Sự cố bất khả kháng là gì chỉ định thầu
DỊCH COVID-19 CÓ PHẢI LÀ SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG ĐỂ DOANH NGHIỆP ĐƯỢC MIỄN THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THEO HỢP ĐỒNG? Dịch Covid-19 có được xem là sự kiện bất khả kháng đối với các bên trong hợp đồng? Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Tuy nhiên, BLDS 2015 không liệt kê cụ thể các sự kiện bất khả kháng, mà vấn đề này thường được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành. Chẳng hạn, trong lĩnh vực xây dựng, sự kiện bất khả kháng được quy định gồm: Thiên tai, sự cố môi trường, địch họa, hỏa hoạn và các yếu tố bất khả kháng khác. Trong hoạt động tư vấn, thi công xây dựng, bất khả kháng còn bao gồm các sự kiện như gặp hang caster, cổ vật, khảo cổ, túi bùn mà khi ký hợp đồng các bên chưa lường hết được trong quá trình tư vấn, thi công xây dựng. (Điều 51 Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính phủ; Điều 16 Thông tư 08/2016/TT-BXD ngày 10/3/2016; Điều 10 Thông tư 09/2016/TT-BXD ngày 10/3/2016 của Bộ Xây dựng). Ngoài ra, các sự kiện bất khả kháng còn được các bên định nghĩa và liệt kê tại hợp đồng. Tùy tính chất từng loại hợp đồng mà phạm vi sự kiện bất khả kháng có thể được liệt kê rộng, hẹp khác nhau. Trong điều khoản về bất khả kháng tại hầu hết các hợp đồng hiện nay, cụm từ “dịch bệnh” thường được liệt kê là một trong các sự kiện bất khả kháng. Vậy loại dịch bệnh như thế nào và đến mức độ nào thì mới được coi là sự kiện bất khả kháng? Tình trạng dịch Covid-19 hiện nay đã được coi là sự kiện bất khả kháng hay chưa? Đối chiếu quy định tại khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 thì dịch Covid-19 đã có đủ 3 yếu tố để được xem xét là một sự kiện bất khả kháng: (i) Xảy ra một cách khách quan; (ii) các bên không thể lường trước được; và (iii) không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Tuy nhiên, trong quan hệ hợp đồng, việc xác định yếu tố dịch bệnh có phải là sự kiện bất khả kháng hay không để xem xét miễn trừ trách nhiệm pháp lý của các bên chưa bao giờ là dễ dàng và thường dẫn đến những tranh chấp. Đây là một vấn đề của tư pháp và quyền phán quyết cuối cùng thuộc về các thẩm phán. Kinh nghiệm cho thấy, các thẩm phán luôn đề cao nguyên tắc cẩn trọng khi xem xét vấn đề này. Theo từ điển Wikipedia, “dịch bệnh là sự lây lan nhanh chóng của một bệnh truyền nhiễm với số lượng lớn những người bị nhiễm trong một cồng đồng hoặc một khu vực trong vòng một thời gian ngắn”. Căn cứ định nghĩa trên, để khẳng định bệnh Covid-19 có phải là một dịch bệnh hay không, cần phải xem xét đến các khía cạnh sau:
Việc xem xét các yếu tố trên đây có ý nghĩa pháp lý vô cùng quan trọng. Chẳng hạn: cùng là một bệnh nhưng ở địa phương/quốc gia này coi là dịch nhưng ở địa phương/quốc gia khác lại không coi là dịch, thì vấn đề xác định bệnh dịch đó là sự kiện bất khả kháng trong quan hệ hợp đồng sẽ như thế nào? Hoặc một bệnh đã lây lan trên thực tế nhưng chưa có tuyên bố của nhà chức trách về một dịch bệnh thì có thể coi đó là một sự kiện bất khả kháng hay không? Đối với dịch Covid-19, khi xem xét kỹ hơn các yếu tố pháp lý trên đây, có thể nhận thấy:
