Số sánh bản dịch thơ và dịch nghĩa bài Độc Tiểu Thanh kí

Bài thơ "Độc Tiểu Thanh Ký" không xếp vào phần thơ đi sứ mà giữ trong tập "Thanh Hiên", ở phần "Làm quan ở Bắc Hà 1802-1804". Bản dịch [cả dịch nghĩa và dịch thơ] được chọn dạy cho học sinh trung học, in trong sách giáo khoa lớp X, tập I, là của Vũ Tam Tập, rút từ "Thơ chữ Hán Nguyễn Du" [NXB Văn học, 1965].

Nguyễn Du để lại ba tập thơ chữ Hán: "Thanh Hiên tiền hậu tập", "Nam Trung tạp ngâm" và "Bắc hành tạp lục". Theo gia phả biết được tên ba tập sách. Nhưng các bài cụ thể cho đến giữa thế kỷ XX vẫn tản mát và chép lẫn lộn hoặc gộp chung vào một cuốn. Ở nhà cụ Nguyễn Mai, cháu xa Nguyễn Du, có được mấy chục bài. Vua Tự Đức cũng từng sai thu thập. Ông Đào Duy Anh từ trước năm 1945 có lẽ là người tìm được nhiều nhất [131 bài] mà theo nội dung thì là các bài từ cả ba tập thơ trên. Tập "Thơ chữ Hán Nguyễn Du" [NXB Văn học, 1959] do các cụ Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh dựa vào cuốn "Thanh Hiên thi tập" lưu ở Vụ Bảo tồn bảo tàng, chọn dịch 102 bài trong số 126 bài [74 bài của Thanh Hiên, 6 bài của "Nam trung", 46 bài của "Bắc hành"]. Các cụ sắp xếp thành ba phần theo ba chặng viết của Nguyễn Du: Chặng Lê mạt, chặng làm quan triều Nguyễn, chặng đi sứ Trung Quốc. Bài "Độc Tiểu Thanh ký" này xếp ở phần đầu chặng đi sứ.

Cuốn "Thơ chữ Hán Nguyễn Du" do các cụ Lê Thước, Trương Chính chủ trì biên soạn với sự tham gia của nhiều người [NXB Văn học, 1965] có 249 bài. Đây là lần đầu tiên thơ chữ Hán của Nguyễn Du được công bố nhiều nhất, được tìm hiểu xuất xứ và chú giải kỹ nhất. Bài "Độc Tiểu Thanh ký" được các soạn giả phát hiện: "bài này không phải làm khi nhà thơ đi qua mộ Tiểu Thanh, mà khi còn ở nhà" [trích "Lời giới thiệu" của Trương Chính]. Bài thơ không xếp vào phần thơ đi sứ mà giữ trong tập "Thanh Hiên", ở phần "Làm quan ở Bắc Hà 1802-1804". Bản dịch [cả dịch nghĩa và dịch thơ] được chọn dạy cho học sinh trung học, in trong sách giáo khoa lớp X, tập I, là của Vũ Tam Tập, rút từ "Thơ chữ Hán Nguyễn Du" [NXB Văn học, 1965]. Tôi xin được dựa vào nguyên bản chữ Hán của Nguyễn Du, có tham khảo các bản dịch khác và xin được bàn luận về cách hiểu nghĩa và diễn thơ của Vũ Tam Tập.

Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

"Vườn hoa đẹp Tây hồ đã thành bãi hoang". Đây là Tây hồ của Hàng Châu, Trung Quốc. Câu thơ mở bài nói một đổi thay tàn tạ, nhưng không phải chỉ để gợi cảm khái chung chung, mà gắn với một địa danh cụ thể, Tây hồ. Tiểu Thanh, đời nhà Minh tài sắc, nhưng phải làm lẽ, bị vợ cả hành hạ. Tây hồ là nơi nàng bị người vợ cả ép sống đơn lẻ ở đây đến phải chết buồn năm 18 tuổi. Bài thơ mang giọng Nguyễn Du tâm sự với Tiểu Thanh:

Trước cửa sổ [ta] đọc cuốn sách, viếng nàng.

