Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

08:58, 27/01/2014

Là vùng đất có nhiều di tích lịch sử, thắng cảnh và truyền thống văn hóa đa dạng, trong những năm qua ngành Du lịch Dak Lak đã tập trung khai thác khá hiệu quả các loại hình du lịch sinh thái, văn hóa. Một số khu du lịch đã được hình thành và trở thành thương hiệu nổi tiếng khắp cả nước: Bản Đôn, hồ Lak, thác Dray Nur… Tuy nhiên, thu hút đầu tư vào ngành du lịch trong những năm qua gặp nhiều khó khăn và chưa tương xứng với tiềm năng. 

Năm 2013, tổng lượt khách du lịch đến tỉnh ta ước đạt 410.000 lượt, bằng 88,17% kế hoạch, tăng 26,15% so với năm 2012; doanh thu đạt 310 tỷ đồng, công suất sử dụng buồng phòng tương đương 62%, tăng 1,63% so với năm 2012. Mặc dù kết quả thực hiện các chỉ tiêu đều tăng so với năm 2012 nhưng năm 2013, hoạt động của ngành du lịch Dak Lak vẫn khá trầm lắng, chưa tạo được bước đột phá mạnh mẽ, bởi doanh nghiệp chưa có sự đầu tư chiều sâu, mà chủ yếu chỉ tận dụng tài nguyên để khai thác phục vụ lợi ích trước mắt. Đó cũng là một trong những lý do khiến ngành du lịch của tỉnh thiếu tính ổn định và bền vững. Minh chứng rõ nét qua thực tế là gần như du khách đến Buôn Ma Thuột chỉ một lần (cho biết) rồi thôi. Điều này cho thấy, độ hấp dẫn, tính cạnh tranh của du lịch Dak Lak đang “lép vế” so với một số địa phương khác trong khu vực. Ông Y Wai Byă, Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch cũng thừa nhận: thực trạng đầu tư phát triển du lịch của các doanh nghiệp trong tỉnh ngày càng khó khăn, đa số chỉ tập trung đầu tư nhiều vào lĩnh vực kinh doanh lưu trú (khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ). Các nhà đầu tư có tiềm lực tài chính chưa đầu tư mạnh vào các điểm du lịch, khu vui chơi, giải trí mới, các doanh nghiệp du lịch chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng các chương trình, tạo ra các sản phẩm du lịch mới hấp dẫn mang tính đặc thù và cạnh tranh cao. Hiệu quả kêu gọi đầu tư còn thấp, các dự án về du lịch được các nhà đầu tư đăng ký nhiều, nhưng chưa triển khai hoặc tiến độ triển khai chậm do tiềm lực của doanh nghiệp yếu, hoặc đã bị thu hồi… Ngoài ra, đến nay ngành du lịch vẫn chưa khai thác tốt lợi thế của đường hàng không từ Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Vinh, Đà Nẵng đến Buôn Ma Thuột để thu hút du khách nội địa. Công tác xúc tiến, hợp tác với các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên để mở rộng thị trường du lịch trong nước và quốc tế, cũng như việc đầu tư phát triển tuyến du lịch đường bộ từ Buôn Ma Thuột đi Lào, Campuchia và Thái Lan chưa hiệu quả. Thêm vào đó, một số công trình giao thông, nhất là đường giao thông đến các điểm, khu du lịch, ngày càng xuống cấp nghiêm trọng nhưng chưa được duy tu, bảo dưỡng kịp thời…

Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến
Lễ hội cồng chiêng - sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù của Dak Lak.

