Xây dựng logic thành một khoa học là công lao của ai
(Last Updated On: 11/11/2021) Show Nhân loại bắt đầu suy nghĩ theo những qui luật của Logic từ rất lâu trước khi những qui luật này được khoa học khám phá ra nó. Nhưng đó chỉ là cái logic tự phát, kinh nghiệm. Nói cách khác, tư duy hay suy nghĩ của con người khi đó chưa trở thành đối tượng của sự nhận thức khoa học. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, khi mà hoạt động của đời sống xã hội đã được mở rộng, nhận thức khoa học đã hình thành, quá trình tranh luận, thảo luận thời kỳ dân chủ thành Aten đòi hỏi không thể hạn chế ở kinh nghiệm tự phát, mà phải nghiên cứu những nguyên lý của tư duy chính xác, của những chứng minh, lập luận với cấu tạo của khái niệm, phán đoán… một cách đúng đắn. Logic hình thức ra đời trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử đó, và công lao sáng lập khoa học Logic thuộc về Arixtôt. Trên cơ sở tổng kết những hạt nhân của các trường phái học thuật trước đó, Arixtôt đã xây dựng hệ thống các nguyên lý, qui luật, phương pháp và phát triển tiếp tục cả về mặt lý thuyết lẫn thực hành. Các tác phẩm thuộc phạm vi Logic học được tập hợp lại thành bộ sách “Organon” – “bộ công cụ”, với 6 tác phẩm: 1- Phạm trù, thực chất là học thuyết về khái niệm, hình thức cơ bản của tư duy; 2 – Lý giải, trình bày học thuyết về phán đoán, hình thức cơ bản của tư duy; 3 – Phân tích (I), học thuyết về tam đoạn luận, hình thức cơ bản của suy luận diễn dịch; 4 – Phân tích (II), học thuyết về chứng minh, hình thức cơ bản của luận chứng; 5 – Thuật tranh biện, học thuyết về phép biện chứng với ý nghĩa là nghệ thuật tranh luận; 6 – Bác bỏ nguỵ biện, phê phán những khuynh hướng lạm dụng phép biện chứng. Theo Arixtôt, cơ sở của tư duy đúng đắn (nghĩa là tư duy đạt tới chân lý khách quan), trước hết phải tuân theo các qui luật cơ bản: Qui luật đồng nhất; Qui luật cấm mâu thuẫn; Qui luật loại trừ cái thứ ba. Thành tích suất sắc của Arixtôt là xây dựng học thuyết về tam đoạn luận, hình thức cơ bản nhất của suy lý diễn dịch, với những cấu hình, cách thức và qui tắc của nó, mà Logic học hình thức sau này chỉ còn là sự hoàn thiện để vận dụng. Arixtôt đã bao quát được toàn bộ phạm vi, thực chất đối tượng của Logic học, đặt nền tảng cho khoa học Logic phát triển trong nhiều thế kỷ về sau. Tuy nhiên, trong Logic học của Arixtôt có nhiều nhân tố biện chứng liên hợp với siêu hình học. Ông chống lại học thuyết về tính mâu thuẫn của sự vật do Hêraclít nêu ra, do đó, Logic học của Arixtốt đã bị các nhà triết học kinh viện thời trung cổ lợi dụng như một công cụ chứng minh cho quan điểm thần học, Organon đã biến thành Canon (luật lệ).