Cuốn sách ấy là cuốn "Ghi chép về cuộc đời Tiểu Thanh" [Tiểu Thanh ký]. Trong đó tôi đoán có chép lại 12 bài thơ còn sót lại khi tập thơ mang tâm sự bị người vợ cả đem đốt. Nguyễn Du đọc đời nàng, xem thơ nàng và xót thương thân phận nàng, chính là một hành động phúng điếu.

Hai câu phá đề, thừa đề coi như đã nói xong tiểu sử Tiểu Thanh và nỗi lòng thương cảm của tác giả với nàng. Phần còn lại của bài thơ, tới sáu câu, chỉ còn là những chiêm nghiệm của Nguyễn Du về cuộc đời. Thân phận Tiểu Thanh làm ông chạnh nghĩ tới thân phận mình.

Chi  phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh  lụy  phần dư.

Tôi trích hai câu liền vì hai câu đối ý quấn quýt tạo nên một mạch cảm xúc. Nhưng chuyển sang tiếng Việt xin được xét từng câu. Câu thứ ba, bản dịch nghĩa của Vũ Tam Tập in trong sách giáo khoa:

Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết.
Văn chương không mệnh mà mang lụy cả lúc đã thành tro

Thơ chữ Hán thường nén chữ lại, phá vỡ kết cấu văn phạm thông thường, nên người đọc có thể hiểu theo nhiều cách. Riêng trong câu này ba chữ "liên tử hậu" [liên: thương; tử hậu: sau khi chết]. Vũ Tam Tập chắc đã căn cứ theo tiểu sử Tiểu Thanh mà luận ra, bằng cách coi chủ từ của "thương" là hồn vía Tiểu Thanh. Và "sau khi chết" thì phải hiểu là "mọi việc xảy ra sau khi Tiểu Thanh chết", ở đây ám chỉ việc người vợ cả đốt những bài thơ của nàng. Cách hiểu này có lý, tuy lập luận có lấn hơi nhiều ra ngoài chữ nghĩa của câu thơ. Nhưng điều đáng nói là hiểu như thế ý thơ bị hẹp lại, tình cảm cũng mất đi vẻ trữ tình thế sự, chuyển thành một thứ thơ kể chuyện đời Tiểu Thanh bằng phẳng, nhạt và bị rời khỏi tư thế trí tuệ của bài thơ.

Tôi xin được hiểu sát vào từng chữ của câu thơ "Son phấn có thần [nên vẫn gây tiếc] thương sau [khi đã] chết". Son phấn tượng trưng cho nhan sắc người phụ nữ. Câu thơ này là Nguyễn Du tự thấy giữa lòng mình: Tiểu Thanh sống vào triều Minh, khi Nguyễn Du đọc bài ký viết về nàng, Tiểu Thanh "tử hậu" đã tới ba trăm năm, vậy mà khi biết chuyện đời Tiểu Thanh, Nguyễn Du vẫn xót xa: Son phấn [tài sắc người phụ nữ] có thần gây xót thương cho người ta cả sau khi đã chết! Một chiêm nghiệm thế sự nói chung [với "Truyện Kiều" cũng tương tự] chứ không phải một ước đoán tâm lý [chắc phải] cho riêng trường hợp Tiểu Thanh như câu dịch nghĩa của Vũ Tam Tập. Ý thơ này còn là tiền đề cho ý thơ kết: "Ta, sau ba trăm năm nàng mất, nhỏ lệ thương nàng, không biết ba trăm năm nữa [tử hậu của ta] có ai còn nhỏ lệ khóc ta không!". "Tử hậu" chiếu xuống "dư niên hậu" cho thấy nỗi tủi thân thấm thía của người tài tử Nguyễn Du. Cũng không nên coi đây là tài tung hứng trên dưới của bút pháp Nguyễn Du mà nên hiểu đây là mạch cảm xúc chính của bài thơ này. Thấy người mà ngẫm đến ta, rất lôgic. Hiểu như Vũ Tam Tập thì câu thơ chỉ còn dính với riêng tiểu sử Tiểu Thanh và bong khỏi nghĩa lý toàn bài.

Câu sau, tức câu thứ tư của bài, Vũ Tam Tập dịch nghĩa:

Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở.