Để nâng cao sức hấp dẫn, tính cạnh tranh cho ngành du lịch, một loạt các giải pháp đã được ngành tính đến như tập trung xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương, nhất là mô hình du lịch cộng đồng gắn với việc bảo tồn và phát triển các buôn đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn TP. Buôn Ma Thuột; mô hình du lịch, dịch vụ phục vụ nhân dân trên địa bàn tỉnh những ngày lễ, tết, ngày nghỉ cuối tuần; đầu tư phát triển các dịch vụ bổ trợ như vui chơi giải trí, ẩm thực, thể thao…  Trong Kế hoạch phát triển Du lịch tỉnh Dak Lak  giai đoạn 2012 – 2015 (ban hành kèm theo Quyết định số 2199/QĐ-UBND, ngày 26-9-2012) nhằm bước đầu triển khai thực hiện Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Dak Lak đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, Dak Lak cũng đã xác định sẽ tập trung đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước (cả Trung ương và địa phương) theo hướng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm làm cơ sở kích thích phát triển du lịch trên địa bàn toàn tỉnh. Trong đó, đáng chú ý là việc phấn đấu mức chi hỗ trợ cho phát triển du lịch bằng 0,5% tổng chi ngân sách hằng năm của tỉnh để hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng tại các điểm, khu du lịch; hỗ trợ công tác quảng bá, xúc tiến du lịch và đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch; đồng thời kết hợp với sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế để thúc đẩy phát triển du lịch trên địa bàn. Phát triển các tuyến giao thông, tăng cường các tuyến xe buýt đến các điểm, khu du lịch để thuận tiện cho du khách đi lại, tham quan. Mục tiêu là đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng và là một trong những động lực thúc đẩy KT - XH của tỉnh phát triển và đến năm 2020, phấn đấu đưa Dak Lak trở thành một trong những trọng điểm du lịch của Việt Nam. Để hiện thực hóa được điều này, ngành du lịch cần không ngừng tự “làm mới” mình, tăng cường hợp tác phát triển du lịch với các địa phương trong cả nước, chú trọng đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm – dịch vụ du lịch, tăng cường hơn nữa đầu tư cho chất lượng điểm đến.

Năm 2014, TP. Đà Lạt (Lâm Đồng) được Tổng cục Du lịch chọn là nơi tổ chức Năm Du lịch Quốc gia Tây Nguyên với chủ đề “Đại ngàn Tây Nguyên”. Như ông Y Wai Byă chia sẻ thì đây vừa là cơ hội, nhưng cũng là thách thức đối với ngành du lịch Dak Lak trong việc quảng bá hình ảnh về thiên nhiên và con người ở đây đến với bạn bè trong nước và quốc tế; thu hút các dự án đầu tư nhằm thúc đẩy phát triển ngành du lịch. Chính vì vậy, tỉnh đang tích cực chuẩn bị những điều kiện tốt nhất để “nhập cuộc” một cách trọn vẹn sự kiện mang tầm quốc gia này.

Lê Hương

Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

Tính đến ngày 20/12/2017, trên địa bàn Đắk Lắk có tổng cộng 201 đơn vị kinh doanh lưu trú du lịch. Nguồn: Internet.

Một số giải pháp phát triển du lịch tỉnh Đắk Lắk

Hà Thị Kim Duyên - Đại học Tây Nguyên

12:00 18/08/2019

Với điều kiện giao thông thuận lợi, Đắk Lắk là một trong những điểm đến du lịch hấp dẫn. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số lượng khách du lịch đến địa phương này có xu hướng tăng chậm và không đều, thậm chí có lúc giảm đáng kể. Để thu hút du khách, tỉnh Đắk Lắk cần có những chính sách, chiến lược phát triển du lịch một cách cụ thể, liên kết hợp tác giữa các tỉnh trong vùng và các tỉnh trong nước một cách chặt chẽ, hỗ trợ phát triển cơ cấu kinh tế - xã hội, thu hút khách du lịch đến Đắk Lắk.

Kinh tế du lịch trong mối quan hệ với hội nhập quốc tế

Phát triển du lịch tỉnh Thanh Hóa thành ngành kinh tế mũi nhọn

EU sẽ hỗ trợ Việt Nam xây dựng bộ chỉ số cạnh tranh điểm đến du lịch

Mở ra tư duy phát triển liên kết du lịch “biển, hải đảo – rừng, núi”

Phát triển kinh tế du lịch biển gắn với an ninh trật tự vùng Duyên hải Nam Trung Bộ

Đắk Lắk là một trong 5 tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên, diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 13.125 km2. Dân cư Đắk Lắk là cộng đồng gồm 44 dân tộc cùng chung sống, trong đó người Kinh chiếm trên 70%; các dân tộc thiểu số như Êđê, M’Nông, Thái, Tày, Nùng... chiếm khoảng 30% dân số toàn tỉnh.

