Phân tích quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

QPTD -Thứ Hai, 12/05/2014, 13:55 (GMT+7)

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc

Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là hai nguồn lực to lớn của cách mạng Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ hai nguồn lực đó sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp để cách mạng vượt qua mọi khó khăn, trở ngại. Đây là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của cách mạng Việt Nam từ trước đến nay, được Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) tiếp tục quán triệt và coi trọng, xem đó là một trong những quan điểm chỉ đạo triển khai thực hiện “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.

Trên cơ sở phân tích thời cơ, thách thức cùng xu hướng phát triển của tình hình thế giới, khu vực và trong nước thời gian tới, Nghị quyết 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã chỉ rõ mục tiêu bảo vệ Tổ quốc hiện nay là “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, CNH,HĐH; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN”. Để thực hiện có hiệu quả mục tiêu đó, Nghị quyết yêu cầu phải nắm vững một trong các quan điểm chỉ đạo là: “Phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại. Phát huy mạnh mẽ nội lực là nhân tố quyết định; đồng thời tranh thủ tối đa mọi thuận lợi từ bên ngoài”. Đây vừa là sự quán triệt và vận dụng sáng tạo một trong những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam, mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) đã tổng kết1 vào nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay; vừa thể hiện sự phát triển mới về nhận thức và hành động thực tiễn của Đảng ta so với Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”.

Trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX), vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để bảo vệ Tổ quốc chưa đứng riêng thành một quan điểm độc lập, mà được xem xét trong mối quan hệ giữa nội lực với ngoại lực, giữa sức mạnh trong nước với sức mạnh bên ngoài (điều kiện quốc tế). Tại quan điểm thứ năm, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) xác định: “ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài”; đồng thời nhấn mạnh ở quan điểm thứ ba: “Sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định”2. Ở đây, dường như “nội lực” - yếu tố bên trong của đất nước, được xem là “sức mạnh dân tộc”; và “thuận lợi ở bên ngoài”, hay là yếu tố bên ngoài - ngoại lực, được xem là “sức mạnh thời đại”. Điều đó đúng, nhưng chưa đủ, chưa toàn diện. Với nhận thức biện chứng hơn, sâu sắc hơn nội hàm “sức mạnh của dân tộc” và “sức mạnh của thời đại” trong so sánh với yếu tố nội lực - bên trong và yếu tố ngoại lực - bên ngoài, Nghị quyết 28-NQ/TW (khóa XI) không chỉ đặt vấn đề “phát huy nội lực” và “kết hợp phát huy nội lực với tranh thủ tối đa mọi thuận lợi từ bên ngoài”, mà còn bổ sung thêm mệnh đề “Phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại”. Rõ ràng ở đây, sức mạnh của dân tộc không chỉ là sức mạnh nội lực và không chỉ bó hẹp ở sức mạnh bên trong, bởi nó còn bao gồm cả một phần ngoại lực cần được huy động cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là nguồn lực to lớn về vật chất và tinh thần, chất xám cùng nguồn lực tài chính và tấm lòng hướng về cội nguồn của hơn 4,5 triệu người Việt Nam ở nước ngoài, vốn đã được coi “là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”3. Do vậy, “sức mạnh của dân tộc” có nội hàm rộng hơn “nội lực” và “sức mạnh bên trong”; nó “thể hiện ở sức mạnh tổng hợp cả về vật chất và tinh thần. Đó là sự phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững; sức mạnh quốc phòng toàn dân ngày càng hiện đại; sự ổn định chính trị - xã hội vững chắc; bản sắc văn hóa dân tộc không ngừng được phát huy; sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân”4. Còn sức mạnh của thời đại cần phát huy cũng không hoàn toàn chỉ là các yếu tố bên ngoài - ngoại lực, mà còn bao gồm cả một phần yếu tố bên trong - nội lực. Sự kiên định của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH - mục tiêu được hình thành do có yếu tố thời đại - trong đường lối chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đâu phải là ngoại lực, mà đó chính là nội lực, là sức mạnh bên trong, nhưng lại được gắn kết nhuần nhuyễn với yếu tố thời đại, yếu tố bên ngoài. Tương tự khi chúng ta kiên định thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - thành phần kinh tế do yếu tố thời đại đem lại - được coi là một bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, được khuyến khích phát triển. Đó chính là sức mạnh bên trong, sức mạnh nội lực, nhưng lại chứa đựng ở đó những yếu tố ngoại lực, của thời đại. Trên tầm tư duy biện chứng như vậy, Nghị quyết 28-NQ/TW (khóa XI) không đồng nhất “sức mạnh dân tộc” với “sức mạnh nội lực, sức mạnh bên trong”; không đồng nhất “sức mạnh thời đại” với các yếu tố “từ bên ngoài”, mà tiếp cận vấn đề một cách toàn diện hơn và khoa học hơn, khi vừa khẳng định “Phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại”, vừa nhấn mạnh bộ phận căn bản nhất, nòng cốt nhất của sức mạnh dân tộc là nhân tố nội lực giữ vai trò quyết định.

