Ưu nhược điểm của giá trị thặng dư

Phương pháp thặng dư là gì? Công thức tính và ưu nhược điểm?

Trong bối cảnh hàng tồn kho, thặng dư mô tả các sản phẩm vẫn nằm trên các kệ hàng, chưa được mua. Trong bối cảnh ngân sách, thặng dư xảy ra khi thu nhập kiếm được vượt quá chi phí đã trả. Một  thặng dư ngân sách cũng có thể xảy ra trong chính phủ khi có còn sót lại thu thuế sau khi tất cả các chương trình của chính phủ đang được tài trợ hoàn toàn.

Luật sư tư vấn pháp luật miễn phí qua điện thoại 24/7: 1900.6568

1. Phương pháp thặng dư là gì?

– Phương pháp thặng dư [Surplus method] mô tả số lượng tài sản hoặc tài nguyên vượt quá phần được sử dụng tích cực. Thặng dư có thể đề cập đến một loạt các mục khác nhau, bao gồm thu nhập, lợi nhuận, vốn và hàng hoá. Thặng dư vốn cổ phần, hay thặng dư vốn cổ phần, thường được dùng để chỉ phần thặng dư thu được sau khi cổ phiếu phổ thông được bán với giá cao hơn mệnh giá của nó. Thặng dư vốn cổ phần bao gồm vốn chủ sở hữu hoặc giá trị ròng, nếu không thì không thể phân loại là vốn cổ phần  hoặc lợi nhuận giữ lại.


Phương pháp thặng dư là phương pháp thẩm định giá xác định giá trị của bất động sản có tiềm năng phát triển dựa trên cơ sở lấy giá trị ước tính của phát triển giả định của tài sản [tổng doanh thu phát triển] trừ đi tất cả các chi phí dự kiến phát sinh [bao gồm lợi nhuận nhà đầu tư] để tạo ra sự phát triển đó. Thẩm định giá bất động sản dựa trên phương pháp thặng dư dựa trên cơ sở giá trị của đất bằng thu nhập từ đất đóng góp trong tổng thể bất động sản đầu tư, quy đổi về hiện tại theo tỷ suất vốn hóa phù hợp.

Công thức tổng quát:

V = DT – CP

V: Giá trị tài sản thẩm định giá;

DT: Tổng doanh thu phát triển;

CP: Tổng chi phí phát triển.

Để thẩm định giá bất động sản bằng phương pháp thặng dư cần làm theo các bước cơ bản sau:

Bước 1:  Xác định việc sử dụng tốt nhất và có hiệu quả nhất của bất động sản: Xác định mục tiêu kinh doanh, cách thức khai thác tốt nhất và hiệu quả nhất dự án, phù hợp với quy định pháp luật, khả thi về điều kiện tài chính và mang lại giá trị cao nhất cho dự án…

Bước 2: Xác định giai đoạn dự báo dòng tiền trong tương lai.

Bước 3: Ước tính tổng doanh thu phát triển của bất động sản. Đối với trường hợp 2 cần thực hiện quy đổi tổng doanh thu phát triển của bất động sản về thời điểm thẩm định giá.

Bước 4: Ước tính tổng chi phí phát triển để tạo ra giá trị phát triển của bất động sản. Đối với trường hợp 2 cần thực hiện quy đổi tổng chi phí phát triển của bất động sản về thời điểm thẩm định giá.

Bước 5: Xác định giá trị quyền sử dụng đất trên cơ sở lấy kết quả tính toán của Bước 3 trừ [-] kết quả của Bước 4.