Đắk Lắk có nhiều tiềm năng phát triển du lịch với các loại hình đa dạng như du lịch sinh thái, cảnh quan; du lịch văn hóa, lịch sử; lễ hội… Đầu tư khai thác các tiềm năng du lịch sẽ góp phần đáng kể vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

Tổng quan về phát triển du lịch tỉnh Đắk Lắk

Tình hình thu hút khách du lịch đến Đắk Lắk

Trong giai đoạn 2014-2017, khách du lịch đến Đắk Lắk tăng bình quân là 14,48%/năm, đến năm 2017 lên tới 703 nghìn lượt khách. Trong đó, khách nội địa tăng bình quân 14,56%, khách quốc tế tăng bình quân 13,83%. Điều đáng quan tâm là trong khi khách nội địa tăng đột biến (tăng 20,48% so với năm trước) khách quốc tế lại có hướng giảm đều qua các năm 2015, 2016.

Tóm lại trong giai đoạn từ 2014-2017, nhịp độ tăng của cả khách nội địa và khách quốc tế không đều đặn. Điển hình như: Năm 2017, khách quốc tế đến tỉnh này đạt 67 nghìn lượt người, khách nội địa đạt 636 nghìn lượt người (Bảng 1).

Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

So với mục tiêu của chiến lược, thực tế khách du lịch đến Đắk Lắk đều vượt chỉ tiêu đề ra. Một mặt, do nền kinh tế vẫn chưa hết khó khăn, người dân vẫn còn xu hướng hạn chế các khoản chi tiêu cho hoạt động du lịch. Mặt khác, du lịch tỉnh Đắk Lắk còn nhiều khó khăn trong việc giữ chân du khách lâu dài, do sản phẩm du lịch không mới, trùng lắp giữa nhiều điểm du lịch; Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, liên kết và hợp tác phát triển du lịch liên vùng, khu vực còn hạn chế; Chất lượng dịch vụ, nguồn nhân lực du lịch chưa cao...

Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

Về nguồn nhân lực ngành du lịch trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Do hoạt động kinh doanh du lịch mới được phát triển trên địa bàn Tỉnh trong những năm gần đây nên đội ngũ cán bộ, nhân viên kinh doanh du lịch còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng.

Năm 2010, toàn Tỉnh có 1.800 lao động trong ngành Du lịch, số lao động tăng gần 2 lần so với năm 2005 (năm 2005, số lao động là 920 người). Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 13,10%/năm (giai đoạn 2006-2010). Mặc dù, tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, song chất lượng nguồn nhân lực vẫn là điểm yếu. Số lao động chưa qua đào tạo chiếm hơn 55% (khoảng 1.000 người), tác động trực tiếp đến chất lượng của hoạt động du lịch của Tỉnh.

Về các loại hình và sản phẩm du lịch của Đắk Lắk

Các giá trị văn hóa từ di sản thế giới “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” trải dài trên 5 tỉnh Tây Nguyên: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng với chủ thể gồm nhiều dân tộc khác nhau: Ê đê, M’nông, Ba Na, Mạ, Lạch… Những giá trị văn hóa chính của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên bao gồm: Cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước...) và những địa điểm tổ chức các lễ hội (nhà dài, nhà rông, rẫy, bến nước...) được UNESCO công nhận là “Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại” vào ngày 25/11/2005.

Đối với ngành Du lịch Đắk Lắk, “Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên” đặc biệt có giá trị cao, có khả năng kết hợp với các tài nguyên du lịch khác nhau tạo thành những sản phẩm hấp dẫn khách du lịch.

Tài nguyên du lịch được khai thác phát triển du lịch như sinh thái, văn hóa, cà phê, voi, cồng chiêng… đã hình thành một số khu, điểm du lịch nổi bật như Khu Du lịch thác Dray Sáp Thượng, Khu Du lịch Văn hóa sinh thái Buôn Đôn, du lịch cầu treo buôn Trí - Buôn Đôn; Du lịch hồ Lắk; làng du lịch văn hoá Buôn Jun - huyện Lăk; điểm Du lịch thác Bảy nhánh - Buôn Đôn; du lịch Vườn quốc gia Yok Đôn; Công viên nước Đắk Lắk... Với tiềm năng khai thác du lịch hiện nay, ngành Du lịch đã thu hút được các doanh nghiệp lữ hành trong khu vực và trên cả nước kết nối tour đưa khách du lịch đến Đắk Lắk tham quan, nghỉ dưỡng.

