Vì sao gọi trai sông la máy lọc khổng lồ

Ở những khu vực sâu nhất và lạnh nhất của đại dương, có một số sinh vật biển sở hữu kích thước cực kỳ lớn, hầu hết chúng đều là những loài động vật không xương sống. So với các loài họ hàng sinh sống ở những khu vực khác, kích thước của chúng tỏ ra vượt trội hơn rất nhiều. Và theo cái nhìn của sinh học, hiện tượng này được gọi là "khổng lồ hóa".

Ví dụ: Loài mực khổng lồ ở vùng biển cận Nam Cực dài gấp 14 lần loài mực mũi tên thông thường ở New Zealand; Bọt biển sâu trong vùng biển xa xôi của Thái Bình Dương có thể có kích thước bằng một chiếc xe van. Nhưng làm thế nào mà những vực sâu lạnh giá này lại có thể tạo ra những sinh vật khổng lồ như vậy? Do nhu cầu sinh tồn của sinh vật, hay điều gì đó ở vùng biển băng giá đã khiến cho chúng trở nên to lớn?

Vì sao gọi trai sông la máy lọc khổng lồ

Cua nhện Nhật Bản có chiều dài chân lớn nhất trong số động vật giáp xác. Độ mở rộng chân của một cá thể trưởng thành lên tới 4 m. Chúng sống ở vùng duyên hải phía nam đảo Honshu, từ vịnh Tokyo đến Kagoshima và một số vùng xa hơn. Những con cua khổng lồ nặng từ 15 đến 20 kg thường sống ở độ sâu khoảng 150 m đến 300 m dưới đáy biển.

Một bài báo đăng trên tạp chí Biogeography vào năm 2006 đã chỉ ra rằng tài nguyên ở những nơi sâu nhất của đại dương rất khan hiếm, đồng thời có nhiều điểm tương đồng với các hệ sinh thái trên đảo. Hầu hết thức ăn đều đến từ vùng nước nông, và chỉ một số ít xuất hiện ở độ sâu của đại dương. Alicia Bitondo, quản lý cấp cao của Thủy cung Monterey ở California, chỉ ra rằng kích thước lớn có thể mang lại lợi thế rất lớn khi thức ăn khan hiếm.

Đối với những loài sinh sống dưới đáy biển, kích thước lớn sẽ giúp cho chúng di chuyển xa hơn để tìm kiếm thức ăn hoặc bạn tình. Sự trao đổi chất của chúng cũng hiệu quả hơn và cơ thể chúng có khả năng dự trữ thức ăn tốt hơn. Vì vậy, khi thức ăn, chẳng hạn như xác của các động vật lớn rơi xuống biển sâu, các loài động vật lớn hơn sẽ ăn nhiều thức ăn hơn và dự trữ năng lượng lâu hơn.

Vì sao gọi trai sông la máy lọc khổng lồ

Cá mập Greenland (Somniosus microcephalus) sinh sống dưới đáy đại dương ở Bắc Đại Tây Dương và Bắc Cực. Những con cá mập khổng lồ này, có kích thước gần bằng những con cá mập trắng lớn, khoảng 6,5 đến 7,3 m, thực sự ấn tượng. Chúng thường ăn các loài cá nhỏ, bao gồm cả cá mập. Chúng cũng ăn hải cẩu. Tuy nhiên, các nhà khoa học cho rằng cá mập Greenland bơi không nhanh, thường chỉ 1,22 km/h với tốc độ lớn nhất 2,6 km/h. Đây là một trong những loài cá mập chậm nhất, tốc độ tối đa chỉ khoảng một nửa của hải cẩu thông thường. Vậy nên, việc cá mập Greenland săn hải cẩu như thế nào cho đến nay vẫn là một điều bí ẩn chưa được giải đáp. Các nhà khoa học cho rằng chúng tấn công bất ngờ khi hải cẩu đang ngủ.