Hiện nay, tình hình trong nước và trên thế giới có nhiều thuận lợi, nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức đối với việc phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Ở trong nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường, nhất là trước kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về công tác xây dựng Đảng và thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao. Nước ta đã ra khỏi tình trạng nước kém phát triển; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được bảo vệ vững chắc. Các quan hệ quốc tế được đa dạng hóa, đa phương hóa. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 180/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; trong đó, có quan hệ đối tác chiến lược với 13 nước, đối tác toàn diện với 11 nước, gồm tất cả 5 nước thường trực Hội đồng bảo an; có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và vùng lãnh thổ; là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế,… Đó là những tiền đề thuận lợi cho việc huy động hai nguồn lực to lớn - sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại - để kết hợp chặt chẽ hơn nữa trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Tuy nhiên, nhiều hạn chế, yếu kém trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược thời gian qua cũng làm xuất hiện những vấn đề phức tạp mới. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01-1994) của Đảng đã nêu (tụt hậu xa hơn về kinh tế; chệch định hướng XHCN; tệ quan liêu, tham nhũng, suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên; diễn biến hòa bình) vẫn là những thách thức lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng huy động sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc. Còn trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, là đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc. Đó chính là xu thế thời đại mà chúng ta cần và có thể tranh thủ để kết hợp với sức mạnh dân tộc trong tình hình mới. Song, xu thế đó lại đồng hành cùng những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường, đe dọa an ninh quốc gia và an ninh toàn cầu, đòi hỏi chúng ta phải luôn nêu cao cảnh giác, chủ động phòng ngừa trong quá trình hội nhập để có thể vượt qua những thách thức, tranh thủ tối đa những thuận lợi từ bối cảnh quốc tế đem lại cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đứng trước bối cảnh, tình hình đó, vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để bảo vệ Tổ quốc hiện nay cần phải được tiếp tục với các nội dung, giải pháp đồng bộ.