Phương pháp thặng dư được áp dụng để đánh giá giá trị bất động sản có tiềm năng phát triển:

  • Phương pháp có thể sử dụng cho đất trống để xây dựng hoặc đất có công trình trên đất đó có thể cải tạo hoặc phá dỡ xây dựng công trình mới trên đất.
  • Phuơng pháp thặng dư dựa trên giả thiết là người mua có thể trả cho bất động sản phần thặng dư sau khi tổng doanh thu phát triển trừ [-] đi tổng chi phí đầu tư để tạo ra doanh thu phát triển.
  • Kiểm tra đối chứng hoặc thay thế phương pháp thẩm định giá đất khác [sử dụng vào mục đích đầu tư]

Việc sử dụng tốt nhất và có hiệu quả nhất của bất động sản được xác định trên cơ sở:

  • Đặc điểm của bất động sản;
  • Các thông tin về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng, quy định về chuyển mục đích sử dụng đất và các quy định về xây dựng đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt;
  • Hướng dẫn phân tích việc sử dụng tài sản tốt nhất và có hiệu quả nhất tại Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam về quy trình thẩm định giá.

Ưu điểm phương pháp thặng dư:

  • Thẩm định giá bất động sản bằng phương pháp thặng dư có ưu điểm hữu ích trong phân tích các đầu tư quan trọng để ra quyết định [như các mức giá khi thực hiện đấu thầu]
  • Đánh giá các bất động sản có tiềm năng phát triển.
  • Có giá trị quan trọng để tư vấn về chi phí xây dựng tối đa và tiền cho thuê tối thiểu cần đạt được khi thực hiện dự án phát triển bất động sản.

Nhược điểm phương pháp thặng dư:

  • Dùng nhiều giả định nên cần nhiều thông tin để phân tích, dự báo [doanh thu/chi phí] trong tương lai không dễ dàng.
  • Giá trị cuối cùng rất nhạy cảm đối với các tham số về chi phí và giá bán.
  • Phương pháp thặng dư không tính đến giá trị thời gian của tiền.
  • Tất cả mọi ước tính về chi phí và giá bán có thể thay đổi tùy theo các điều kiện của thị trường
  • Phương pháp thặng dư là phương pháp tương đối rất phức tạp, đòi hỏi thẩm định viên phải có kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn cao trong lĩnh vực thẩm định giá để ước tính tất cả các khoản mục khác nhau.

BACK_TO_TOP_BUTTON

Để sản xuất ra giá trị thặng dư các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đó. Một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến đó là phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.

Vậy phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là gì? Cùng người viết tìm hiểu qua nội dung bài viết dưới đây nhé.

Tìm hiểu phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là gì?

Khi kỹ thuật còn thấp và yếu kém trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa thì phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là kéo dài sức lao động của những người công nhân làm việc.

Phương pháp này sẽ thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của người công nhân làm việc trong điều kiện thời gian lao động cố định không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này chính là giá trị thặng dư tuyệt đối.

Cùng theo dõi ví dụ này để hình dung rõ hơn nhé. Người lao động A làm việc trong 8h thì trong đó 4h đầu là thời gian lao động tất yếu còn 4h sau là thời gian lao động thặng dư. Giả sử kéo dài ngày lao động thêm 2h thì thời gian tất yếu vẫn không đổi còn thời gian lao động thặng dư là 6h.

Như vậy khi kéo dài ngày lao động lên trong khi thời gian lao động tất yếu không đổi thì khi đó thời gian lao động thặng dư tăng lên và từ đó tỷ suất giá trị thặng dư cũng sẽ tăng lên.

Quá trình áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Sau khi đã tìm hiểu phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là gì chúng ta cùng khám phá xam họ sẽ áp dụng phương pháp này như thế nào nhé

Các nhà tư bản có xu hướng kéo dài ngày làm việc đến mức giới hạn. Nếu có thể, hãy cho công nhân làm việc 24/24 giờ. Họ đã bỏ tiền ra để mua sức lao động trong một ngày, họ muốn sử dụng nó. Bạn có thể mua hàng. vào ngày này. Nhưng ngày làm việc không được dài hơn 24 giờ và không ai được làm việc 24 giờ. Vì người lao động cần có thời gian ăn, ngủ, nghỉ, thư giãn … để phục hồi sức khỏe và từ sự phản kháng của giai cấp công nhân.