Câu này dịch thế e mất ý. Mất chữ "lụy", vốn là nhãn tự của câu, nó ăn với chữ "liên" ở câu trên. Và cứ trong nghĩa câu dịch này mà hiểu thì  hơi văn lại hóa ngô nghê: "Văn chương không có số mệnh… mà cũng bị đốt dở!". Thế nghĩa là nó đáng phải được đốt cháy cho bằng hết[!]. Câu thơ này gây hiểu lầm cũng ở ba chữ cuối "lụy" [gây khó] "phần" [đốt] "dư" [còn lại]. "Lụy" cho đến cả  phần "còn lại sau khi đốt" [lụy cho tác giả] hay "phần còn lại sau khi đốt" còn đủ sức gây bận lòng người [lụy cho độc giả]? Cả hai cách hiểu đều có lý và không mâu thuẫn. Người sau khi chết vẫn gây thương và thơ còn sót sau khi cháy vẫn gây khắc khoải [lụy] cho người đời. Chính Nguyễn Du đang thể nghiệm cái mối lụy ấy khi đọc bài ký về Tiểu Thanh. Bản dịch của Thảo Phương, trong "Đọc và dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du" [NXB Văn học, 2007], câu này chuyển ngữ là: "Lụy đến tàn tro, hỡi phú thơ!" thì mối lụy đứng giữa độc giả và tác giả. Còn mối lụy ám vào tác giả: Văn chương vô mệnh, nó không như người, không là sinh linh, chỉ là chữ trên giấy, mà đã mang đốt đi, thành tro rồi, vẫn còn để lụy cho người viết ra nó. Cái "lụy" ấy đủ mạnh để cân với sức nặng của chữ "thương" ở câu trên [thương người thương sang cả cõi ma]. "Lụy, đến tàn tro còn gây lụy"… Đây cũng là một chiêm nghiệm phổ biến của giới chữ nghĩa. Cái lụy văn chương xưa nay nhiều lắm. Nguyễn Du hẳn biết nhiều những "ngục văn tự" của tiền nhân. Và trong đời chắc hẳn chính ông cũng nhiều phen nghe lạnh sống lưng. Ấy là chưa kể đời sau, ông "con giời" Tự Đức đọc đến câu Kiều "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai" còn muốn nọc Nguyễn Du ra đánh trăm trượng nữa kia. Có bất ngờ chăng là cái lụy ấy lại rơi vào thân phận một cô gái làm lẽ tội nghiệp, văn chương rất nghiệp dư này. Cái nỗi hận ấy của Tiểu Thanh, mà nào có riêng Tiểu Thanh, Nguyễn Du từng chứng kiến bao oán hận khi Gia Long trả thù Tây Sơn: hành hình người sống, bật mồ người chết, rồi đốt xóa đục đẽo bằng hết mọi văn tự có dính dáng đến Tây Sơn… Oán hận ngút trời! "Cổ kim hận sự thiên nan vấn". Cái nỗi hận xưa có, nay cũng có ấy, có ngửa mặt kêu trời mà hỏi, trời cũng bất lực, vô phương: "thiên nan vấn". Nguyễn Du ý thức được đấy là chỗ bế tắc của đời. Và ngay câu sau đó, ông ý thức phận mình: "phong vận kỳ oan ngã tự cư": phận ông cũng đã ở sẵn trong khối oan khiên ấy.  "Ngã tự cư": ta đã ở đấy rồi. Đấy là niềm bi phẫn hay nỗi yếm thế của Nguyễn Du? Chắc cả hai. Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, cái chữ "tự" này sao nhiều phen bi thiết: "Nhân tự bi thê, thảo tự thanh" [người tự buồn thương, cỏ tự xanh] xanh là bản tính của cỏ, bản tính của người lại là buồn thương ư! Cái chất tâm hồn Nguyễn Du như thế, nên mới vừa chạm đến thân phận Tiểu Thanh, ông đã trùng điệp nỗi mình, dẫn đến câu kết như một di chúc, một câu hỏi cực thân hỏi vào hậu thế:

Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khốc Tố Như

[Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như]

Bốn câu cuối bài thơ, bản dịch Vũ Tam Tập đã hoàn hảo cả tình cả ý. Và bài "Độc Tiểu Thanh ký" này đã là một chìa khóa giúp ta mở vào nỗi lòng Nguyễn Du.

