Tăng cường công tác quản lý của Nhà nước về bảo vệ môi trường từ Trung ương đến địa phương
Mục lục bài viết
Show 1. Khái niệm môi trườngMôi trường: Môi trường là một khái niệm rất rộng, bao hàm tất cả các yếu tố bao quanh con người và có ảnh hưởng nhất định đến sinh hoạt và đời sống của con người, môi trường là nơi cung cấp tài nguyên, là không gian sống của con người và các sinh vật, là nơi chứa đứng các chất thải sinh hoạt,…. Đối với con người, môi trường chứa đựng nội dung rộng lớn. “Theo định nghĩa UNESSCO (1981) thì môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình và những cái vô hình,.. trong đó con người sống bằng lao động của mình, họ khai thác các tài nguyên thên nhiên và nhân tạo để thỏa mãn những nhu cầu của mình.” Môi trường trong lĩnh vực khoa học pháp lí được hiểu như là mối liên hệ giữa con người với tự nhiên, trong đó môi trường được hiểu như là những yếu tố, hoàn cảnh và điều kiện tự nhiên bao quanh con người. Theo Điều 1 Luật bảo vệ môi trường đã định nghĩa : “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên’’ 2. Khái niệm bảo vệ môi trườngBảo vệ môi trường: Theo Điều 1 Luật bảo vệ môi trường “Bảo vệ môi trường được quy định trong Luật này là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên” Pháp luật: “là hệ thống những quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện năm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo đích, định hướng của nhà nước.” Do đó, pháp luật là khuôn mẫu, chuẩn mực để hướng dẫn cách cư xử cho mọi người trong xã hội, giúp cho mọi chủ thể trong xã hội đều có thể tìm được cách cư xử phù hợp với ý chí, mong muốn của nhà nước và giúp nhà nước quản lý xã hội, thiết lập và giữ gìn trật tư xã hội. Các lĩnh vực đời sống xã hội mà pháp luật điều chỉnh bao trùm rộng khăp, trong đó có môi trường. 3. Chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường hiện nayLuật bảo vệ môi trường năm 2014 đãhết hiệu lực vào ngày 31/12/2021, do đó Chính phủ đã ban hành Luật bảo vệ môi trường năm 2020 sửa đổi, bổ sung và thay thế Luật bảo vệ môi trường năm 2014 sẽ có hiệu lực từ ngày 01/01/2022, theo đó các chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề bảo vệ môi trường được quy định trong Luật bảo vệ môi trường năm 2020 như sau:
Như vậy, theo quy định của Luật bảo vệ môi trường 2020, chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề bảo vệ môi trường bao gồm các chính sách về việc thực hiện, kiểm tra, giám sát hoạt động bảo vệ môi trường của các tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân; chính sách xây dựng văn hóa bảo vệ môi trường, chú trọng tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi trường và các hình thức xử lý đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; chính sách chú trọng bảo vệ môi trường khu dân cư, xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường; chính sách về việc đan dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường; chính sách phát triển công nghệ xử lý ô nhiễm, tái chế, xử lý chất thải; chính sách hội nhập, hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và các chính sách về việc phát triển các dự án kinh tế – xã hội. 4. Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi trườngPháp luật bảo vệ môi trường có liên quan trực tiếp đến hoạt động quản lí nhà nước về môi trường và nhiều lĩnh vực pháp luật khác của Việt Nam. Hoạt động môi trường là hướng tới bảo vệ những lợi ích của nhà nước, lợi ích cộng đồng và xã hội. Pháp luật điều chỉnh những mối quan hệ xã hội,là công cụ cơ bản và quan trọng nhất để quản lí mọi mặt của đời sống xã hội, mọi hành vi, xử sự của con người đều phải tuân theo pháp luật, vấn đề bảo vệ môi trường cũng không ngoại lệ. Là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Luật bảo vệ môi trường là cơ sở pháp lí cho việc quy định cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường, là cơ sở pháp lí cho hoạt động thanh tra kiểm tra, giám sát, xử lí vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, và