Quá trình phong hóa lí học chủ yếu do

Phong hóa lí học xảy ra chủ yếu do?

A.Tác dụng của gió, nước mưa

B.Sự thay đổi đột ngột của nhiệt độ, sự đóng băng của nước, tác động con người

C.Nguốn nhiệt độ cao từ dung nhan trong lòng đất

D.Tác động của sinh vật như vi khuẩn, nấm, rễ cây

Đáp án đúng B.

Phong hóa lí học xảy ra chủ yếu do sự thay đổi đột ngột của nhiệt độ, sự đóng băng của nước, tác động con người, trên bề mặt Trái Đất, quá trình này xảy ra rất mạnh mẽ, đặc biệt ở những vùng nhiệt đới, có điều kiện nhiệt và ẩm phong phú.

Giải thích lý do chọn đáp án đúng là B

– Quá trình phong hoá là quá trình đá và các khoáng vật bị phá huỷ, biến đổi do những tác động của sự thay đổi nhiệt độ, nguồn nước, không khí và các loại axit có trong tự nhiên và sinh vật.

Trên bề mặt Trái Đất, quá trình này xảy ra rất mạnh mẽ, đặc biệt ở những vùng nhiệt đới, có điều kiện nhiệt và ẩm phong phú.

– Phong hóa lí học là sự phá hủy đá thành các khối vụn có kích thước khác nhau, không làm biến đổi màu sắc, thành phần hóa học của chúng.

– Nguyên nhân chủ yếu:

+ Nhiệt độ: Do sự thay đổi nhiệt độ giữa ngày và đêm sẽ làm vỡ các cấu trúc khoáng. Sự phá vỡ này do các tính chất co trương khác nhau của loại khoáng khác nhau. Sự thay đổi nhiệt độ sẽ làm các khoáng nứt ra và bị vỡ.

Thường bề mặt ngoài của đá luôn chịu sự tác động của nhiệt độ mạnh [nóng hoặc lạnh hơn bên trong], nên một số loại đá thường bị phong hóa bởi sự tróc dần từng lớp vỏ bề mặt.

+ Sự bào mòn của nước, băng hà và gió: Khi di chuyển với hàm lượng chất lơ lửng cao, nước sẽ có sức bào mòn rất lớn.

Điều này dễ nhận thấy trên các tảng đá bị bào mòn dưới lòng sông. Gió bụi, cát và băng hà cũng có thể bào mòn các loại đá.

+ Thực vật và động vật: Rễ thực vật đôi khi cũng len lõi vào các vết nứt của đá và tách chúng ra, nên đá bị phá vỡ. Động vật đào hang cũng có thể làm vỡ một phần đá.

Tuy nhiên, các yếu tố này có ảnh hưởng rất nhỏ đến sự hình thành mẫu chất so với tác động của nước và gió.

– Kết quả: Đá nứt vỡ [Địa cực và hoang mạc].

Ví dụ về phong hóa lí học:

A lấy búa gõ vào viên đá ban đầu khiến nó bị vỡ ra thành nhiều mảnh khác nhau.

Đây là phong hóa lí học vì đá bị vỡ nhưng những đặc điểm ban đầu của nó vẫn được giữ nguyên [màu sắc, thành phần,…]

Dưới tác động của những nhân tố bên ngoài [nhiệt độ, nước, hoạt động của vi sinh vật…] mà trạng thái vật lý và hoá học của đá và khoáng trên bề mặt đất bị biến đổi. Quá trình này gọi là quá trình phong hoá.

Kết quả của quá trình phong hoá là đá và khoáng chất bị phá vỡ thành những mảnh vụn, hoà tan, di chuyển làm cho trạng thái tồn tại và thành phần hoá học hoàn toàn bị thay đổi. Kết quả tạo ra những vật thể vun và xốp - sản phẩm phong hoá và sau quá trình phong hoá gọi là mẫu chất – nó là vật liệu cơ bản để tạo thành đất.

Mẫu chất và đất có mối liên quan mật thiết, những đặc tính và thành phần hoá học của mẫu chất phản ánh những đặc tính và thành phần của đất.