Về cơ sở lưu trú du lịch và cơ sở kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

Tính đến ngày 20/12/2017, trên địa bàn Đắk Lắk có tổng cộng 201 đơn vị kinh doanh lưu trú du lịch với 4.304 buồng/phòng. Thực tế trong những năm qua, nhiều cơ sở lưu trú có quy mô lớn trên địa bàn đã khẳng định được thương hiệu khi tham gia phục vụ thành công các sự kiện lớn của quốc gia và quốc tế như: Hội nghị giữa kỳ các nhà tài trợ ODA, Hội nghị Tam giác phát triển Campuchia – Lào – Việt Nam, Giải bóng chuyền nữ quốc tế Châu Á và quốc tế VTV Cup… Qua đó, các cơ sở lưu trú du lịch đã góp phần tạo dựng ấn tượng và hình ảnh đẹp về du lịch Đắk Lắk trong lòng du khách trong nước và quốc tế.

Ngoài ra, trong Tỉnh còn có sự tham gia của 40 đơn vị kinh doanh lữ hành (trong đó, có 10 đơn vị kinh doanh lữ hành quốc tế); 02 cơ sở ăn uống đạt chuẩn phục vụ khách du lịch; 01 cơ sở kinh doanh dịch vụ mua sắm đạt chuẩn phục vụ khách du lịch; 20 đơn vị kinh doanh khu, điểm du lịch; 04 đơn vị kinh doanh vận chuyển khách du lịch; cấp 65 thẻ hướng dẫn viên du lịch (trong đó, có 31 thẻ hướng dẫn viên quốc tế).

Thống kê về tình hình doanh thu du lịch

Doanh thu du lịch tỉnh Đắk Lắk có sự tăng trưởng đáng kể. Doanh thu du lịch tăng đều qua các năm, mức tăng trung bình đạt khoảng 18,5%/năm. Năm 2014, doanh thu du lịch, đạt 102,86% so với kế hoạch, tăng 15,94% so với cùng kỳ năm trước. Đến năm 2017, doanh thu thực tế là 600 tỷ đồng, đạt 101,67% so với kế hoạch và tăng 27,08% so với năm 2016 (Bảng 2).

Hoạt động kinh doanh du lịch của tỉnh Đắk Lắk trong những năm qua đã có những bước phát triển mạnh mẽ, không chỉ thể hiện ở sự tăng trưởng của các chỉ tiêu đánh giá ngành Du lịch như: Lượt khách du lịch, doanh thu du lịch, cơ sở lưu trú, mà còn có sự chuyển biến rõ nét về mọi mặt kinh tế - xã hội. Hiệu quả hoạt động của ngành Du lịch đã đóng góp tích cực vào công cuộc chuyển đổi cơ cấu ngành của địa phương, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển các ngành kinh tế - xã hội và đặc biệt là cải thiện, nâng cao đời sống của cộng đồng dân cư.

Một số vấn đề đặt ra

Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động du lịch ở Đắk Lắk còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế, cụ thể như:

Hạ tầng xã hội còn yếu kém, trình độ dân trí và chất lượng lao động thấp; Mạng lưới cơ sở hạ tầng chưa được phát triển đầy đủ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và du lịch; Môi trường sinh thái suy giảm ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên du lịch; việc khai thác và thu hút khách du lịch là người nước ngoài còn hạn chế. Đồng thời, do xa các trung tâm kinh tế và du lịch lớn của Việt Nam, cùng với chất lượng hệ thống giao thông đường bộ còn han chế nên Đắk Lắk phần nào bị hạn chế sức hấp dẫn đối với khách du lịch.

Bên cạnh đó, sản phẩm du lịch của Đắk Lắk hiện nay còn đơn điệu, khả năng khai thác, mở rộng thị trường ra nước ngoài của các công ty lữ hành còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng to lớn về du lịch của địa phương. Chủ yếu vẫn là các tour tham quan thắng cảnh, di tích, các buôn dân tộc và các lễ hội. Những sản phẩm du lịch này chủ yếu dựa trên những nguồn tài nguyên sẵn có như cảnh đẹp thiên nhiên, lối sống tự nhiên của đồng bào dân tộc mà chưa có sự đầu tư, khai thác và phát triển để chúng trở nên phong phú, đặc sắc và cuốn hút du khách. Giữa các điểm du lịch cũng chưa có sự liên kết chặt chẽ cũng như, các sản phẩm du lịch trong mỗi điểm còn rời rạc, tách biệt nhau.

