Tại sao common app năm nay lại để secondary school
Chuẩn bị Hồ sơ, Học bổng, Tin tức, Tin tức nổi bậtNgay từ ban đầu mình đã xác định rõ gia đình
mình không có đủ điều kiện để sử dụng dịch vụ tư vấn ở các trung tâm nên mình đã tìm kiếm các cơ hội hỗ trợ nộp đơn miễn phí/ có học bổng toàn phần (mình sẽ nói rõ hơn ở mục I dưới đây). Thời điểm thế hệ của mình nộp đơn có phần thuận tiện hơn các anh chị đi trước vì rất nhiều tài nguyên có sẵn/ miễn phí để ta tận dụng nếu ta chịu tìm kiếm. Vì vậy, mình tin tưởng rằng nếu bạn đủ quyết tâm, đủ nỗ lực thì bất chấp rào cản tài chính vô cùng lớn, bạn cũng sẽ tìm ra cách để vượt qua.
Trong bài ghi chú này mình sẽ chủ yếu tập trung vào ĐH Mỹ. Đây là một bài viết dài nên mình sẽ ghi mục lục ở đây để mọi người tiện theo dõi.
Một lưu ý nhỏ: Ngoài những thông tin, số liệu mình sẽ trích dẫn nguồn ở cuối bài, phần còn lại đều là trải nghiệm, ý kiến cá nhân và những gì mình tích lũy được từ thầy cô/anh chị cố vấn của mình. Mình không đại diện cho một tổ chức hay cá nhân nào cả. Vì bài dài nên không thể tránh khỏi những sai sót, mình rất vui được đón nhận góp ý của mọi người. MỘT SỐ THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ ĐẠI HỌC MỸ
Các trường này thường có số lượng học sinh rất lớn, nhiều lớp học được diễn ra trong giảng đường có thể chứa hàng trăm sinh viên và một số lớp khác được giảng dạy bởi sinh viên cao học (thay vì giáo sư). Một vài trường đại học lớn sẽ gồm các trường nhỏ hơn, có thể là cơ sở đào tạo bậc cử nhân, các trường cao học và chuyên nghiệp. Ví dụ trong khuôn khổ Đại học Yale (Yale University) có thể kể đến Trường “Cử nhân” (Yale College), Trường Luật (Law School), Trường Âm Nhạc (School of Music), Trường Y Khoa (School of Medicine), …
Như vậy, “College” ở Mỹ có thể dùng để chỉ: (1) Cao đẳng cộng đồng, (2) Đại học khai phóng, (3) Cơ sở giáo dục bậc cử nhân trực thuộc một trường đại học lớn (Yale College của Yale University). Trong đó, (2) và (3) là các trường hệ 4 năm sẽ trao Bằng Cử nhân (bachelor’s degree), phổ biến nhất là Cử nhân Khoa học (B.S.) và Cử nhân Nghệ thuật (B.A.).
Mặc dù có nguồn gốc từ châu Âu, “giáo dục khai phóng” đã trở thành cốt lõi của hệ thống giáo dục đại học ở Mỹ. Đa số các cơ sở giáo dục bậc cử nhân hệ 4 năm hiện nay đều giảng dạy chương trình liberal arts. Trải qua thăng trầm thời gian, khái niệm liberal arts đã có nhiều sự thay đổi. Trong bối cảnh hiện đại, những sinh viên theo học Bằng cử nhân liberal arts, bên cạnh ngành học chính của mình, sẽ học một chương trình liên ngành (interdisciplinary), bao gồm nhiều môn học ở lĩnh vực nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và formal science (tạm dịch khoa học thuần túy). Theo đó, một sinh viên theo học một chuyên ngành cụ thể vẫn sẽ được cung cấp kiến thức nền ở các lĩnh vực khác. Mình luôn nghĩ về giáo dục khai phóng như một sứ mệnh giáo dục đích thực – học chỉ vì niềm vui được học, được theo đuổi tri thức. Nó tương phản với các chương trình mang nặng tính hướng nghiệp, đào tạo nghiệp vụ, vốn có thể được dành cho những trường cao học (graduate schools) hoặc trường chuyên nghiệp (professional schools).