Dựa vào từng đặc trưng của từng nhân tố tác động, phong hoá được chia thành 3 loại: Phong hoá lý hoc, phong hoá hoá học và phong hoá sinh vật học. Các quá trình này xảy ra đồng thời và liên quan khăng khít nhau.

Các quá trình phong hóa

Phong hóa cơ học [vật lý]

Phong hóa cơ học phá vỡ các đá gốc thành những mảnh vụn mà không làm thay đổi thành phần hóa học của đá. Băng, nước, nước khe nứt là các tác nhân gây phong hóa cơ học chính do gây ra một lực tác động làm nở ra, mở rộng các khe nứt trong đá khiến đá vỡ ra thành các mảnh vụn. Giãn nở vì nhiệt cũng gây nên tác động giản căng và co lại dưới sự ảnh hưởng của việc nhiệt độ tăng lên hay giảm đi cũng giúp cho quá trình phong hóa cơ học diễn ra nhanh hơn. Phong hóa cơ học giúp làm tăng diện tiếp xúc bề mặt của đá khiến cho quá trình phong hóa hóa học dưới sự tác động của các yếu tố hóa học diễn ra nhanh hơn.

Phong hóa hóa học

Là quá trình phá huỷ các loại đá thành các khối vụn có kích thước to, nhỏ khác nhau, tuy nhiên nó không làm thay đổi màu sắc, các thành phần khoáng hoá của chúng. Còn nguyên nhân chính xả ra quá trình phong hoá hoá học là do các tác động của chất khí, nước và các khoáng chất hoà tan được trong nước… Quá trình phong hoá đá này xảy ra nhiều nhất ở những khu vực khí hậu xích đạo, gió mùa ẩm và các dạng địa hình các-xtơ ở miền đá vôi.

Các quá trình xảy ra:

- Quá trình hydrat hóa [ quá trình ngậm nước]

Nước là phân tử có cực, nên nếu khoáng chất có các cation và anion có hóa trị tự do sẽ hút phân tử nước và trở thành ngậm nước.

2Fe2O3 + 3H2O → 2Fe2O3. 3H2O

CaSO4 + 2H2O → CaSO4. 2H2O

Na2SO4 + 10H2O → Na2SO4. 3H2O

Hydat hóa làm độ cứng của khoáng giảm, thể tích tăng làm đá bị vỡ vụn và hòa tan. Như vậy phong hóa hóa học không chỉ phá vỡ đá về mặt hóa học, mà còn thúc đẩy quá trình phong hóa lý học.

- Quá trình oxy hóa

Trong các khoáng chất cấu tạo đá, chứa nhiều ion hóa trị thấp như [Fe2+ , Mn2+ ], những ion này bị oxy hóa thành hóa trị cao hơn làm cho khoáng bị phá hủy và thay đổi thành phần.

2FeS2 + 2H2O + 7O2 → 2FeSO4 + 2H2SO4

4FeSO4 + 2H2SO4 + O2 → 2Fe2[SO4]3 + H2O

- Quá trình thủy phân

Nước bi phân ly thành H+ + OH– . Trong vỏ quả đất chứa nhiều khoáng silicat – đó là muối của axit yếu [axit silic: H2SiO3, axit amulosilic: H2[Al2Si6O16]]. Trong các khoáng này chứa các ion kim loại kiềm và kiềm thổ, trong quá trình thủy phân, những ion H+ do nước điện ly sẽ thay thế cation này.

K[AlSi3O8] + H+ + OH– → HalSi3O8 + KOH

Quá trình phong hóa hóa học làm đá vỡ vụn và thay đổi thành phần của khoáng và đá.

Phong hóa sinh học

Dưới tác động của sinh vật như vi khuẩn, nấm hay rễ cây… đá và khoáng vật bị phá huỷ được gọi là quá trình phong hoá sinh học. Lúc này, đá bị phá huỷ cả về mặt cơ giới và hoá học. Nguyên nhân dẫn đến quá trình phong hoá sinh học là do sự phát triển, tăng trưởng của rễ cây và sự bài tiết các chất.  