1. Đặc điểm các giai đoạn lịch sử lôgic họcLôgic học Anxtốt được xây đựng trên cơ sở tổng kết những hạt nhân hợp lý của các trường phái học thuật, triết học là khoa học cụ thể trước ông, tổ chức thành hệ thống nguyên lý quy luật, phương pháp và phát triển tiếp tục cả về mặt lý thuyết lẫn thực hành. Các tác phẩm thuộc phạm vi lôgic học được học trò tập hợp lại thành sách mang tên Organon (Bộ công cụ). Bản thân Arixtốt không đặt tên cho bộ môn này là "logic học", người ta cho rằng trường phái khắc kỷ (Stoic) sau này đã đặt tên cho Bộ công cụ (Organon) là logic học. Bộ công cụ (Organon) có 6 tác phẩm hợp thành: (1)- Phạm trù, thực chất là học thuyết về khái niệm, với tư cách hình thức cơ bản của tư duy; (2)- Lý giải, trình bày học thuyết về phán đoán với tư cách hình thức cơ bản của tư duy; (3)- Phân tích (I), học thuyết về tam đoạn luận, hình thức cơ bản của suy lý diễn dịch; (4)- Phân tích (II), học thuyết về chứng minh, hình thức cơ bản về luận chứng; (5)- Thuật tranh biện, học thuyết về phép biện chứng với tư cách là nghệ thuật tranh luận; (6)- Bác bỏ ngụy biện, phê phán những khuynh hướng lạm dụng phép biện chứng. Bộ công cụ (Organon) của Arixtốt dã trơ thành nền tảng của bộ môn logic học truyền thống của phương Tây. Ngày nay, các sách "logic học phổ thông" đều có cấu trúc cơ bản theo Bộ công cụ (Organon) của Arixtốt; nghĩa là bao gồm các bộ phận hợp thành như: (1)- Học thuyết về các hình thức cơ bản của tư duy như khái niệm, phán đoán, lập luận (suy luận, chứng minh hoặc bác bỏ), (2)- Các nguyên lý, quy luật logic cơ bản làm cơ sở cho quá trình tư duy đúng đắn. Cơ sở lôgic của tư duy đúng đắn (nghĩa là tư duy đạt tới chân lý khách quan) trước hết là các quy luật cơ bản, được Arixtốt trình bày trong tác phẩm "Phân tích (II)" và cả trong tác phẩm "Siêu hình học" công trình nền tảng của triết học Arixtốt. Đó là các quy luật sau đây:
Ngày nay, trong các sách giáo khoa logic phổ thông, nhất là giáo khoa logic hình thức người ta thường phát biểu các quy luật logic cơ bản nêu trên theo ý nghĩa nhận thức luận (chân thực - giả dối) và phương pháp luận (đúng - sai). Nhưng với Arixtốt thì các quy luật logic cơ bản nêu trên là phổ quát, theo cả ba ý nghĩa phương pháp luận (đúng - sai), nhận thức luận (chân thực - giả dối) và bản thể luận (thực tại - hư vô). Xuất phát điểm là nguyên lý về tính cổ lập và bất biến tương đối của mọi sự vật, hiện tượng. Nếu ta thừa nhận mọi sự vật hiện tượng đều có tính cô lập và bất biến tương đối thì đương nhiên chúng phải tuân theo quy luật đồng nhất.: "Nó chính là nó". Nếu tuân theo quy luật đồng nhất thì tất yếu phải tuân theo quy luật phi mâu thuẫn: "Không thể đồng thời vừa là nó, vừa không phải là nó" và cả quy luật bài trung: "Hoặc là nó, hoặc không phải là nó, không có trường hợp thứ ba". Theo tác giả A.Dumitriu thì có thể phân tách Bộ công cụ (Organon) của Arixtôt ra thành hai bộ phận: (1) logic lý thuyết, và (2) logic ứng dụng. Ta có sơ đồ cụ thể như sau: Trí năng của con người có thể được phân tách thành 2 năng lực tương ứng với logic lý thuyết và logic ứng dụng trong Bộ công cụ của Arixtốt. Đó là (1)- trí năng lý thuyết và (2)- trí năng thực hành. Ta có sơ đồ tương ứng sau đây:
Tuy vậy củng đã có một số trường phái học thuật đóng góp vào luận lý học. Trước hết đó là Mặc Tử (479-381 trước Cóng nguyên) cùng với trường phái Mặc biện do ông khởi xướng, không chỉ góp phần đặt nền móng cho logic hình thức mà còn cả cho logic biện chứng. Mặc biện đã bàn về vấn để quan hệ giữa danh và thực không chỉ dưới góc độ quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy mà còn ca dưới gốc độ quan hệ giữa ngoại diện và nội hàm của khái niệm: đề cập để chân - giả của phán đoán và vấn đề quy tắc biện luận, nghĩa là đã quan tâm tìm hiểu các hình thức cơ bản của tư duy (khái niệm, phán đoán, lập luận), Lược đồ tam biểu của Mặc Tử rất nổi tiếng, nó bao hàm cả luận lý học nhận thức luận và thực tiễn luận trong một hệ quan điểm thống nhất. Cấu trúc của lược đồ đó là:
Lược đồ tam biểu đó không chỉ thể hiện cấu trúc hình thức của tư duy mà còn cả đặc điểm biện chứng của tư duy, đó là tinh kế thừa trong quá trình vận động, phát triển của tư duy. Trường phái Danh biện với các đại biểu nổi tiếng như Huệ Thi (370-310 trước Công nguyên) và Công Tôn Long (320-255 trưốc Công nguyên) đã có công đặt vấn đề vô hạn chế căn bản của logic hình thức thuẫn túy - con đường dẫn tới siêu hình, gợi mở những khuynh hướng logic hình thức không thuần túy, mà ngày nay ở phương Tây được gọi là lôgíc đa trị lôgíc tình thái, lôgíc mở v.v.. Chẳng hạn, nghịch lý "Bạch mã phi mã" (ngựa trắng không phải là ngựa) do Công Tôn Long phát hiện và luận giải có ý nghĩa lôgíc sâu sắc. Đó không phải là lối ngụy biện giản đơn mà trường phái ngụy biện trong triết học và lôgíc học Hy Lạp cố dại thường hay đưa ra, kiểu như:
Nghịch lý "Bạch mã phi mã" thể hiện tinh thần biện chứng sâu sắc. Nó ghi nhận sự mâu thuẫn thống nhất giữa ngoại diên và nội hàm của khái niệm, giữa khái niệm cụ thể và khái niệm trừu tượng, giữa danh và thực, giữa sự vật (cái ấy) với thuộc tính của nó (tính ấy), v.v.. Đặc điểm bất phân luận lý học với nhận thức luận và cả với bản thể luận cũng thể hiện khá rõ trong truyền thông văn hóa Ấn Độ. Thí dụ điển hình nhất là Nhân minh học (môn học về nhân minh, mà nhân minh thì có nghĩa là sáng tỏ nguyên nhân của sự vật, hiện tượng bằng nhận thức đúng đắn và biện lý chặt chẽ). Nhân minh học xuất hiện vào những thế kỷ VII, VT trước Công nguyên do trường phái Nyàya Vaisesika (Thắng luận) để xướng và do ngài Aksapàda Gotama (Túc Mục) tổng kết. Phật học đã tiếp thu cổ nhân minh học và đã phát triển thành tân nhân minh học. Dù cổ nhân minh học hay tân nhân minh học thì đều có đặc điểm chung là bất phân luận lý học với nhận thức luận. Nói chung, truyền thông phướng Đông không ưa chuộng khuynh hướng luận lý học thuần túy theo kiểu phương Tây. Lôgic học trung cổ
Như đã nói, Nhân minh học Phật giáo phát triển mạnh từ cuối thời kỳ cổ đại và giữa thòi Trung đại dã thu được một số thành tựu nền tảng. Vào các thế kỷ VII và VI trước Công nguyên đã xuất hiện những bộ sách kinh điển như "Nhân minh nhập chính lý luận" (Nvàya Dvarataraka Sàtra) của Sanqaravasmm (Thương yết la chủ Bồ tát) và "Chính lý nhất trích luận" (Nyàya Bínđu) của Dharmakìrti (Pháp xứng Bồ tát). Kết cấu chung của các sách kinh điển Nhân minh học Phật giáo đều theo quan điểm thông nhất nhận thức luận và luận lý học (lôgíc theo nghĩa hẹp của phương Tây), chỉ có khác nhau thứ tự trình bày: sách Nyàya Bindu thì nhận thức luận đi trước luận lý học, còn sách Nyàya Dvarataraka Sàtra thì ngược lại, luận lý học đi trưốc nhận thức luận. Có thể thấy rõ hơn qua bảng so sánh sau đây:
Tam chi tác pháp của Nhân minh học có dạng đầy đủ. bao gồm ba thành phần chính: Nếu đối chiếu với luận lý học phương Tây thì tam chi tác pháp có cấu trúc khác hẳn tam đoạn luận Arixtốt; trái lại, giống hệt phép luận chứng lôgic hình thức. Thật vậy, thí dụ ta có một tam chi tác pháp cụ thể sau đây:
Nó có cấu trúc khác hần với tam đoạn luận Arixtốt:
Nhưng lại có cấu trúc giống hệt luận chứng logic hình thức:
Ta thấy rõ, Tôn đóng vai trò luận đề, Nhân là luận cứ, còn Dụ đóng vai trò luận thuyết.