Nhiệt độ thấp của biển sâu có thể làm giảm đáng kể tỷ lệ trao đổi chất của động vật, và cũng có thể góp phần vào sự phát triển khổng lồ của động vật biển sâu. Các sinh vật trong hệ sinh thái biển sâu có xu hướng phát triển và trưởng thành rất chậm, chẳng hạn như cá mập ngủ Greenland, chúng có thể dài tới 7,3 mét và nặng 1,5 tấn, nhưng chúng phát triển trong suốt cuộc đời và có thể sống hàng trăm năm. Cá mập Greenland chỉ tăng trưởng 1cm mỗi năm và không đạt đến độ tuổi trưởng thành về mặt sinh dục cho đến khi khoảng 150 tuổi. Bitondo nói thêm rằng kích thước khổng lồ cũng đến từ việc có rất ít động vật săn mồi cạnh tranh với chúng dưới đáy đại dương, đó là lý do tại sao những con cá mập này có thể sống lâu và phát triển lớn như vậy.

Vì sao gọi trai sông la máy lọc khổng lồ

Cá khổng lồ Oarfish hay còn gọi là cá mái chèo, là loài sống lâu đời nhất được biết đến trong các loài cá có xương. Chúng sở hữu đôi mắt to khổng lồ,cho phép chúng di chuyển đến những phần sâu nhất của đại dương, cơ thể chúng dài đến một cách lạ thường, một số cá thể được phát hiện còn dài hơn cả 1 chiếc xe bus và nặng gần 300 kg. Dù có thân hình khổng lồ nhưng cá Oarfish không có răng mà thường bắt mồi bằng mang. Theo đó, chúng hút nước vào miệng, thải nước qua mang, lọc giữ lại những thức ăn nhỏ. Thực phẩm ưa thích của cá Oarfish là các loài nhuyễn thể hoặc giáp xác nhỏ như cá nhỏ hay mực ống.

Trước khi con người chạm trán với những con quái thú khổng lồ này dưới đáy biển sâu, sự tồn tại của chúng lần đầu tiên được phát hiện ở vùng biển gần Nam Cực. Gần Nam Cực, hiện tượng "khổng lồ" dường như ở gần bề mặt hơn so với những nơi khác, với những con sên biển khổng lồ, bọt biển, giun, nhện biển và cả những sinh vật đơn bào khổng lồ sống ở vùng nước nông - nơi nông nhất chỉ 9,1 mét.

Alt Woods, một nhà sinh thái học tại Đại học Montana cho biết: "Có thể có một số yếu tố đặc biệt ở Nam Cực cho phép những loài khổng lồ này tồn tại ở những vùng nước gần bề mặt hơn, có thể đó là oxy".

Các vùng cực có nồng độ oxy trong nước biển cao hơn các nơi khác. Đồng thời nhiệt độ thấp làm giảm tốc độ trao đổi chất, vì vậy động vật trong những môi trường này cũng sử dụng oxy chậm hơn bình thường. Bởi vì mức oxy ở đây vượt xa những gì động vật cần, các điều kiện hạn chế sự phát triển của chúng có thể được nới lỏng. Những môi trường này cho phép cơ thể và mô của động vật phát triển lớn hơn mà không gặp phải nguy cơ thiếu oxy. Điều đó nói lên rằng, việc cung cấp đầy đủ oxy không nhất thiết là nguyên nhân tạo ra các sinh vật biển lớn hơn, nhưng ít nhất nó cũng là một trong những yếu tố dẫn đến tình trạng khổng lồ hóa.

Tuy nhiên, hiện nay cho dù có một số giả thuyết về cách các sinh vật biển khổng lồ hình thành, nhưng vẫn chưa ai có thể xác định được cơ chế chính xác dẫn đến những thay đổi đáng kể về kích thước của chúng trong quá trình tiến hóa. Như Woods đã nói: "Trong thế giới sinh vật, không có gì là chắc chắn".

https://genk.vn/tai-sao-duoi-bien-sau-lai-co-nhieu-sinh-vat-khong-lo-20220516101852495.chn

Ngành Thân mềm (Mollusca, còn gọi là nhuyễn thể hay thân nhuyễn) là một ngành trong phân loại sinh học có các đặc điểm như cơ thể mềm, có thể có vỏ đá vôi che chở và nâng đỡ, tùy lối sống mà vỏ và cấu tạo cơ thể có thể thay đổi. Ngành Thân mềm có nhiều chủng loại rất đa dạng, phong phú và là nhóm động vật biển lớn nhất chiếm khoảng 23% tổng số các sinh vật biển đã được đặt tên. Trong các khu vực nhiệt đới, bao gồm Việt Nam, ngành này có hơn 93.000 loài hiện hữu, trong đó có các loài như trai, sò, ốc, hến, ngao, mực, bạch tuộc và hơn 70.000 loài đã tuyệt chủng. Chúng phân bố ở các môi trường như biển, sông, suối, ao, hồ và nước lợ. Một số sống trên cạn. Một số nhỏ chuyển qua lối sống chui rúc, đục ruỗng các vỏ gỗ của tàu thuyền như con hà.