Như vậy, khi so sánh ba quá trình phong hoá, chúng ta chủ yếu nói đến các tác nhân tác động và hệ quả của nó đối với các loại đá và khoáng vật. Mối quan hệ giữa 3 quá trình phong hoá này không diễn ra độc lập mà chúng có tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau, thậm chí đồng thời cùng xảy ra trên một khu vực.

So sánh sự giống và khác giữa phong hoá lí học và phong hoá hoá học

Mối quan hệ giữa quá trình phong hoá, vận chuyển và quá trình bồi tụ

Để xảy ra quá trình phong hoá hoàn thiện nhất thì phải kết hợp giữa quá trình vận chuyển và bồi tụ … bởi quá trình vận chuyển sẽ di chuyển vật liệu từ nơi này sang nơi khác, sau đó quá trình bồi tự sẽ giúp tích luỹ các vật liệu bị phá huỷ lại ở bề mặt địa hình thấp hơn.

Như vậy, quá trình phong hoá thành tạo các vật liệu đá và khoáng vật bị phá huỷ thành những mảnh vụn nhỏ và rất nhỏ. Quá trình vận chuyển sẽ mang những vật liệu này đến một nơi khác. Khi gặp được những điều kiện thuận lợi như địa hình, các vật liệu bồi tụ lại, san bằng hoặc làm gồ ghề thêm dạng địa hình ở khu vực đó. Mối quan hệ của ba quá trình này rất chặt chẽ với nhau, chúng có thể diễn ra đồng thời nhưng cách xa nhau về mặt không gian.

Page 2

Dưới tác động của những nhân tố bên ngoài [nhiệt độ, nước, hoạt động của vi sinh vật…] mà trạng thái vật lý và hoá học của đá và khoáng trên bề mặt đất bị biến đổi. Quá trình này gọi là quá trình phong hoá.

Kết quả của quá trình phong hoá là đá và khoáng chất bị phá vỡ thành những mảnh vụn, hoà tan, di chuyển làm cho trạng thái tồn tại và thành phần hoá học hoàn toàn bị thay đổi. Kết quả tạo ra những vật thể vun và xốp - sản phẩm phong hoá và sau quá trình phong hoá gọi là mẫu chất – nó là vật liệu cơ bản để tạo thành đất.

Mẫu chất và đất có mối liên quan mật thiết, những đặc tính và thành phần hoá học của mẫu chất phản ánh những đặc tính và thành phần của đất.

Dựa vào từng đặc trưng của từng nhân tố tác động, phong hoá được chia thành 3 loại: Phong hoá lý hoc, phong hoá hoá học và phong hoá sinh vật học. Các quá trình này xảy ra đồng thời và liên quan khăng khít nhau.

Các quá trình phong hóa

Phong hóa cơ học [vật lý]

Phong hóa cơ học phá vỡ các đá gốc thành những mảnh vụn mà không làm thay đổi thành phần hóa học của đá. Băng, nước, nước khe nứt là các tác nhân gây phong hóa cơ học chính do gây ra một lực tác động làm nở ra, mở rộng các khe nứt trong đá khiến đá vỡ ra thành các mảnh vụn. Giãn nở vì nhiệt cũng gây nên tác động giản căng và co lại dưới sự ảnh hưởng của việc nhiệt độ tăng lên hay giảm đi cũng giúp cho quá trình phong hóa cơ học diễn ra nhanh hơn. Phong hóa cơ học giúp làm tăng diện tiếp xúc bề mặt của đá khiến cho quá trình phong hóa hóa học dưới sự tác động của các yếu tố hóa học diễn ra nhanh hơn.

Phong hóa hóa học

Là quá trình phá huỷ các loại đá thành các khối vụn có kích thước to, nhỏ khác nhau, tuy nhiên nó không làm thay đổi màu sắc, các thành phần khoáng hoá của chúng. Còn nguyên nhân chính xả ra quá trình phong hoá hoá học là do các tác động của chất khí, nước và các khoáng chất hoà tan được trong nước… Quá trình phong hoá đá này xảy ra nhiều nhất ở những khu vực khí hậu xích đạo, gió mùa ẩm và các dạng địa hình các-xtơ ở miền đá vôi.

