Thầy thuốc nổi tiếng thời Trần là

Nhà Trần là triều đại quân chủ chuyên chế trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm 1225, sau khi được Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi.

Nhà Trần là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam. Đây là triều đại được lưu danh với những chiến công hiển hách trong lịch sử Việt Nam. Vậy Thầy giáo nổi tiếng nhất dưới thời Trần là?

Câu hỏi:

Thầy giáo nổi tiếng nhất dưới thời Trần là?

A.Nguyễn Bỉnh Khiêm.

B.Chu Văn An.

C.Nguyễn Đình Chiểu.

D.Lê Quý Đôn.

Đáp án đúng B.

Thầy giáo nổi tiếng nhất dưới thời trần là Chu Văn An, ông sinh năm 1292 mất năm 1370 nổi tiếng là người cương trực, sửa mình trong sạch, Chu Văn An nhận chức Quốc tử giám tư nghiệp, dạy cho thái tử Trần Vượng học [thái tử là vua Trần Hiến Tông trong tương lai] vào đời Vua Trần Minh Tông và tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái.

Lý giải việc chọn đáp án B là đáp án đúng do:

Nhà Trần tồn tại và phát triển 175 năm [1225 – 1400] trong lịch sử nước ta với quốc hiệu Đại Việt, kinh đô Thăng Long.  Đây là triều đại được lưu danh với những chiến công hiển hách trong lịch sử Việt Nam.

Nhà Trần là triều đại quân chủ chuyên chế trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Trần Cảnh lên ngôi vào năm 1225, sau khi được Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi. Trong giai đoạn nắm giữ quyền lực, nhà Trần vẫn đóng đô ở Thăng Long – kinh đô triều cũ, tiếp tục mở rộng và phát triển sự hưng thịnh có từ đời nhà Lý.

Thời Trần, Quốc tử giám mở rộng việc đảo tạo con em quý tộc, quan lại. Các lộ, phủ quanh kinh thành đều có trường công. Trong nhân dân, ở các làng xã có trường tư. Các kì thi được tổ chức ngày càng nhiều. Chu Văn An là một thây giáo tiêu biểu thời Trần.

Chu Văn An sinh năm 1292 mất năm 1370 tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt.

Ông là một nhà giáo, một thầy thuốc và cũng là một đại quan nhà Trần, được phong tước Văn Trinh Công nên đời sau quen gọi Ông là Chu Văn An. Ông người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Đàm [nay là huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội].

Chu Văn An ngay từ hồi còn trẻ đã nổi tiếng là một người cương trực, sửa mình trong sạch, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách.

Sau khi thi đậu Thái học sinh, là người chính trực nên Ông không ra làm quan, chỉ ở nhà mở trường dạy học ở làng Huỳnh Cung, bên kia sông Tô Lịch. Ông có công lớn trong việc truyền bá, giáo dục tư tưởng đạo đức Khổng giáo vào Việt Nam.

Đến đời Vua Trần Minh Tông [1314-1329] Chu Văn An mới nhận chức Quốc tử giám tư nghiệp, dạy cho thái tử Trần Vượng học [thái tử là vua Trần Hiến Tông trong tương lai].

Ông đã cùng với Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trung Ngạn tham gia vào công việc củng cố triều đình lúc đó đang đi dần vào con đường khủng hoảng, suy thoái.

Với những điều kiện thuận lợi như vậy, trong lịch sử Việt Nam xuất hiện rất nhiều bậc danh y tài giỏi, tiếc rằng trải qua các biến cố thăng trầm nên nguồn tư liệu về thân thế, sự nghiệp cũng như các công trình y dược của họ còn lại không nhiều.

Chúng ta chỉ biết nhiều đến Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông và ít nhiều nghe nói đến Phạm Công Bân đời Trần, Hoàng Đôn Hòa, Nguyễn Công Triều, Đào Công Chính thời Lê Trung Hưng…

Thông tin về các vị danh y có ít, do vậy một nguồn dữ liệu cần chú ý đến để có thể bổ sung thêm tư liệu là một số bản Ngọc phả, thần tích có liên quan. Điều thú vị là ngoài trong số các bậc danh y, có cả những người là phái nữ.

Khó có thể biết ai là phụ nữ đầu tiên làm nghề thuốc ở nước ta nhưng tư liệu còn lại đến nay, tính theo niên đại thời gian thì có thể tạm đoán định nữ danh y đầu tiên đó là bà Lê Thị Liên, sống vào đầu thời Trần.

Bà quê ở làng Thanh Nộn, xã Thi Sơn, tổng Quyển Sơn [nay là thôn Thanh Nộn, xã Thanh Sơn, huyện Kim Bảng, Hà Nam], nghề thuốc mà Lê Thị Liên học được là từ cha bà, một lương y tên là Lê Hoằng, thân mẫu của bà họ Nguyễn [không rõ tên].