Giai cấp tư sản muốn kéo dài ngày làm việc trong khi giai cấp công nhân muốn rút ngắn ngày làm việc. Do đó, độ dài của ngày làm việc có thể co giãn, và quyết định của nó phụ thuộc vào sự so sánh của các lực lượng trong chiến đấu. giữa hai giai cấp trên Điểm nghỉ về độ dài của ngày làm việc là thời điểm mà lợi ích kinh tế của nhà tư bản và lợi ích kinh tế của người lao động được thực hiện trong một sự thỏa hiệp tạm thời.

Khi đã xác định được độ dài của ngày lao động, nhà tư bản lại cố gắng tăng cường độ lao động của công nhân. Tăng cường độ lao động có nghĩa là chi phí để làm thêm công việc trong một khoảng thời gian nhất định, do đó, về cơ bản nó giống như kéo dài ngày làm việc, do đó, tăng giờ làm và tăng cường độ lao động là hai biện pháp để tạo ra giá trị tuyệt đối.

Các phương pháp liên quan đến phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

– Về phương pháp giá trị thặng dư tương đối

Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư là kết quả của việc rút ngắn thời giờ lao động tất yếu do năng suất lao động xã hội tăng lên. Sự gia tăng năng suất lao động xã hội diễn ra trên hết trong các ngành sản xuất như hàng tiêu dùng, sẽ làm giảm giá trị sức lao động và do đó làm giảm thời gian lao động cần thiết.Nếu độ dài của ngày lao động không đổi, giảm thời gian lao động cần thiết sẽ làm tăng thời gian lao động.

– Về giá trị thặng dư siêu ngạch

Để có lợi thế trong cạnh tranh, thu được nhiều giá trị thặng dư, nhà tư bản đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, cải tiến tổ chức sản xuất, hoàn thiện phương thức quản lý kinh tế, nâng cao năng suất của nhân công. Kết quả là, giá trị cá biệt của hàng hoá nhỏ hơn giá trị xã hội của nó.

Nhà tư bản có thể làm được điều này sẽ thu được một số vốn bằng cách bán tài sản của mình. Ưu việt hơn các nhà tư bản khác. Tỷ lệ lợi nhuận vốn đạt được vượt quá lợi nhuận vốn bình thường của công ty được gọi là lãi vốn. Nếu xem xét mọi đơn vị sản xuất tư bản chủ nghĩa thì giá trị thặng dư là hiện tượng cục bộ tạm thời.

Nhưng trong mối quan hệ với toàn bộ xã hội tư bản, giá trị thặng dư là một hiện tượng thường trực. Vì vậy, thiện chí là một động lực. Động lực mạnh nhất của các nhà tư bản để cải tiến công nghệ và tăng năng suất lao động.

Như vậy, nội dung trên đây đã giúp cho bạn đọc hiểu rõ hơn về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là gì? đồng thời cũng giúp bạn có thêm kiến thức liên quan về nội dung này.

Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư. Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

a] Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của công nhân.

Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.

Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:

Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:

Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 gịờ. Khi đó ngày lao động được chia như sau:

Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:

Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%.

Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Vì công nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.

Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng không cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ.

b]  Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của nguời lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kỹ thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối.

Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn như sau:

Do đó, tý suất giá trị thặng dư là:

Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó được biểu diễn như sau:

Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:

Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.

Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao động xã hội.

Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, đó cũng là quá trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc không phải là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường độ lao động cơ bắp.

• Giá trị thặng dư siêu ngạch

Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giám giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của háng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.

Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị củ biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.

Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời, nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tứơng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối dều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động [mặc dù một bên là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao dộng xã hội].

Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được. Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản.

Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của hàng hóa.

Loigiaihay.com

Video liên quan

Video liên quan

Chủ Đề