Các quá trình xảy ra:

- Quá trình hydrat hóa [ quá trình ngậm nước]

Nước là phân tử có cực, nên nếu khoáng chất có các cation và anion có hóa trị tự do sẽ hút phân tử nước và trở thành ngậm nước.

2Fe2O3 + 3H2O → 2Fe2O3. 3H2O

CaSO4 + 2H2O → CaSO4. 2H2O

Na2SO4 + 10H2O → Na2SO4. 3H2O

Hydat hóa làm độ cứng của khoáng giảm, thể tích tăng làm đá bị vỡ vụn và hòa tan. Như vậy phong hóa hóa học không chỉ phá vỡ đá về mặt hóa học, mà còn thúc đẩy quá trình phong hóa lý học.

- Quá trình oxy hóa

Trong các khoáng chất cấu tạo đá, chứa nhiều ion hóa trị thấp như [Fe2+ , Mn2+ ], những ion này bị oxy hóa thành hóa trị cao hơn làm cho khoáng bị phá hủy và thay đổi thành phần.

2FeS2 + 2H2O + 7O2 → 2FeSO4 + 2H2SO4

4FeSO4 + 2H2SO4 + O2 → 2Fe2[SO4]3 + H2O

- Quá trình thủy phân

Nước bi phân ly thành H+ + OH– . Trong vỏ quả đất chứa nhiều khoáng silicat – đó là muối của axit yếu [axit silic: H2SiO3, axit amulosilic: H2[Al2Si6O16]]. Trong các khoáng này chứa các ion kim loại kiềm và kiềm thổ, trong quá trình thủy phân, những ion H+ do nước điện ly sẽ thay thế cation này.

K[AlSi3O8] + H+ + OH– → HalSi3O8 + KOH

Quá trình phong hóa hóa học làm đá vỡ vụn và thay đổi thành phần của khoáng và đá.

Phong hóa sinh học

Dưới tác động của sinh vật như vi khuẩn, nấm hay rễ cây… đá và khoáng vật bị phá huỷ được gọi là quá trình phong hoá sinh học. Lúc này, đá bị phá huỷ cả về mặt cơ giới và hoá học. Nguyên nhân dẫn đến quá trình phong hoá sinh học là do sự phát triển, tăng trưởng của rễ cây và sự bài tiết các chất.  

Như vậy, khi so sánh ba quá trình phong hoá, chúng ta chủ yếu nói đến các tác nhân tác động và hệ quả của nó đối với các loại đá và khoáng vật. Mối quan hệ giữa 3 quá trình phong hoá này không diễn ra độc lập mà chúng có tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau, thậm chí đồng thời cùng xảy ra trên một khu vực.

So sánh sự giống và khác giữa phong hoá lí học và phong hoá hoá học

Mối quan hệ giữa quá trình phong hoá, vận chuyển và quá trình bồi tụ

Để xảy ra quá trình phong hoá hoàn thiện nhất thì phải kết hợp giữa quá trình vận chuyển và bồi tụ … bởi quá trình vận chuyển sẽ di chuyển vật liệu từ nơi này sang nơi khác, sau đó quá trình bồi tự sẽ giúp tích luỹ các vật liệu bị phá huỷ lại ở bề mặt địa hình thấp hơn.

Như vậy, quá trình phong hoá thành tạo các vật liệu đá và khoáng vật bị phá huỷ thành những mảnh vụn nhỏ và rất nhỏ. Quá trình vận chuyển sẽ mang những vật liệu này đến một nơi khác. Khi gặp được những điều kiện thuận lợi như địa hình, các vật liệu bồi tụ lại, san bằng hoặc làm gồ ghề thêm dạng địa hình ở khu vực đó. Mối quan hệ của ba quá trình này rất chặt chẽ với nhau, chúng có thể diễn ra đồng thời nhưng cách xa nhau về mặt không gian.

Video liên quan

Chủ Đề