Lôgic học cận đại
Một thời đại mới của logic suy diễn nói riêng, logic hình thức nói chung đã bắt đầu từ công trình nền tảng của G.Laibnit (G,Leibnitz, 1646-1716), Lịch sử logic học ghi nhận hai đóng góp lớn của G.Laibnít. Thứ nhất, ông đã hoàn thiện hệ thống quy luật cơ bản của logic hình thức, bằng cách tiếp thu ba quy luật cơ bản do Arixtốt phát hiện và bổ sung thêm quy luật cơ bản thứ tư. Cụ thể như sau:
Điều quan trọng là cách kiến giải các quy luật logic cơ bản theo tinh thần Anxtốt nghĩa là quan niệm logic theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng, lôgíc là lính quy luật phổ biến chung cho cả thực tại và tư duy; và theo nghĩa hẹp, lôgíc là tính quy luật phổ biến chung của tư duy. Quy luật lý do đầy đủ được bổ sung thêm cũng được hiếu theo tinh thần đó. Không chỉ theo nghĩa nhận thức luận và phương pháp luận, yêu cầu chứng minh hoặc bác bỏ các quan niệm phải có lý lẽ xác đáng, đầy đủ mới đủ thuvết phục, mà còn theo cả nghĩa bản thể luận, cho rằng bản thân sự vật, hiện tượng tồn tại đều có nguyên nhân và nguồn gốc phát sinh, đều có tính tất yếu nhân - quả.
Trong "Khoa học về logic" của ông, ta tìm thấy hệ thông nguyên lý, quy luật, phạm trù, hệ thống lược đồ thao tác logic biện chứng khác hắn với logic hình thức. Ta có thể lập bảng so sánh hệ thống nguyên lý và quy luật cơ bản của hai bộ môn logic hình thức và logic biện chứng theo cách bố trí của Hêghen như sau;
Trên cơ sở những nguyên lý và quy luật lôgic biện chứng cơ bản, Hêghen đã xây dựng các học thuyết về biện chứng của khái niệm, phán đoán và lập luận. Với Hêghen, tư duy biện chứng ăn nhập vào biện chứng của tư duy và với biện chứng của thực tại. Tất cả vận động theo một lược đồ logic nhất quán, gọi là tam đoạn thức (triad). Dưới dạng không đầy đủ, tam đoạn thức biện chứng có ba thành phần (hay ba công đoạn) chính: (1)- chính đề, (2)- phản đề và (d) - hợp đề. Còn dưới dạng đầy đủ thì tam đoạn thức có ba thành phần (hay ba công đoạn), trongđdó thành phần (hay công đoạn) giữa bị phân đôi mâu thuẫn: Nếu gọi thành phần (hay công đoạn) giữa là phán để (phân đôi mâu thuẫn - bản chất của biện chứng), thì ta sẽ có dạng lược đồ sau đây: Nếu ký hiệu nguyên đề là N, phân để là p và hợp đề là H, thì tam đoạn thức trong lôgic biện chứng của Hêghen có dạng hình thức hóa là: < N - P - H> Lược đồ tam đoạn thức biện chứng cùng với hệ thống nguyên lý và quy luật lôgic biện chứng cơ bản do Hêghen phát hiện đã làm cơ sở của bộ môn lôgíc biện chứng truyền thống. Lôgic học hiện đại
2. Đặc điểm chung của lịch sử lôgic học
|