Ngoài ra, một vài yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến quá trình này như: + Sắc tộc: Theo thống kê, học sinh gốc Á có tỉ lệ được nhận vào các trường top đầu thấp hơn các bạn đồng trang lứa. Rất nhiều học sinh châu Á nộp đơn vào các trường lớn, và một ưu thế của nhóm này là điểm số cao. Vì vậy, có thể nói sự cạnh tranh của học sinh châu Á để giành tấm vé vào các trường lớn rất khắc nghiệt. + Cộng đồng thiểu số (underrepresented minorities): Các học sinh gốc Phi (African American), gốc Latinh và Tây Ban Nha (Hispanic/Latinx), người Mỹ bản địa (Native American),… có tỷ lệ nhập học (và hoàn thành) đại học thấp hơn so với các bạn da trắng. Vì vậy, các trường đang cố gắng trao nhiều cơ hội hơn cho các bạn thuộc các nhóm trên. + Gia cảnh: Nếu ba mẹ bạn là cựu học sinh của trường thì hồ sơ của bạn sẽ có một điểm cộng gọi là legacy (tạm dịch: di sản). + Thế hệ đầu tiên trong gia đình học đại học (first-generation college student): Bạn sẽ thuộc nhóm này nếu cả ba và mẹ của bạn đều chưa nhận bằng đại học. Các bạn được ưu tiên nhất định vì sự thiếu vắng những tư vấn cần thiết từ ba mẹ – những người thân cận nhất khiến các bạn gặp nhiều bất lợi trong quá trình nộp đơn cũng như chặng đường 4 năm ở đại học. + Năng khiếu thể thao: Đối với các trường có phong trào thể thao mạnh mẽ, họ sẽ có suất dành cho những bạn tham gia thi đấu chuyên nghiệp (recruited athletes).
Bạn hãy tìm hiểu thêm về ưu/nhược điểm của từng hệ thống trước khi quyết định sẽ sử dụng hệ thống nào. Common App chỉ cho bạn nộp tối đa 20 trường, nên nếu bạn có ý định nộp hơn số lượng đó, bạn có thể tạo một hồ sơ tương tự bên Coalition App (và ngược lại). Tuy nhiên, mình không nghĩ nộp quá nhiều trường là một ý kiến hay.
+ Kỳ tuyển sinh ưu tiên (Early Decision – ED): Là đợt nộp đơn sớm nhất, với hạn chót thường rơi vào khoảng đầu-giữa tháng 11 và kết quả sẽ có vào khoảng giữa tháng 12. Điểm đặc biệt của ED là bạn chỉ được nộp hồ sơ vào một trường duy nhất trong đợt ED, và bạn sẽ phải ký một thỏa thuận ràng buộc (Binding Agreement): nếu bạn được trường chấp nhận với hỗ trợ tài chính phù hợp, bạn bắt buộc phải đăng ký nhập học và rút (withdraw) tất cả hồ sơ bạn đã nộp vào các trường khác. Tuy nhiên, bạn không cần phải tuân theo ràng buộc này cho tới khi nhận được kết quả hỗ trợ tài chính, và nếu bạn không hài lòng với gói hỗ trợ của mình, bạn có thể kiến nghị (petition) để trường hủy bỏ (release) bản ràng buộc bạn đã ký trước đó, cho phép bạn giữ lại hồ sơ ở các trường khác và đợi có kết quả của tất cả các trường bạn nộp trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Hạn chót để chấp nhận nhập học nếu bạn đậu đợt ED thường rơi vào khoảng đầu – giữa tháng 1. Thông thường các bạn sẽ dành ED cho ngôi trường trong mơ của mình; Binding Agreement vì vậy là một thông điệp bạn gửi đến trường rằng trường là nguyện vọng/ ưu tiên số 1 của bạn, và bạn gần như chắc chắn sẽ nhập học nếu được nhận. Hầu như tất cả các trường đều có đợt ED. Khi bạn nộp đơn ED sẽ có 3 trường hợp xảy ra. (1) Được nhận (Accepted), (2) Từ chối (Rejected), (3) Hồ sơ của bạn được dời xuống đợt nộp đơn thường để xem xét lại