là cơ sở pháp lí cho công tác bảo vệ môi trường. Thứ nhất, Luật bảo vệ môi trường là một lĩnh vực trong hệ thống pháp luật Việt Nam, từ đó sẽ được phổ biến một cách rộng rãi. Bằng quyền lực của mình, Báo cáo chuyên đề Những nội dung cơ bản, các điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và tình hình xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành luật, yêu cầu các cá nhân tổ chức thực hiện theo đúng pháp luật. Khi cần thiết, nhà nước có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế để bảo vệ cho pháp luật được thi hành, trừng phạt đảm bảo cho pháp luật bảo vệ môi trường cũng như các lĩnh vực pháp luật khác được thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Thứ hai, pháp luật là cơ sở pháp lí cho việc quy định cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lí nhà nước đối với lĩnh vực bảo vệ môi trường. Điều 3 Luật bảo vệ môi trường 2014 quy định “Nhà nước thống nhất quản lý bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước, lập quy hoạch bảo vệ môi trường, xây dựng tiềm lực cho hoạt động bảo vệ môi trường ở Trung ương và địa phương”. Pháp luật bảo vệ môi trường đã quy định sự thống nhất các cơ quan nhà nước, xây dựng hệ thống các cơ quan quản lí đối với vấn đề bảo vệ môi trường trong phạm vi cả nước, từ trung ương tới địa phương. Tạo cơ sở pháp lí cho hoạt động bảo vệ môi trường. Thứ ba, pháp luật là cơ sở pháp lí cho hoạt động thanh tra kiểm tra, giám sát, xử lí vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. “Các cơ quan Nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm tổ chức điều tra, nghiên cứu, đánh giá hiện trạng môi trường, định kỳ báo cáo với Quốc hội về tình hình môi trường; xác định khu vực bị ô nhiễm môi trường và thông báo cho nhân dân biết; có kế hoạch phòng, chống suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường” (Điều 10 Luật bảo vệ môi trường 2014). Nhà nước khuyến khích các hoạt động sử dụng và khai thác hợp lí nguồn tài nguyên thiên nhiên, áp dụng công nghệ sinh học tiên tiến, thân thiện với môi trường,… Việc thanh tra giám sát được thực hiện thường xuyên, nhà nước định kì hàng năm hoặc kiểm tra đột xuất dựa vào các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành. Việc xử lí vi phạm được áp dụng cho mọi cá nhân tổ chức trong và ngoài nước có những hành vi vô ý hay cố tình vi phạm các quy định nhà nước trong lĩnh vực môi trường. Thứ tư, pháp luật là cơ sở pháp lí cho công tác bảo vệ môi trường. Theo những quy định của pháp luật, công tác bảo vệ môi trường được các cá nhân, tổ chức thực hiện một cách khoa học, có hiệu quả, có tác động to lớn đến công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Nhờ có pháp luật, nhà nước mới kịp thời phát hiện, kiểm tra, ngăn chặn các hành vi sai lệch, gây tổn hại đến môi trường. Đồng thời biểu dương, khen thưởng những tổ chức, cá nhân có đóng góp tích cực trong công tác bảo vệ môi trường. Dựa vào các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành các cơ quan nhà nước, mỗi tổ chức, cá nhân thực hiện theo đó để hoàn thành nhiệm vụ của mình. Có thể thấy, pháp luật có vai trò của pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường ở nước ta hiện nay. Đặc biệt trong hoàn cảnh này, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta tuy đã đạt được nhiều thành tựu song cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, đặt ra rất nhiều khó khăn trong việc bảo vệ môi trường – vấn đề sống còn của nhân loại. Chính vì vậy, vai trò của pháp luật trong công tác bảo vệ môi trường ngày càng được đề cao. 5. Trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Ủy ban nhân dân các cấpLuật bảo vệ môi trường năm 2020 sửa đổi quy định về hoạt động bảo vệ môi trường; chính sách, biện pháp và nguồn lực để bảo vệ môi trường; quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ môi trường. Tại Điều 143, Luật quy định về:Trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Ủy ban nhân dân các cấp,theo đó: |