Trước hết, sự kết hợp phải được thực hiện ở tất cả các cấp (từ Trung ương đến địa phương, cơ sở), các ngành, các lĩnh vực (từ kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội đến quốc phòng, an ninh và đối ngoại,…) bằng những biện pháp phù hợp. Đây là điểm khác biệt căn bản so với trước, khi mà chúng ta chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực, chứ không chỉ giới hạn trong hội nhập về kinh tế. Mặt khác, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc hiện nay liên quan đến tất cả các ngành, các lĩnh vực, mà mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều có vị trí và trách nhiệm thực hiện theo đúng tinh thần đây là “nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và toàn dân”, chứ không phải là nhiệm vụ riêng của lực lượng vũ trang. Do đó, mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đều cần phải quán triệt và có các biện pháp vận dụng sáng tạo, phù hợp quan điểm “Phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại” trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình; qua đó, thiết thực đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, sự kết hợp phải theo tinh thần “Phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc”, lấy việc “Phát huy nội lực là nhân tố quyết định” trong khi tận dụng tối đa những thuận lợi từ bên ngoài. Đây chính là sự quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, mà theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu phải nêu cao tinh thần “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Dựa vào sức mình là chính đòi hỏi phải chăm lo xây dựng nội lực, phát huy sức mạnh dân tộc. Điểm mới mà Nghị quyết 28-NQ/TW (khóa XI) nhấn mạnh không chỉ là phát huy sức mạnh dân tộc nói chung, mà là “phát huy cao nhất” sức mạnh đó. Điều này là cần thiết và khả thi, khi mà thế và lực của đất nước được nâng lên rất nhiều so với trước đây; đồng thời, tiềm năng sức mạnh dân tộc còn lớn, chưa được phát huy có hiệu quả cao. Thêm nữa, trong bối cảnh quốc tế đầy biến động, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường, yêu cầu “phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc”, “phát huy nội lực là nhân tố quyết định” không chỉ thể hiện tinh thần tích cực, chủ động, không trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài của chúng ta, mà còn là điều kiện để chúng ta tiếp nhận có hiệu quả các yếu tố ngoại lực do xu thế thời đại đem lại. Hơn thế, có phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội lực, chúng ta mới giữ vững được độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại,… để trên cơ sở đó chủ động chuyển hóa sức mạnh ngoại lực thành sức mạnh nội lực. Phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc, coi phát huy nội lực là nhân tố quyết định, đòi hỏi phải chăm lo xây dựng và phát huy cao độ các yếu tố tạo thành sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội lực. Đó là chăm lo xây dựng cho “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối thống nhất”5. Đến lượt mình, yêu cầu đó đòi hỏi phải tiếp tục nắm chắc nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Trên cơ sở đó, phải giữ vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; xây dựng Đảng, Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh; không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược; gắn phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Thứ ba, sự kết hợp phải trên cơ sở “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”6. Đây cũng chính là tư tưởng chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng ta, là cơ sở để hiện thực hóa quan điểm “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” ở tầm quốc gia, cũng như ở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi lĩnh vực cụ thể. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, các cấp, các ngành, các lĩnh vực khai thác yếu tố bên ngoài để kết hợp với yếu tố nội lực đều gắn liền với thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng. Sự kết hợp đó, chỉ có thể đạt hiệu quả cao, góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc, một khi các hoạt động đối ngoại đều quán triệt sâu sắc và thực hiện đúng tư tưởng chỉ đạo đã đề ra. Xa rời tư tưởng này, nước ta sẽ không tránh khỏi bị cô lập, bị động, lệ thuộc vào bên ngoài; không còn giữ được tính độc lập, tự chủ của quốc gia, dân tộc; không những không huy động được sức mạnh ngoại lực, mà còn làm suy yếu nội lực. Do đó, hoạt động đối ngoại của các cấp, các ngành, các lĩnh vực ở những cấp độ khác nhau (đối ngoại Nhà nước, đối ngoại Đảng, đối ngoại nhân dân,…) đều phải quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng chỉ đạo đó thông qua các biện pháp, hình thức phù hợp; chú trọng đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia, dân tộc trong sự kết hợp chặt chẽ với tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đồng thời, phải nắm vững phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, “thêm bạn, bớt thù”, có cách nhìn biện chứng về “đối tượng” và “đối tác” để có thể tranh thủ hợp tác khía cạnh “đồng thuận” ở mỗi “đối tượng”; kiên quyết đấu tranh với mỗi “đối tác” những vấn đề còn mâu thuẫn, trên nguyên tắc bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất. Phát huy cao nhất tiềm năng, thế mạnh nội lực của mình, kết hợp với tranh thủ sự hợp tác quốc tế trên cơ sở quán triệt và thực hiện đúng đường lối đối ngoại của Đảng, từng cấp, từng ngành và từng lĩnh vực cụ thể không chỉ đem lại lợi ích trực tiếp cho chính mình, mà còn góp phần quan trọng vào bảo vệ từ xa nền độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và bảo vệ chế độ XHCN.

Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là tư tưởng chỉ đạo chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Điều đó đã được thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam thẩm định và trở thành một bài học kinh nghiệm lớn. Ngày nay, kế thừa và vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm đó tiếp tục là một phương thức tạo nên “sức mạnh tổng hợp về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại để bảo vệ Tổ quốc”7. Đó là trách nhiệm của toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.

NGUYỄN NGỌC HỒI
____________

1 - “Bốn là: kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực”. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 66.

2 - Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb CTQG, H. 2003, tr. 47.

3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 245.

4 - Nguyễn Phú Trọng - Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, triển khai đồng bộ và toàn diện hơn các hoạt động đối ngoại, Báo Nhân dân, ngày 13-12-2011.

5 - ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI , Nxb CTQG, H. 2013, tr. 169.

6 - Nguyễn Phú Trọng - Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, triển khai đồng bộ và toàn diện hơn các hoạt động đối ngoại, Báo Nhân dân, ngày 13-12-2011.

7 - ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI , Nxb CTQG, H. 2013, tr. 169.