng rãi và phong phú với các bạn cùng chơi: Một xã hội trẻ em được hình thành.

Hoạt động vui chơi, mà đặc biệt là trò chơi ĐVTCĐ là loại hoạt động cùng nhau đầu tiên của trẻ em. Không có sự phối hợp với nhau giữa các thành viên thì không thành trò chơi. Ở lứa tuổi này, việc chơi của các em tương đối thành thạo và chơi với nhau trong nhóm bạn đã trở thành một nhu cầu cấp bách. Đã chơi thì phải có vai nọ vai kia mới thú vị. Một trò chơi của trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn thường có nhiều vai hơn của trẻ mẫu giáo bé mặc dù có thể cùng một chủ đề. Như vậy các quan hệ trong trò chơi của trẻ đã được mở rộng hơn nhiều so với trẻ mẫu giáo bé. Vào cuối tuổi mẫu giáo, trẻ còn biết liên kết các trò chơi theo các chủ đề khác nhau, làm cho các mối quan hệ trở nên phong phú hơn. Quan hệ của trẻ ngày càng được đa dạng hơn chẳng khác nào một xã hội người lớn thu nhỏ lại.

Ở tuổi mẫu giáo nhỡ và lớn việc chơi trong nhóm bạn bè là một nhu cầu bức bách. Đặc biệt là nhu cầu giao tiếp với bạn bè đang phát triển rất mạnh. Từ đó những ” xã hội trẻ em ” thực sự được hình thành.

“Xã hội trẻ em ” này còn khác xa so với xã hội người lớn. Hợp rồi tan, tan rồi hợp, thực và chơi, chơi và thực. Đó chính là nét độc đáo của cái xã hội ấy. Nhưng chính những mối quan hệ xã hội đầu tiên trong nhóm bạn bè này lại có một ý nghĩa lớn lao đối với cả đời người sau này.

Cấu trúc của cái ” xã hội trẻ em ” cũng rất phức tạp. Trong cái xã hội ấy mỗi đứa trẻ có một vị trí nhất định. Vị trí đó được thể hiện ở chỗ bạn bè trong nhóm đối xử với các em như thế nào. Vị trí trong nhóm bạn cùng tuổi ảnh hưởng một cách sâu sắc đến sự phát triển nhân cách của trẻ.

Vào cuối tuổi mẫu giáo, đã bắt đầu xuất hiện vai trò “thủ lĩnh”. Đó là đứa trẻ được các bạn tôn sùng và vị nể nhất. Hiện tượng thủ lĩnh xuất hiện trong nhóm bạn là điều làm cho người lớn phải đặc biệt quan tâm, không nên để tình trạng chỉ có một em luôn luôn làm thủ lĩnh còn những đứa trẻ khác chỉ biết phục tùng.

“Xã hội trẻ em” cũng dần dần hình thành những dư luận chung. Dư luận chung thường được bắt nguồn từ những nhận xét của người lớn đối với trẻ em, cũng có thể do trẻ em nhận xét lẫn nhau.Dư luận chung ảnh hưởng khá lớn đối với sự lĩnh hội những chuẩn mực hành vi đạo đức của trẻ trong nhóm và qua đó ảnh hưởng đến nhân cách của từng đứa trẻ.

Nhóm trẻ cùng chơi là một trong những cơ sở xã hội đầu tiên của trẻ em, do đó người lớn cần tổ chức tốt hoạt động của nhóm trẻ ở lớp mẫu giáo cũng như ở gia đình, khu tập thể, xóm dân cư… để tạo môi trường lành mạnh có tác dụng giáo dục tích cực đối với trẻ.

Đặc điểm phát triển tâm lý trẻ tuổi mẫu giáo nhỡ

II. SỰ PHÁT TRIỂN CHÚ Ý, NGÔN NGỮ:

1. Sự phát triển chú ý: Cả hai dạng chú ý có chủ định và không có chủ định đều phát triển mạnh ở trẻ 4 – 5 tuổi.

Nhiều phẩm chất chú ý có chủ định phát triển nhanh do sự phát triển của ngôn ngữ và tư duy.

Sức tập trung chú ý của trẻ cao, trẻ có thể vẽ, nặn một thời gian dài.

Với các hoạt động tạo hình làm tăng khối lượng chú ý của trẻ.

Sức bền vững của chú ý cao [ chú ý tới 37 phút với những đồ vật thích thú – theo A.V Daporozet ]. Những công việc mà cha mẹ, cô giáo giao cho trẻ chính là điều kiện tốt để trẻ phát triển chú ý có chủ định.