một lần nữa cùng các ứng viên khác nộp đơn đợt đó (Deferred). Khi (3) xảy ra, thay vì hoảng hốt, bạn hãy xem nó như là một cơ hội thứ hai: lúc này bạn có thể tạo thêm niềm tin cho trường bằng cách gửi một “Lá thư nguyện vọng theo học” (Letter of continued interest), thể hiện trường vẫn luôn là ưu tiên số một của bạn, trong đó đề cập đến những phát triển mới nhất của bạn trong thời gian vừa qua. Một số trường còn có đợt nộp đơn ED II, với bản chất và ràng buộc hoàn toàn giống ED I, duy chỉ có hạn chót được kéo dài đến khoảng đầu tháng 1, và kết quả được trả vào khoảng giữa tháng 2. + Kỳ tuyển sinh sớm (Early Action – EA): Khung thời gian của EA tương tự như ED, chỉ với một khác biệt là EA không ràng buộc. Bạn có thể nộp nhiều trường EA cùng một lúc. Thời gian trả kết quả sẽ muộn hơn ED và hạn chót xác nhận nhập học thường trùng với hạn chót của đợt nộp đơn thường (Regular Decision). Số lượng các trường có đợt nộp đơn EA không nhiều. + Kỳ tuyển sinh thường (Regular Decision – RD): Đa phần các thí sinh sẽ nộp đơn vào đợt này. Hạn chót của RD là đầu-giữa tháng 1, và kết quả thường được trả vào cuối tháng 3. RD không ràng buộc và bạn có thể nộp nhiều trường RD cùng một lúc. Hạn chót xác nhận nhập học toàn quốc là đầu tháng 5, khi đó bạn phải đưa ra quyết định sẽ nhập học trường nào sau khi suy xét tất cả các trường bạn được nhận. Khi bạn nộp RD sẽ có 3 trường hợp xảy ra: (1) Được nhận (accepted), (2) Từ chối (rejected) và (3) Nằm trong danh sách chờ (waitlisted). Các trường luôn có một danh sách chờ để đề phòng trường hợp số lượng thí sinh xác nhận nhập học (trong tổng số thí sinh được nhận) thấp hơn so với dự đoán ban đầu thì trường sẽ bắt đầu xét đến các bạn trong danh sách chờ. Và tương tự trường hợp “deferred,” bạn có thể chủ động liên lạc với trường để cung cấp những thông tin bổ sung có lợi cho hồ sơ của bạn. (*) Một ưu điểm của các đợt nộp đơn sớm (ED và EA) là nếu bạn được chấp nhận, bạn sẽ giảm được rất nhiều căng thẳng/ áp lực trong thời gian còn lại của cấp 3.
+ Phỏng vấn mang tính thuần thông tin (Informational interview): thường được thực hiện bởi các cựu học sinh trường (alumni). Đây là cơ hội để bạn tìm hiểu thêm về trường cũng như được giải đáp những thắc mắc. Thông thường, informational interview sẽ không ảnh hưởng đến khả năng được nhận của bạn. + Phỏng vấn đánh giá (Evaluative interview): Có thể được thực hiện bởi cựu học sinh hay chính thành viên ban tuyển sinh. Người phỏng vấn sẽ nộp một bản báo cáo (report) về buổi phỏng vấn và những nhận xét cá nhân của họ dành cho ứng viên. Bản báo cáo này sẽ được xem xét là một thành phần trong bộ hồ sơ, và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng được nhận của bạn. (*) Đối với học sinh quốc tế, nhiều trường cố gắng phỏng vấn tất cả những ai nộp đơn (như Stanford University) nhưng cũng có vài trường sẽ chọn lọc nhất định (pre-screening). NHỮNG THÀNH PHẦN CHÍNH TRONG MỘT BỘ HỒ SƠ COMMON APP Ở trên mình có nhắc đến việc bạn cần tạo một hồ sơ trên hệ thống nộp đơn. Năm ngoái mình nộp đơn sử dụng hệ thống Common App, vậy nên bây giờ mình sẽ đi vào chi tiết một bộ hồ sơ như thế bao gồm những gì.