Như vậy, với các sự kiện pháp lý nêu trên, chúng ta hoàn toàn có đủ căn cứ để khẳng định rằng dịch Covid-19 là một sự kiện bất khả kháng đối với các bên trong quan hệ hợp đồng. Mặc dù vậy, để một sự kiện bất khả kháng là căn cứ xem xét miễn trừ trách nhiệm hợp đồng khi thỏa mãn các điều kiện: Thứ nhất, sự kiện đó gây ảnh hưởng hoặc cản trở trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng của các bên, khiến cho một hoặc các bên vi phạm hợp đồng hoặc không thể thực hiện được hợp đồng; Thứ hai, các bên đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép nhưng không thể khắc phục được tác động của sự kiện bất khả kháng đó. Về điều kiện thứ nhất, các doanh nghiệp có thể chứng minh được dịch Covid-19 là sự kiện gây ảnh hưởng hoặc cản trở trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, khiến doanh nghiệp vi phạm hoặc không thể thực hiện hợp đồng đã ký với đối tác. Những ảnh hưởng này có thể là trực tiếp (doanh nghiệp phải dừng hoạt động theo Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ) hoặc gián tiếp (do các doanh nghiệp cung cấp đầu vào phải dừng hoạt động nên doanh nghiệp không có nguyên liệu để sản xuất, hoặc do các đơn vị vận tải không hoạt động được nên doanh nghiệp không thể thực hiện việc giao hàng đúng hạn…). Về điều kiện thứ hai, để chứng minh điều kiện này, doanh nghiệp có thể viện dẫn lý do buộc phải tạm dừng các hoạt động và thực hiện cách ly xã hội theo Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 27/3/2020 và số 16/CT-TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, đối với các hợp đồng xuất nhập khẩu, doanh nghiệp xuất nhập khẩu còn có thể viện dẫn lý do phải thực hiện các lệnh cấm hoặc các biện pháp phòng chống dịch được ban bố bởi các nước liên quan. Về thời điểm bắt đầu và kết thúc của sự kiện bất khả kháng, hiện có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời điểm bắt đầu và kết thúc sự kiện bất khả kháng là kể từ ngày Chính phủ công bố bắt đầu xảy ra dịch Covid-19 (ngày 23/01/2020) cho đến ngày được Chính phủ công bố là hết dịch bệnh. Quan điểm thứ hai cho rằng thời điểm bắt đầu và kết thúc sự kiện bất khả kháng là từ khi Chính phủ ban hành các biện pháp cấm, hạn chế các hoạt động tụ họp đông người (Chỉ thị 15/CT-TTg) hoặc thực hiện cách ly xã hội (Chỉ thị 16/CT-TTg) cho đến khi các biện pháp này được dỡ bỏ. Từ góc độ nghiên cứu, chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất. Tuy nhiên, đây sẽ là những vấn đề pháp lý hết sức phức tạp, cần phải được xem xét kỹ lưỡng dựa trên từng trường hợp cụ thể. Doanh nghiệp có được miễn thực hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng do ảnh hưởng của dịch Covid-19? Nhóm điều khoản về bất khả kháng trong hợp đồng chưa bao giờ có ý nghĩa lớn như thời điểm này. Nhiều doanh nghiệp thậm chí cảm thấy hoang mang khi lật lại điều khoản về bất khả kháng “quá sơ sài” trong các hợp đồng đã ký. Chúng tôi gặp không ít trường hợp “trớ trêu” về giải thích điều khoản bất khả kháng trong thời gian qua, chẳng hạn như: - Bên thuê sàn thương mại yêu cầu miễn hoàn toàn tiền thuê trong giai đoạn dịch bệnh vì gặp phải sự kiện bất khả kháng thì Bên cho thuê có đương nhiên phải chấp thuận đề nghị đó không?; hay Để giúp cho các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong hợp đồng khi gặp phải sự kiện bất khả kháng, tác giả xin trích dẫn các quy định pháp luật có liên quan như dưới đây: Tại khoản 2 Điều 351 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Theo quy định tại khoản 1 Điều 351 BLDS 2015, trách nhiệm dân sự được hiểu là trách nhiệm phát sinh do bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ đối với bên có quyền. Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của nghĩa vụ. Trong quan hệ hợp đồng, nghĩa vụ hợp đồng và trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là hai phạm trù pháp lý khác nhau. Nghĩa vụ hợp đồng là nghĩa vụ của các bên phát sinh từ các thỏa thuận trong hợp đồng. Về nguyên tắc, nghĩa vụ hợp đồng không được miễn trừ, trừ trường hợp bên có quyền từ bỏ hoặc chủ động miễn, giảm một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ đó. Còn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên (bên vi phạm) đối với bên còn lại (bên bị vi phạm). Trách nhiệm dân sự chỉ phát sinh khi có hành vi vi phạm hợp đồng, bao gồm phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật và thỏa thuận của các bên. Trách nhiệm dân sự có thể được miễn trong một số trường hợp, như gặp phải sự kiện bất khả kháng. Như vậy, trường hợp doanh nghiệp vi phạm hợp đồng do bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, thì doanh nghiệp không phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng với bên bị vi phạm (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác), nhưng doanh nghiệp sẽ không được miễn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng với bên còn lại, trừ trường hợp bên có quyền chủ động miễn, giảm một phần hoặc toàn bộ các nghĩa vụ đó. Dưới đây chúng tôi xin phân tích một số trường hợp cụ thể:
Ngoài ra, mặc dù BLDS 2015 không có quy định về trách nhiệm bắt buộc phải chia sẻ thiệt hại do gặp phải sự kiện bất khả kháng, nhưng bên bị thiệt hại hoàn toàn có quyền đề nghị bên kia xem xét miễn/giảm các nghĩa vụ tài chính liên quan để chia sẻ thiệt hại với mình, vì bản chất của bất khả kháng là sự kiện khách quan ngoài khả năng tiên liệu của cả hai bên, chứ không phải do lỗi của bên không thực hiện đúng nghĩa vụ đó. Doanh nghiệp phải làm gì khi không thể thực hiện được hợp đồng? Việc phát sinh dịch Covid-19 là một tình huống pháp lý đặc biệt chưa có tiền lệ, các doanh nghiệp chưa có sự chuẩn bị để ứng phó. Cho nên sẽ không ngạc nhiên khi nhiều doanh nghiệp cảm thấy lúng túng trong hành xử khi không thể thực hiện được nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng do hưởng của Covid-19. Theo tư vấn của chúng tôi, nếu trong hợp đồng không quy định rõ về nghĩa vụ và hành xử của mỗi bên khi gặp phải sự kiện bất khả kháng, thì việc trước tiên là bên vị phạm hợp đồng cần gửi thông báo cho bên còn lại về sự kiện bất khả kháng do dịch Covid-19. Trong thông báo cần ghi rõ: Thời điểm bắt đầu xác định dịch Covid-19 là sự kiện bất khả kháng; Ảnh hưởng của dịch Covid-19 đối với việc thực hiện hợp đồng của bên vi phạm; Các biện pháp mà bên đó đã hoặc sẽ thực hiện để hạn chế ảnh hưởng của dịch Covid-19; Dự liệu các thiệt hại có thể phát sinh do ảnh hưởng của Covid-19 và đề nghị bên còn lại xem xét, đàm phán và thống nhất về các biện pháp xử lý tài chính, nghĩa vụ tồn đọng của bên đó trước sự kiện bất khả kháng. Các biên bản thỏa thuận/làm việc này cần được lập thành văn bản/ phụ lục của Hợp đồng. Trường hợp tiên lượng dịch Covid-19 có thể tiếp tục kéo dài thì bên có nguy cơ chịu thiệt hại cần chủ động gửi các văn bản, thông báo tiếp về việc hoãn, tạm dừng hoặc chấm dứt hợp đồng như một biện pháp để giảm thiểu thiệt hại do sự kiện bất khả kháng. Chúng tôi cho rằng theo nguyên tắc thiện chí trong xác lập và thực hiện giao dịch dân sự, bên chịu ít ảnh hưởng hơn từ sự kiện bất khả kháng có nghĩa vụ phải xem xét các đề nghị của bên còn lại để thỏa thuận các biện pháp khắc phục ảnh hưởng của sự kiện bất khả kháng. Chúng tôi cũng khuyến nghị các doanh nghiệp cần lưu ý theo dõi diễn biến Covid-19 để kịp thời có các biện pháp cần thiết nhằm giảm thiểu thiệt hại từ bất khả kháng. Việc giữ im lặng, không có các văn bản thông báo và xác lập các thỏa thuận nêu trên có thể gây bất lợi cho doanh nghiệp trong trường hợp có tranh chấp./. |