Việc giáo dục chú ý có chủ định phụ thuộc vào việc tổ chức nhiệm vụ hoạt động cho trẻ. Ví dụ giao việc mà trẻ thích sẽ làm tăng năng lực chú ý có chủ định, cho trẻ tập tìm, quan sát các chi tiết các đồ vật, tranh vẽ… để rèn luyện chú ý cho trẻ về tính mục đích, tính hệ thống…

Mặc dù chú ý có chủ định phát triển mạnh, nhưng nhìn toàn bộ lứa tuổi thì tính ổn định chưa cao, do vậy khi giao việc cần giải thích rõ ràng, nhắc lại khi cần thiết.

2. Sự phát triển ngôn ngữ:

Ngôn ngữ của trẻ mang tính chất hoàn cảnh, tình huống nghĩa là ngôn ngữ của trẻ gắn liền với sự vật, hoàn cảnh, con người, hiện tượng đang xảy ra trước mắt trẻ.

Cuối 4 tuổi, ngôn ngữ của trẻ đã bắt đầu biết nối kết giữa tình huống hiện tại với quá khứ thành một “văn cảnh”.

Vốn từ của trẻ tăng lên không chỉ số lượng từ mà điều quan trọng là lĩnh hội được các cấu trúc ngữ pháp đơn giản.

Đã hình thành những cảm xúc ngôn ngữ qua giọng nói, ngữ điệu, âm tiết… Tuy nhiên dưới tác động của cảm xúc trẻ có thể nghe nhầm, phát âm nhầm.

Dưới sự hướng dẫn của cô giáo, đặc biệt trong hoạt động vui chơi, tạo hình, các tiết kể chuyện, tham quan, âm nhạc, thể dục…và các nhiệm vụ do người lớn giao cho trẻ, xác định trách nhiệm của trẻ một cách đơn giản, trẻ lĩnh hội được nhiều từ mới và ý nghĩa sử dụng của chúng, là tiền đề quan trọng giúp trẻ hoạt động sau này.

III. SỰ PHÁT TRIỂN QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC:

Tri giác:

Do tiếp xúc với nhiều đồ vật, hiện tượng, con người… độ nhạy cảm phân biệt các dấu hiệu thuộc tính bên ngoài của chúng ngày càng chính xác và đầy đủ.

Một số quan hệ không gian và thời gian được trẻ trẻ tri giác hơn trong tầm nhìn, nghe của trẻ.

Khả năng quan sát của trẻ được phát triển không chỉ số lượng đồ vật mà cả các chi tiết, dấu hiệu thuộc tính, màu sắc…

Bắt đầu xuất hiện khả năng kiểm tra độ chính xác của tri giác bằng cách hành động thao tác lắp ráp, vặn mở… phù hợp với nhiệm vụ yêu cầu. Các loại tri giác nhìn, nghe, sờ mó… phát triển ở độ tinh nhạy.

Việc tổ chức tri giác, hướng dẫn quan sát, nhận xét của cô giáo, cha mẹ giúp trẻ phát triển tính mục đích, kế hoạch…

Trí nhớ:

Trẻ đã biết sử dụng cơ chế liên tưởng trong trí nhớ để nhận lại và nhớ lại các sự vật và hiện tượng.

Trí nhớ có ý nghĩa đã thể hiện rõ nét khi gọi tên đồ vật, hoa quả, thức ăn…

Đồng thời với trí nhớ hình ảnh về đồ vật thì âm thanh ngôn ngữ được trẻ tri giác, hiểu và sử dụng chúng như một phương tiện giao tiếp ới những người xung quanh tuy ở mức độ đơn giản.

Trí nhớ không chủ định của trẻ ở các dạng hoạt động phát triển khác nhau và tốc độ phát triển rất nhanh.

Ở độ tuổi này, các loại trí nhớ: hình ảnh, vận động, từ ngữ đều được phát triển tuy ở mức độ khác nhau nhưng đều được hình thành và tham gia tích cực trong các hoạt động vui chơi, lao động, tạo hình… ở trẻ.

3. Tư duy:

Ở trẻ 4 – 5 tuổi các loại tư duy đều được phát triển nhưng mức độ khác nhau.

Tư duy trực quan hành động vẫn tiếp tục phát triển, nhưng chất lượng khác với trẻ 3 – 4 tuổi ở chỗ trẻ bắt đầu biết suy nghĩ xem xét nhiệm vụ hoạt động, phương pháp và phương tiện giải quyết nhiệm vụ tư duy.

Tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh mẽ và chiếm ưu thế.

Nhờ có sự phát triển ngôn ngữ, trẻ ở lứa tuổi này đã xuất hiện loại tư duy trừu tượng.

Một số đặc điểm trong tư duy ở trẻ 4 – 5 tuổi:

Mức độ khái quát ngẫu nhiên giảm dần từ 4 đến 5 tuổi trong hoạt động tư duy của trẻ.

Mức độ tích cực huy động vốn kinh nghiệm [ liên tưởng ] của trẻ tăng lên từ 4 – 5 tuổi .

Sự khái quát các dấu hiệu chung giảm dần từ 4 – 5 tuổi, nhường chỗ cho các chi tiết đặc thù của các sự vật hiện tượng.

Cô giáo cần tổ chức các tiết học vui chơi kích thích sự phát triển tư duy ở trẻ, kích thích trẻ tìm tòi các dấu hiệu giống nhau, khác nhau, so sánh các đồ vật, tranh ảnh, hoa quả, đồ chơi.

Tưởng tượng:

Nhờ có sự phát triển các hoạt động tạo hình mà khả năng tưởng tượng của trẻ được nâng lên.

Tranh vẽ của trẻ vừa gần với hiện thực vừa mang tính chủ quan cảm xúc rõ nét.

Độ phong phú của các hình ảnh tưởng tượng cao nhờ có sự nhận thức được màu sắc trong thiên nhiên và qua các tiết nghệ thuật tạo hình.

Trẻ có thể xé dán các mẫu hình, truyện cổ tích, biết bố cục… những chủ đề gần gũi thân quen đối với trẻ… nếu được thầy cô giáo, cha mẹ hướng dẫn chu đáo.

Việc hướng dẫn tổ chức các tiết học tạo hình, vẽ, nặn, cho trẻ tham quan các di tích, danh lam thắng cảnh… rất cần thiết cho sự tưởng tượng.

Đặc điểm phát triển tâm lý trẻ tuổi mẫu giáo nhỡ

IV. SỰ PHÁT TRIỂN XÚC CẢM, TÌNH CẢM, Ý CHÍ:

Đời sống xúc cảm và tình cảm:

Các loại tình cảm bậc cao của trẻ phát triển ngày càng rõ nét hơn so với mẫu giáo bé.

Tình cảm đạo đức ngày càng được phát triển do lĩnh hội được các chuẩn mực hành vi, quy tắc ứng xử. Trẻ bối rối, cảm thấy có lỗi khi hành vi phạm sai lầm. Trẻ biết đòi người lớn đánh giá đúng mức hành vi đúng, sai, tốt, xấu của mình.

Tình cảm trí tuệ cũng phát triển theo hướng tìm hiểu các nguyên nhân, cội nguồn các hiện tượng tự nhiên và xã hội, cuộc sống xung quanh trẻ.

Tình cảm thẩm mỹ: Tổng hợp nhiều xúc cảm cùng loại khi rung cảm trước vẽ đẹp của thiên nhiên, con người, cỏ cây, hoa lá…tình cảm thẩm mỹ xuất hiện ở trẻ.

Nhìn chung xúc cảm và tình cảm của trẻ phong phú nhưng có những đặc điểm sau đây:

Dễ dao động, dễ thay đổi, dễ khóc, dễ cười.

Xúc cảm chi phối mạnh vào các hoạt động tâm lý, vì vậy hiện thực đối với trẻ bao giờ cũng mang màu sắc cảm xúc mạnh mẽ, thích cái gì thì đòi bằng được cái đó, không thích thì vứt đi…

Ý chí:

Tính mục đích phát triển từ tuổi lên 2 khi trẻ đã làm chủ được một số hành vi của mình. Từng bước một, trẻ 4 tuổi có thể điều khiển được quá trình ghi nhớ và nhớ lại một “tài liệu” nào đó do người lớn giao cho, ghi nhớ một bài thơ ngắn trẻ thích.

Do hiểu được nhiều hành vi ngôn ngữ và biết sử dụng những hành vi ngôn ngữ, trẻ có thể bước đầu vận dụng để lập kế hoạch hành động và chỉ đạo hành động, trẻ thường nói to khi hành động.

Việc phát triển, bộc lộ ý chí của trẻ mẫu giáo nhỡ phụ thuộc vào các nhiệm vụ mà người lớn giao cho trẻ [ nhiệm vụ phải vừa sức với trẻ].