Hà Nội, tháng 10/2010

Vũ Quần Phương

Độc tiểu thanh kí - Tác giả: Nguyễn Du

Bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí [Độc Tiểu Thanh kí] đã thể hiện suy tư, cảm xúc của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa: có tài nhưng bạc phận. Đồng thời qua đó, nhà thơ cũng nói lên một phương diện quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo đó là sự xót xa cho những giá trị tinh thần cao quý bị chà đạp.

Bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí

Download.vn sẽ cung cấp tài liệu giới thiệu về đại thi hào Nguyễn Du và bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí. Kính mời bạn đọc cùng tham khảo.

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch nghĩa:

Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi,
Chỉ viếng nàng qua một quyển sách đọc trước cửa sổ.
Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở
Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được
Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã
Không biết hơn ba trăm năm sau
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?

Một số bản dịch thơ:

Tây hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

[Vũ Tam Tập dịch]

Hồ Tây hoa kiểng: dải gò hoang,
Cửa hé trang thư chạnh điếu nàng.
Hận luống vương thêm hồn phấn đại,
Tro chưa tàn hết lụy văn chương.
Thanh thương khó hỏi oan chồng chất,
Phong nhã đành chung nợ vấn vương.
Rồi Tố Như, sau ba kỷ nữa,
Trần gian ai kẻ sụt sùi thương?

[Quách Tấn dịch]

Trước song giấy mực viếng nàng,
Hồ Tây vườn cũ; gò hoang bây giờ.
Xưa nay trời vẫn làm ngơ,
Mối oan thêm một người thơ buộc mình.
Hoa tàn lệ rỏ hương thanh;
Văn chương phận mỏng chưa đành tro bay!
Rồi ba trăm năm sau đây
Còn ai khóc Tố Như này nữa chăng?

[Vũ Hoàng Chương dịch]

I. Đôi nét về tác giả Nguyễn Du

- Nguyễn Du [1765 - 1820], tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.

- Quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long.

- Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học.

- Cuộc đời ông gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XX.

- Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.

- Sự nghiệp văn học của Nguyễn Du gồm nhiều tác phẩm có giá trị bằng chữ Hán và chữ Nôm.

- Một số tác phẩm như:

  • Tác phẩm bằng chữ Hán [3 tập thơ, gồm 243 bài]: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục.
  • Tác phẩm chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh [Truyện Kiều]...

II. Giới thiệu về bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài có sắc, sống khoảng đầu thời Minh. Năm 16 tuổi, cô được gả vào làm vợ lẽ cho một nhà quyền quý. Bà vợ cả là người hay ghen nên bắt cô phải sống một mình cô độc ở Cô Sơn cạnh Tây Hồ. Vì quá đau buồn, cô sinh bệnh và mất ở tuổi 18. Nỗi uất ức của thân phận vợ lẽ được gửi gắm trong những bài thơ do Tiểu Thanh sáng tác, nhưng những trang thơ này đều bị bà vợ cả đốt hết.

- Thương xót cho số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã sáng tác ra bài thơ “Đọc Tiểu Thanh kí”.

2. Nhan đề

Có hai cách giải thích:

- Cách thứ nhất: “Tiểu Thanh kí” là tập thơ của nàng Tiểu Thanh, tên bài thơ sẽ là “Đọc Tiểu Thanh kí”.

- Cách thứ hai: “Tiểu Thanh kí” là tên truyện viết về nàng Tiểu Thanh.

=> Đều gián tiếp nói về số phận, cuộc đời của nàng Tiểu Thanh. Qua đó, nhà thơ gửi gắm những suy tư về người phụ nữ có tài trong xã hội xưa.

3. Bố cục

Gồm 4 phần theo lối: Đề - Thực - Luận - Kết

  • Hai câu đề: Nguyễn Du đọc được phần dư cảo của Tiểu Thanh để lại.
  • Hai câu thực: Số phận tài hoa, bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh
  • Hai câu luận: Niềm cảm thương của tác giả dành cho Tiểu Thanh
  • Hai câu kết: Niềm thương xót cho chính mình của nhà thơ.

4. Nội dung

Bài thơ thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài văn chương trong xã hội phong kiến.

5. Nghệ thuật

Sử dụng các biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu hình ảnh…

Cập nhật: 15/11/2021

Video liên quan

Chủ Đề