Trong quá trình chữa bệnh cứu người Lê Thị Liên đã tích lũy kinh nghiệm, nghiên cứu tìm tòi để chế ra nhiều phương thuốc hay, hiệu quả làm tiếng đồn về tài năng, y đức đồn khắp xa gần.

Hiện tại ở đình Cao, thôn Thanh Nộn, xã Thanh Sơn là nơi thờ nữ danh y Lê Thị Liên trong ngày lễ cúng vẫn lệ đọc bài phú cửa đình khái quát toàn bộ cuộc đời và công tích của bà. Bài phú đó có đoạn:

Nối nghiệp cha xưa, Có cây gậy trúc.

Có quả thạch bầu,

Với phương thuốc nhiệm màu, kiến hiệu. “Năm cứu thế gian”, Tiếng lương y đồn đại.

“Viễn cận mạc bất tri danh”…

Bấy giờ đất nước phải đối mặt với họa ngoại xâm lần thứ 2 của quân Nguyên Mông, cuộc kháng chiến chống giặc của quân và dân nhà Trần diễn ra vô cùng anh dũng nhưng cũng gặp vô vàn khó khăn trong đó có dịch bệnh phát sinh làm quân lính đau ốm, mỏi mệt, đặc biệt là trận quyết chiến ở sông Lục Đầu [gần Kiếp Bạc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày nay].

Triều đình rất lo lắng sợ bệnh tật sẽ làm giảm sức chiến đấu của binh tướng, nhiều lương y được vời đến nhưng tình hình không mấy khả quan.

Nghe danh tiếng Lê Thị Liên, vua Trần Nhân Tông liền cho người cấp tốc về làng Thanh Nộn triệu bà đến phong cho chức Quân trung điều hộ, lo việc bào chế thuốc chữa bệnh.

Nhờ có những phương thuốc của Lê Thị Liên mà sức khỏe của quân lính được phục hồi, góp phần quan trọng vào những trận đánh đưa đến thắng lợi cuối cùng:

Nhờ thuốc thần cứu chữa. Bình phục mọi bệnh binh, Quân mạnh, tướng hùng.

Vua tôi đoàn kết,

Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Lệnh phản công đã quyết, Ngọn sóng Bạch Đằng, Ô Mã Nhi thất bại,

Đại thắng quân Nguyên.

Sau khi đất nước quét sạch bóng ngoại xâm, Lê Thị Liên xin được về quê tiếp tục hành nghề chữa bệnh cứu người. Triều đình nhớ đến công tích của bà đã phong thưởng trọng hậu, vua Trần còn xuống chiếu sắc phong bà danh hiệu Hoàng Tràng công chúa.

Thế nhưng không màng đến giàu sang, địa vị và của cải, về lại quê hương tiếp tục làm thuốc cứu đời, những tiền bạc được ban thưởng Lê Thị Liên đều mang chia cho dân làng để họ có vốn là kế sinh nhai.

Sau khi bà mất, người dân tưởng nhớ ơn đức đã lập đền thờ hương khói quanh năm, bài phú cửa đình ở nơi thờ nữ danh y họ Lê cho hay:

Ngao ngán thay, ngày 12 tháng 8, Hổ gào, beo thét, công chúa quy tiên. Trông lên trời, mây vàng xuất hiện,

Giây phút rồi tan đi.

Nghe rừng sâu gió thổi vu vi, Như vẳng tiếng tiên thiều nhã nhạc. Từ ngày ấy! Dân ta thờ công chúa tại đình Cao, Nhớ mãi công lao người danh y đại đạo.

Để đời đời dân cầu, quốc đảo.

Đến khoảng thời gian cai trị của vua Trần Hiến Tông [1329-1341], tại làng Vô Hoạn, tổng Đồng Phù, thuộc phủ Thiên Trường [nay là thôn Vô Hoạn, xã Nam Mỹ, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định] có gia đình ông Trần Tông Môn và vợ người họ Đoàn ăn ở nhân đức, họ sinh được 2 người con trai thông minh trí dũng, dân trong vùng ai cũng khen ngợi.

Theo thần tích chép lại, vào một đêm, người vợ của ông Trần Tông Môn nằm mộng thấy một sứ giả mặc áo xanh đến đưa mình lên thiên đình, được Ngọc Hoàng thượng đế giáng chỉ sai đệ tam ngọc nữ giáng sinh vào nhà họ Trần để sau này cứu dân độ thế.

Bà Đoàn thị giật mình tỉnh dậy, thấy trong phòng dường như vẫn còn thoang thoảng mùi hương xạ, phía ngoài cửa sổ vằng vặc ánh trăng khuya.