Để giáo dục ý chí cho trẻ, cần phải giáo dục động cơ cho trẻ. Thường ở lứa tuổi này mục đích và động cơ trùng nhau, chưa tách ra được.

V. SỰ PHÁT TRIỂN ĐỘNG CƠ VÀ SỰ HÌNH THÀNH HỆ THỐNG ĐỘNG CƠ:

Cuối tuổi mẫu giáo bé, trong hành vi của trẻ đã xuất hiện những loại động cơ khác nhau, nhưng những động cơ ấy còn mờ nhạt, yế ớt, tản mạn.

Đến cuối tuổi mẫu giáo nhỡ, các động cơ đã xuất hiện ở tuổi mẫu giáo bé được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt đến cuối tuổi mẫu giáo nhỡ và lớn thì những động cơ đạo đức thể hiện thái độ của trẻ đối với những người khác có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong sự phát triển các động cơ hành vi.

Từ tuổi mẫu giáo nhỡ, những động cơ ” vì xã hội” bắt đầu chiếm vị trí ngày càng lớn trong số các động cơ đạo đức. Trong thời kỳ này, trẻ đã hiểu rằng những hành vi của chúng có thể mang lại lợi ích cho những người khác và chúng bắt đầu thực hiện những công việc vì người khác theo sáng kiến của riêng mình.

Động cơ hành vi của trẻ mẫu giáo nhỡ và lớn trở nên nhiều màu nhiều vẻ: động cơ muốn tự khẳng định mình, động cơ muốn nhận thức, muốn khám phá thế giới xung quanh, động cơ thi đua, động cơ xã hội… Cần phải quan tâm đến nội dung động cơ của trẻ, cần phải phát huy động cơ tích cực và ngăn chặn động cơ tiêu cực.

Ở lứa tuổi này đã bắt đầu hình thành quan hệ phụ thuộc theo thứ bậc của các động cơ, được gọi là hệ thống thứ bậc các động cơ. Đó là một cấu tạo tâm lý mới trong sự phát triển nhân cách của trẻ mẫu giáo.

Trong hệ thống thứ bậc này, các động cơ được sắp xếp theo ý nghĩa quan trọng của mỗi động cơ đối với bản thân đứa trẻ. Trước một công việc, mỗi trẻ em đều có thể có một hệ thống thứ bậc các động cơ thúc đẩy. Sự khác nhau giữa trẻ em ở đây rõ nhất là trong hệ thống thứ bậc của động cơ, xem động cơ nào chiếm ưu thế nhất. Điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự giáo dục của người lớn và ảnh hưởng của cuộc sống bên ngoài mà trẻ tiếp xúc.

Hệ thống thứ bậc các động cơ được hình thành ở tuổi này khiến cho toàn bộ hành vi của trẻ nhằm theo một xu hướng nhất định. Đây là điểm khác với hành vi của trẻ mẫu giáo bé.

Ở trẻ mẫu giáo nhỡ trở đi, hành vi của chúng tương đối dễ xác định. Nếu động cơ vì xã hội chiếm ưu thế thì trẻ sẽ thực hiện những hành vi mang tính đạo đức tốt đẹp. Ngược lại nếu động cơ nhằm thoả mãn quyền lợi riêng chiếm ưu thế thì trong nhiều trường hợp trẻ sẽ hành động nhằm tìm kiếm những quyền lợi cá nhân ích kỷ, dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng về quy tắc đạo đức xã hội. Đối với những đứa trẻ này cần áp dụng những biện pháp giáo dục thích hợp, có hiệu quả nhằm thay đổi những cơ sở của nhân cách đã được hình thành một cách bất lợi này, trước hết phải cảm hoá trẻ bằng tình yêu thương, đồng thời lại đòi hỏi ở chúng sự yêu thương và quan tâm đến những người xung quanh, tạo ra những tình huống để gợi lên ở trẻ những hành vi đạo đức tốt đẹp.

Tags: khóa học về tâm lý trẻ em, tài liệu tâm lý học trẻ em, tài liệu bài giảng tâm lý học trẻ em, lịch sử phát triển tâm lý học trẻ em, môn tâm lý học trẻ em, tâm lý học trẻ em nguyễn ánh tuyết, tâm lý học ở trẻ em, phương pháp nghiên cứu của tâm lý học trẻ em, phương pháp quan sát trong tâm lý học trẻ em,

Video liên quan

Chủ Đề