(*) Hệ thống nộp đơn sẽ bắt đầu mở vào khoảng đầu tháng 8 hàng năm. Bạn có thể tạo một tài khoản để “điền nháp,” giúp định hình trước một bộ hồ sơ thật sự sẽ như thế nào. Tuy nhiên, bạn cần lưu ý rằng sau mỗi năm thông tin bạn đã điền trước đó sẽ bị xóa đi toàn bộ. HỒ SƠ XIN HỖ TRỢ TÀI CHÍNH VÀ HỌC BỔNG
(*) Tiền đóng cho nhà trường:
(*) Các khoản phí phát sinh: – Sách và dụng cụ học tập: $1,434 (sách giáo khoa ở Mỹ rất mắc) – Sinh hoạt phí cá nhân: $1,976 – Chi phí đi lại: $2,200 => Tổng cộng: $87,237/năm
Tuy nhiên, khi nộp đơn vào đại học Mỹ, hồ sơ của các bạn được gắn nhãn “học sinh quốc tế.” Sở dĩ mình nhắc điều này, vì rất ít trường cho học sinh quốc tế đủ số tiền các bạn ấy cần (meet full need). Ví dụ nếu family contribution của bạn nằm ở mức $10,000/năm, số tiền còn thiếu là $70,000/năm; với ngân sách hạn hẹp, trường có thể chỉ cho bạn $30,000/năm. Điều này dẫn đến rất nhiều trường hợp bạn được nhận nhưng lại không đủ tiền để theo học. Ở dưới mình sẽ nói rõ hơn về danh sách các trường “meet full need” cho học sinh quốc tế. Một bất lợi nữa của học sinh quốc tế so với học sinh bản địa là chính sách “need-aware.” Mình không tìm được thuật ngữ tiếng Việt thích hợp để dịch định nghĩa này nên mình sẽ giải thích cụ thể. Các trường need-aware là các trường quan tâm đến khả năng chi trả của gia đình bạn khi đọc hồ sơ của bạn. Nói cách khác, số tiền gia đình bạn có thể đóng góp cho trường một năm quyết định trực tiếp bạn có được nhận hay không. Có nhiều trường quy định (ngầm) là nếu bạn không đóng đủ một mức nào đó (minimum contribution), họ sẽ thẳng tay loại ngay hồ sơ của bạn mà không cần đọc. Để tránh trường hợp công dã tràng, trước khi quyết định nộp đơn cho một trường nào đó, bạn nên chủ động liên lạc trình bày thắc mắc, họ có thể sẽ nói cho bạn biết mức đóng góp tối thiểu của trường họ là bao nhiêu, hoặc một cách nữa là hỏi xin ý kiến từ các anh chị người Việt đang học tại trường đó. Tuy nhiên Mỹ cũng có các trường “need-blind.” Các trường này, ngược lại, sẽ không tính khả năng chi trả của gia đình bạn là một yếu tố trong quá trình đánh giá hồ sơ. Tức là, bất kể bạn đóng được rất ít hay không đóng được gì cả, nếu bạn phù hợp với tiêu chí của trường, họ sẽ nhận bạn và cho bạn đủ số tiền bạn cần. Các trường “need-blind” cho học sinh quốc tế cực kỳ hiếm, theo mình biết chỉ có 5 trường là MIT, Princeton, Yale, Harvard và Amherst. (*) Như vậy, nếu bạn được hỗ trợ toàn phần học phí thì vẫn còn rất nhiều chi phí khác như bảo hiểm, tiền máy bay, tiền tiêu vặt mà nếu dồn vào thì là một số tiền khổng lồ (gần $10,000/năm). Vì vậy, khi điền hồ sơ tài chính, bạn phải dự trù cả số tiền này. Mình xác định gia đình mình sẽ không bao giờ chi trả nổi cả những khoản “nhỏ nhặt” đó nên mình đã quyết định nộp đơn vào các trường có ngân sách hào phóng, có thể cho mình đủ tiền để đi học. Và kết quả là cả 3 trường nhận mình (2 trường need-blind và 1 trường need-aware) đều hỗ trợ tài chính cho mình đúng nghĩa toàn phần chi phí (cả vé máy bay, phí xin visa, bảo hiểm, …). Gia đình mình không phải chi trả gì cả.