Bà liền bước ra sân ngắm trăng, bỗng thấy một dấu hài bèn đưa chân ướm thử vào đó, chợt thấy tâm hồn xao xuyến, từ đó có thai, tròn một năm mới sinh hạ được một người con gái.

Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết, nhân nghĩ đến giấc mộng Ngọc nữ giáng trần, họ bèn đặt tên con là Ngọc Trân. Đời sau có câu rằng:

Cung trời ứng mộng, Điềm báo ướm hài. Bùa thiêng thuốc tốt,

Giúp nước cứu dân.

Thời gian thấm thoát thoi đưa, Ngọc Trân trở thành thiếu nữ nhan sắc xinh đẹp tuyệt trần, công dung ngôn hạnh đủ cả; nhiều gia đình đánh tiếng xin hỏi cưới nhưng nàng nhất quyết từ chối, không đi lấy chồng mà chỉ chú tâm học nghề dệt vải và làm thuốc chữa bệnh.

Với trí thông minh sẵn có, lại chăm chỉ đọc các sách y dược, học hỏi thêm các bậc lương y khắp vùng nên dần dần Trần Ngọc Trân trở thành một người tinh thông y lý, giỏi đoán bệnh, chế thuốc; với tài năng và hiểu biết đó, bà đã giúp người dân trong vùng chữa khỏi nhiều căn bệnh quái ác.

Đặc biệt, bà Ngọc Trân chế “Hồng ngọc sương hoàn” để trị bệnh dịch tả, chính nhờ công hiệu của loại thuốc này mà trong trận dịch năm Nhâm Dần [1362] nhiều người dân đã được cứu, năm đó vua Trần Dụ Tông đã ra lệnh cấp gạo, phát “Hồng Ngọc sương hoàn” cho dân ở hạt Tam Đới [nay thuộc Phú Thọ] và phủ Thiên Trường [nay thuộc Nam Định].

Ngoài “Hồng ngọc sương hoàn”, Trần Ngọc Trân còn chế loại thuốc trừ bệnh tả bằng cách tán nhỏ nhiều vị thuốc Nam rồi cuốn lại trong một mảnh giấy bản dài bằng ngón tay.

Loại thuốc này bà căn dặn người dân luôn đeo trong mình có thể tránh được bệnh tả truyền nhiễm, dần dần dân gian quen gọi nó là “bùa thuốc” vì giống như đeo bùa trừ tà ma.

Để có nơi khám chữa bệnh, bà Ngọc Trân cho dựng y quán ở phía Bắc đầu làng Vô Hoạn, đây cũng là nơi chế thuốc, bán thuốc.

Truyền rằng y quán dường như được phúc lành che trở, mỗi lần Ngọc Trân phơi thuốc, các buổi trưa hè thường có những cơn mưa bất chợt theo mùa, điều lạ kỳ là xung quanh thì mưa to nhưng nội vi trong khuôn viên của y quán thì vẫn nắng, trời khô ráo, không một giọt nước nào rơi vào.

Trở thành một lương y danh tiếng vang khắp nơi, người dân tứ xứ có bệnh gì đều tìm đến nhờ bà Ngọc Trân, đến y quán xin thuốc, mua thuốc, nhất là “bùa thuốc” rất đông và đều khỏi bệnh.

Ban đầu khu vực gần y quán do có nhiều người tìm đến chờ mua thuốc, khám bệnh đã xuất hiện vài ba hàng quán nước, bán trầu, bán quà bánh; dần dần các hàng quán ngày càng nhiều trở thành chợ, dân chúng quen gọi là chợ Bùa và nó còn tồn tại đến ngày nay.

Ngôi chợ này qua thời gian phát triển thành một chợ lớn, không chỉ là nơi mua bán trao đổi các loại thuốc mà còn có nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho người dân trong vùng, những ngôi nhà được dựng nhiều thêm, cư dân cũng trở lên đông đúc.

Để tiện quản lý và tổ chức theo mô hình làng xã có từ lâu đời, chính quyền phong kiến khi ấy đã hợp nhất khu dân cư quanh chợ Bùa với trại Đồng ở gần đó thành một làng mới mang tên là Đồng Bùa, gọi theo chữ Hán là Đồng Phù. 

Truyền thuyết kể rằng, khi đến hạn về trời, Trần Ngọc Trân ra một khoảng đất ở xứ Đồng Quang rồi hóa ở đó, người dân chỉ thấy chiếc nón cói úp xuống chứ không thấy hình hài bà đâu, họ bèn xây lăng tưởng niệm gọi là lăng Mẫu.