Động vật thân mềm
Thời điểm hóa thạch: Kỷ Ediacara hoặc kỷ Cambri - gần đây
Vì sao gọi trai sông la máy lọc khổng lồ

Khoảng 80% loài động vật thân mềm được biết đến là lớp Chân bụng (Ốc và sên biển), bao gồm con Cowry trong ảnh (một loài sên biểnl).[3]

Ước tính số loài hiện hữu đã miêu tả được chấp nhận trong nhóm động vật thân mềm dao động từ 50.000 đến tối đa 120.000.[1] Năm 1969 David Nicol đưa ra con số phỏng đoán 107.000 trong đó có khoảng 12.000 loài chân bụng nước ngọt và 35.000 loài trên cạn. Động vật hai mảnh vỏ (Bivalvia) có thể chiếm khoảng 14% tổng số và 5 nhóm khác chiếm ít hơn 2% trong số các loài động vật thân mềm hiện hữu.[4] Năm 2009, Chapman ước tính số loài hiện hữu đã được miêu tả là 85.000.[1] Haszprunar năm 2001 ước tính khoảng 93.000 loài đã được đặt tên, trong đó gồm 23% các loài ở biển đã được đặt tên.[5] Động vật thân mềm là nhóm xếp thứ hai sau Arthropoda (chân khớp) về số lượng loài hiện hữu[3]—cách rất xa so với Arthropoda là 1.113.000, nhưng dẫn trước Chordata với 52.000.[6] Có khoảng 200.000 loài còn sinh tồn theo ước tính trên tổng số,[1][7] và 70,000 loài hóa thạch, mặc dù số loài tổng cộng của động vật thân mềm đã từng tồn tại, hoặc không được bảo tồn phải lớn hơn nhiều so với số lượng còn sinh tồn ngày nay.[8]

Động vật thân mềm có nhiều dạng hơn so với bất kỳ nhóm nào khác trong ngành động vật. Chúng bao gồm ốc sên, ốc và các loài động vật chân bụng; clam và các loài bivalve khác; mực và các loài Cephalopoda khác; và các loài ít được biết đến hơn nhưng là nhưng phân nhóm riêng biệt có tính tương đồng. Phần lớn các loài vẫn sống trong các đại dương, từ vùng ven bờ đến vùng biển thẳm, nhưng một số là thành phần quan trọng trong các hệ sinh thái nước ngọt và trên cạn. Động vật thân mềm cực kỳ đa dạng trong các vùng nhiệt đới và ôn đới, nhưng cũng có thể được tìm thấy ở tất cả các vĩ độ. Khoảng 80% trong số các loài động vật thân mềm đã được biết đến là động vật chân bụng.[3] Cephalopoda như mực, bạch tuộc là những động vật có hệ thần kinh tiến bộ nhất trong nhóm các loài động vật không xương sống.[9] Mực khổng lồ, cho đến gần đây đã không được quan sát còn sinh tồn ở dạng cá thể trưởng thành,[10] là một trong những động vật không xương sống lớn nhất, nhưng mẫu vật được bắt gần đây của loài Mesonychoteuthis hamiltoni dài 10m và nặng 500kg có thể đã vượt qua loài mực khổng lồ.[11]

Động vật thân mềm nước ngọt và trên đất liền thuộc nhóm dễ bị tổn thương. Những ước tính về số loài động vật thân mềm không sống trong biển thì nằm trong một khoảng rộng, một phần là do nhiều khu vực không được khảo sát kỹ lưỡng. Ngoài ra còn có sự thiếu hụt các chuyên gia có thể xác định tất cả các loài động vật trong bất kỳ một khu vực đến cấp loài. Tuy nhiên, năm 2004 Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa bao gồm gần 2.000 loài động vật thân mềm sống trong môi trường nước ngọt và đất liền bị đe dọa. Để so sánh, phần lớn các loài động vật thân mềm sống trong biển, nhưng chỉ có 41 trong số này có mặt trong Sách Đỏ năm 2004. Khoảng 42% các loài đã tuyệt chủng được ghi nhận từ năm 1500 là động vật thân mềm, bao gồm gần như toàn bộ các loài không sống trong biển.[12]

Vai trò thực tiễnSửa đổi

  • Lợi ích:

- Làm thực phẩm cho con người.