Vì những lợi ích như thế nên các học bổng cho học sinh quốc tế thường rất hiếm và danh giá. Ngoài hồ sơ ban đầu bạn nộp cho trường, bạn còn phải hoàn thành một hồ sơ học bổng riêng biệt khác. Thông thường bạn sẽ nộp hai hồ sơ này cùng một lúc với nhau; sau khi đọc hồ sơ của bạn, hội đồng học bổng của trường sẽ lọc ra một vài bạn đủ tiêu chuẩn để liên hệ phỏng vấn (shortlisted). Mình từng nhận được một học bổng toàn phần như thế của Đại học Duke, gọi là Karsh International Scholarship (Học bổng Karsh cho Học sinh Quốc tế). Điểm khác biệt của Karsh là trường sẽ lọc hồ sơ trước để chọn ra những ứng viên vào “vòng chung cuộc” (finalist). Lúc này chỉ các bạn finalist mới được yêu cầu nộp hồ sơ học bổng, kèm theo phỏng vấn ngay sau đó. Mình nhớ rằng mình được cho 6 ngày để hoàn tất 3 bài luận phỏng vấn, trả lời một vài câu hỏi phụ, nộp CV cũng như chuẩn bị phỏng vấn. Mình được phỏng vấn bởi một hội đồng các giáo sư và cô trưởng ban học bổng. Số lượng các bạn nhận được học bổng hàng năm không giống nhau, có thể tùy theo chất lượng các ứng viên và chỉ tiêu của trường. Theo như mình biết thì năm nay Duke có 5 Karsh scholars, trong khi năm trước là 9. Tùy từng học bổng sẽ có những tiêu chí riêng cụ thể. Ví dụ có học bổng xem trọng kỹ năng lãnh đạo, cũng có học bổng đánh giá cao những đóng góp cho xã hội và cộng đồng. Bạn nên đọc kỹ các yêu cầu trước khi nộp đơn.
(*) Bạn cần lưu ý rằng một số trường có hạn chót cho hồ sơ tài chính sớm/trễ hơn hạn chót nộp hồ sơ ứng tuyển.
MỘT SỐ NGUỒN TÀI LIỆU ÔN THI SAT: Cuối năm lớp 11 mình quyết định tự ôn thi SAT. Kinh nghiệm của mình với SAT trước đó bằng không nên mình đã học từ những kiến thức cơ bản nhất để nắm vững nền. Sau đây là những tài liệu mình sử dụng, bạn đều có thể tìm thấy bản pdf trên mạng.
(*) Bài luận cá nhân phục vụ 2 mục đích chính: giúp ban tuyển sinh hiểu rõ hơn về con người bạn và đánh giá khả năng viết của bạn.
(*) Mình thường tận dụng những giờ giải lao trên trường để tìm ý tưởng cho bài luận. Mình lưu chúng bằng Google Keep để đến tối về mình chỉ cần bắt tay vào viết, tiết kiệm thời gian suy nghĩ.
+ Ý tưởng, cách tổ chức/triển khai, giọng văn + Cách sử dụng từ ngữ (từ vựng), độ trôi chảy/kết nối giữa các câu văn và sự phù hợp/chuẩn mực của bài viết (conventions).