Ghi nhớ ơn đức dùng thuốc cứu người, nhân dân còn lập đền thờ tại y quán cũ, gần chợ Bùa và gọi là đền Đồng Phù, nơi bà hiển thánh; còn ở thôn Vô Hoạn, nơi sinh thánh cũng có đền thờ gọi là đền Vô Hoạn suy tôn bà làm Thánh Mẫu.

Thời Hậu Lê, triều đình sắc phong Trần Ngọc Trân làm thượng đẳng tối linh thần, ban cho duệ hiệu là “Ngọc Trân Đồng Quang, Gia Hạnh, Phương Dung, Điềm Tĩnh, Quế Hoa công chúa”, đến triều Tây Sơn lại gia phong thêm mỹ tự là “Đạt Đức, Phù Tộ, Thánh Thiện”.

Nhân dân từ bao đời đều tin rằng, Thánh Mẫu rất anh linh hiển ứng, cầu sao được vậy, phù hộ cho nhà nhà đều được yên ấm, mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt vì thế tại Đồng Phù đến nay vẫn giữ tục kiêng kị, không bao giờ úp mũ hoặc nón xuống bàn ghế hay bất cứ cái gì để thể hiện lòng tôn kính đức Thánh Mẫu.

Ở những nơi thờ tự nữ danh y Trần Ngọc Trân, các câu đối đều mang nội dung ca ngợi sự ra đời kỳ lạ cũng như tài y dược của bà, như câu đối sau:

Ngọc nữ giáng trần, thanh dạ tinh quang truyền dị tích,
Kim đan cứu thế, Tiên châu dục tú xuất thần minh.

Nghĩa là:

Ngọc nữ giáng trần, sao sáng trời khuya còn truyền dấu lạ,
Kim đan cứu thế, châu Tiên khí tốt sinh bậc thánh thần.

Hàng năm, lễ hội tưởng nhớ Thánh Mẫu Đồng Phù diễn ra từ ngày mồng 10 đến 15/3 âm lịch với nhiều nghi thức và tiết mục đặc sắc như lễ rước kiệu ra lăng Mẫu, tế lễ [tế Nữ quan, tế Nam quan], hầu bóng, hát văn, múa mồi, múa hoa, cờ người, cờ bỏi…

Đây là một hội lớn ở xứ Thành Nam xưa [Nam Định ngày nay], chỉ xếp sau hội Phủ Giày.

Page 2

Trong thời gian gần đây, có nhiều vụ việc xảy ra trong ngành Y khiến cho người dân hoang mang và phần nào bị mất lòng tin vào đội ngũ thầy thuốc của chúng...

Ông đã để lại một số tư liệu, bệnh án về kinh nghiệm trị bệnh. đặc biệt là kinh nghiệm trị các bệnh dịch mà sau này con cháu ông là Chu Doãn Văn, Chu...

Nhà “thầy lang mát tay” Ngô Văn Định ở thôn 2, Vĩnh Thành, Vĩnh Lộc [Thanh Hóa]. Định sinh ra vốn có thân hình dị dạng với cái đầu to quá khổ và tay chân...

GS. Phạm Biểu Tâm sinh ngày 13/12/1913 tại làng Nam Trung, Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế trong một gia đình Nho giáo và khoa bảng. Tổ tiên ông sinh sống tại Gia...

Trách nhiệm của người bác sĩ, nói cho đúng ra, không phải là một vấn đề mới mẻ, bắng cớ là từ trên bốn ngàn năm nay, tại Babylone, vua Hammourabi đã ban...

Hành trình giành lại đôi chân Bệnh nhân [BN] Trần Đức L. [ở Hải Phòng] chẳng may bị tai nạn xe hơi năm 8 tuổi. Tai nạn kinh hoàng đã làm cho hầu như toàn...

Làm việc đầu… nòng súng, dưới… mũi dao! "Tâm sự thật nhiều có lẽ chị đã hiểu phần nào công việc của một bác sĩ giải phẫu bệnh như tôi. Nhưng...

Lương y Trần Văn Quảng khi mới 6 tuổi đã học chữ Hán, 16 tuổi bắt đầu học nghề thuốc. Năm 19 tuổi phải bỏ quê đi ở, làm thuê, tự học chữ, học...

Tống Từ, tự Huệ Phủ, người đời Tống, tỉnh Kiến Dương [nay là Phúc Kiến]. Ông là nhà pháp y học trứ danh đời cổ xưa của Trung Quốc và cũng là của...

Đưa bệnh nhân Parkinson hòa nhập cuộc sống Năm 2012 đã ghi dấu ấn lớn trong lịch sử ngành y nước ta khi một nhóm bác sỹ BV NTP, đứng đầu là PGS.TS.BS...

Video liên quan

Chủ Đề