- Làm thức ăn cho động vật khác.

- Làm sạch môi trường nước.

- Nguyên liệu xuất khẩu.

  • Tác hại:

- Là vật trung gian truyền bệnh.

- Ăn hại cây trồng.

Đặc điểm chungSửa đổi

+ Cơ thể mềm, không phân đốt và ở phía lưng thường có nếp da phủ ngoài được gọi là áo. Đó là đặc điểm chỉ có ở các loài thân mềm.

+ Tim chia ngăn phát triển, hệ tuần hoàn hở.

+ Hệ thần kinh thuộc kiểu hạch thần kinh phân tán.

+ Hệ tiêu hóa phân hóa.

(adsbygoogle = window.adsbygoogle || []).push({}); Xem thêmSửa đổi

  • Conchifera

Hình ảnhSửa đổi

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ a b c d Chapman, A.D. (2009). Numbers of Living Species in Australia and the World, 2nd edition. Australian Biological Resources Study, Canberra. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2010. ISBN 978-0-642-56860-1 (printed); ISBN 978-0-642-56861-8 (online).
  2. ^ Little, L., Fowler, H.W., Coulson, J., and Onions, C.T. biên tập (1964). “Malacology”. Shorter Oxford English Dictionary. Oxford University press.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  3. ^ a b c edited by Winston F. Ponder, David R. Lindberg. (2008). Ponder, W.F. and Lindberg, D.R. (biên tập). Phylogeny and Evolution of the Mollusca. Berkeley: University of California Press. tr.481. ISBN978-0-520-25092-5.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết) Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  4. ^ David Nicol (1969), The Number of Living Species of Molluscs; Systematic Zoology, Vol. 18, No. 2 (Jun., 1969), pp. 251-254
  5. ^ Rebecca Hancock (2008). “Recognising research on molluscs”. Australian Museum. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2009.
  6. ^ Ruppert, E.E., Fox, R.S., and Barnes, R.D. (2004). Invertebrate Zoology (ấn bản 7). Brooks / Cole. tr.Front endpaper 1. ISBN0-03-025982-7.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  7. ^ Winston F. Ponder and David R. Lindberg (2004). “Phylogeny of the Molluscs”. World Congress of Malacology. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2009.
  8. ^ David M. Raup & Steven M. Stanley (1978). Principles of Paleontology (ấn bản 2). W.H. Freeman and Co. tr.4–5. ISBN0716700220.
  9. ^ Barnes, R.S.K., Calow, P., Olive, P.J.W., Golding, D.W. and Spicer, J.I. (2001). The Invertebrates, A Synthesis (ấn bản 3). UK: Blackwell Science.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  10. ^ Kubodera, T. and Mori, K. (2005). “First-ever observations of a live giant squid in the wild” (PDF). Proceedings of the Royal Society B. 272 (1581): 2583–2586. doi:10.1098/rspb.2005.3158. PMC1559985. PMID16321779. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2008.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  11. ^ Richard Black (ngày 26 tháng 4 năm 2008). “Colossal squid out of the freezer”. BBC News. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2008.
  12. ^ C. Lydeard & R. Cowie, R., Ponder, W.F. và đồng nghiệp (tháng 4 năm 2004). “The global decline of nonmarine mollusks” (PDF). BioScience. 54 (4): 321–330. doi:10.1641/0006-3568(2004)054[0321:TGDONM]2.0.CO;2. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2009. “Và đồng nghiệp” được ghi trong: |authors= (trợ giúp)Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Dữ liệu liên quan tới Mollusca tại Wikispecies
  • Động vật thân mềm tại Encyclopedia of Life
  • Researchers complete mollusk evolutionary tree; ngày 26 tháng 10 năm 2011
  • Hardy's Internet Guide to Marine Gastropods
  • Rotterdam Natural History Museum Shell Image Gallery
  • Mussel Watch Programme Lưu trữ 2015-09-07 tại Wayback Machine