CỤ THỂ HÓA CÔNG VIỆC VÀ LÀM CHỦ QUÁ TRÌNH Dưới đây là những bước mình được các thầy cô/anh chị trong chương trình College Compass (mình sẽ nói rõ hơn ở mục G) hướng dẫn để quá trình nộp đơn được quản lý một cách khoa học. (*) Tiên quyết nhất là bạn hãy tạo một tài khoản gmail mới và một thư mục google drive dùng riêng cho việc nộp đơn. Một thư mục lớn chứa những thư mục con. (*) Sau đây mình sẽ đi vào những công việc chi tiết:
Một vài yếu tố tham khảo.
Bạn có thể dùng màu đỏ để đánh dấu những việc chưa bắt đầu, màu vàng cho những việc đang tiến hành và màu xanh cho những việc đã hoàn thành. Đợt nộp và hạn chót từng trường.
Điền nguyên văn đề luận của từng trường.
Tương tự, bạn có thể dùng ba màu đỏ, xanh, vàng để đánh dấu tiến độ.
Một trang planner theo phong cách “tối giản” của mình, vì mình vẽ rất tệ ^^
MỘT VÀI LƯU Ý CHO NHỮNG BẠN KHÔNG CÓ ĐIỀU KIỆN VỀ TÀI CHÍNH Quá trình nộp đơn đại học Mỹ tốn kém ở nhiều mặt. Rất nhiều chi phí phát sinh như lệ phí nộp đơn (application fee) khoảng $80/trường, phí gửi điểm SAT ($11.25/trường), phí gửi điểm IELTS (~$4/trường), phí gửi hồ sơ CSS ($16/trường). Nếu bạn nộp đơn tổng cộng 20 trường, số tiền nhân lên để hoàn tất các thủ tục là một gánh nặng vô cùng lớn đối với gia đình mình. Vì vậy, mình đã hỏi thăm kinh nghiệm từ các anh chị đi trước và cố gắng linh hoạt để giảm chi phí tới mức thấp nhất có thể. Đợt nộp đơn vừa rồi ngoài lệ phí thi SAT/IELTS và phí gửi điểm SAT cho trường mình xác nhận nhập học thì mình không phải trả thêm bất kỳ chi phí nào cả. Sau đây là những gì mình đã làm:
(*) Bạn cần lưu ý rằng việc giao tiếp với các trường về những vấn đề này rất tốn thời gian. Bạn có thể xem nó như là một sự đánh đổi. Vì vậy, để giảm bớt áp lực giấy tờ trong khi bạn đang viết luận, bạn cần chốt sớm danh sách trường của mình, soạn sẵn các mẫu thư, và copy/paste gửi đến tất cả các trường. NHỮNG BÀI HỌC TỪ QUÁ TRÌNH NỘP ĐƠN
CÁC NGUỒN TÌM HIỂU THÔNG TIN VÀ HỖ TRỢ NỘP ĐƠN MIỄN PHÍ Như mình đã nói ở trên, thế giới phẳng ngày nay mở ra cho bạn rất nhiều con đường với vô vàn tài nguyên miễn phí, chỉ cần bạn có đủ ý chí để tìm tòi và khai phá. Dưới đây là một số địa chỉ bạn có thể tham khảo:
Đơn đăng ký thường được mở vào cuối năm học.
Lời sau cuối gửi đến những ai đang và sẽ lựa chọn con đường du học Mỹ, mọi chuyện rồi cũng sẽ ổn thôi. Kết quả đại học chưa và sẽ không bao giờ định nghĩa được con người bạn, hay chứng minh được tâm hồn của bạn đẹp đẽ nhường nào. Việc quan trọng duy nhất không phải ngôi trường bạn theo học, mà là những gì bạn sẽ làm và đóng góp cho xã hội với những kiến thức có được. Rất nhiều người mình biết đang làm nên những điều phi thường mặc dù họ không đi du học. Ở đâu đó, vẫn luôn có những con đường khác, chỉ cần bạn đừng bỏ cuộc. Bản thân mình không có khả năng chuyên môn về tuyển sinh Mỹ. Tuy nhiên, nếu các bạn gặp phải khó khăn trong quá trình nộp đơn, các bạn có thể liên lạc với mình. Mình sẽ cố gắng giúp đỡ trong khả năng của mình. Nguồn: Lê Mỹ Hiền (Harvard) |