Cùng với sự phát triển của du lịch, số cơ sở lưu trú và chất lượng dịch vụ cũng tăng lên. Các khách sạn chú trọng vào việc nâng cao chất lượng phòng ở, dịch vụ ăn uống, đi lại. Đội ngũ lao động của một số khách sạn lớn được huấn luyện nghiệp vụ, phục vụ tốt. Nhìn chung, cơ sở lưu trú ở Đắk Lắk khá nhiều, chất lượng một số khách sạn đạt loại tốt. Các khách sạn và nhà nghỉ thường có phục vụ ăn uống và các món ăn đặc sản theo yêu cầu của khách. Tuy nhiên, đa số các khách sạn và nhà nghỉ chỉ tập trung trong phạm vi TP. Buôn Mê Thuột. Các khách sạn ở huyện thường có quy mô nhỏ, phục vụ chưa chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách.

Có thể nói, trong điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch hiện nay là một cố gắng lớn, mặc dù mới chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu của du lịch. Do đó, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng dịch vụ và trình độ nghiệp vụ cần được đánh giá đúng mức để cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố thúc đẩy du lịch phát triển theo hướng bền vững.

Giải pháp phát triển bền vững du lịch tỉnh Đắk Lắk

Để thu hút du khách, tỉnh Đắk Lắk cần có những chính sách, chiến lược phát triển du lịch một cách tổng thể và cụ thể, liên kết hợp tác giữa các tỉnh trong vùng và các tỉnh lân cận một cách chặt chẽ. Trước tiên cần chú ý một số nội dung quan trọng sau:

Thứ nhất, nâng cao lượng khách du lịch thông qua đẩy mạnh công tác cập nhật, trao đổi thông tin, hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch. Chủ động xây dựng và phát triển các chương trình du lịch riêng, sản phẩm du lịch mang tính đặc thù cũng như tạo thương hiệu riêng cho từng điểm đến du lịch tại tỉnh Đắk Lắk.

Thứ hai, nâng cao nguồn nhân lực cho ngành Du lịch thông qua tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về du lịch văn hoá và sinh thái; tăng cường quản lý nhà nước và phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao; Thực hiện công tác đào tạo, đào tạo lại thường xuyên nhằm nâng cao trình độ quản lý, năng lực công tác và nghiệp vụ du lịch cho cán bộ đang công tác trong ngành; Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát để kịp thời chấn chỉnh những vấn đề bất cập nảy sinh trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch.

Thứ ba, hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng du lịch, bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hoá và phát triển các lễ hội truyền thống phục vụ du lịch; Đồng thời, cần đầu tư phát triển các công trình vui chơi giải trí mang tính đặc trưng của tỉnh Đắk Lắk, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của du khách trong và ngoài nước; Nâng cao các tiêu chuẩn về dịch vụ khách du lịch, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế; Đầu tư hạ tầng, xây dựng các khu, điểm du lịch, tạo cơ sở cho sự hình thành và phát triển của các sản phẩm du lịch, tạo sự thay đổi về chất trong hoạt động phát triển du lịch của tỉnh Đắk Lắk.

Tài liệu tham khảo:

  1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Đắk Lắk (2014-2017), Số lượng khách du lịch đến Đắk Lắk thời kỳ 2014 – 2017;
  2. Cục Thống kê tỉnh Đắk Lắk (2015-2018), Niên giám thống kê các năm 2014 đến năm 2017;
  3. Nguyễn Lâm Tùng, “Một số giải pháp phát triển ngành du lịch Việt Nam”, Tạp chí Tài chính tháng 9/2017;
  4. Trần Thị Thủy, Đậu Quang Vinh, “Một số giải pháp phát triển du lịch cộng đồng gắn với xóa đói giảm nghèo ở miền tây Nghệ An”, Tạp chí Khoa học – Công nghệ Nghệ An, tháng 10/2014.

In bài viết

kinh tế - xã hội chính sách du lịch khách du lịch Đắk Lắk

THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM

  • Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

    Tăng tốc với EVFTA: Ngành dệt may sẵn sàng cho cột mốc 1/8

  • Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

    Gia tăng đầu tư để đưa thêm hàng Việt Nam vào EU

  • Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

    DATC xử lý tốt nợ xấu của các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp

Tin nổi bật

Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

Giải pháp phát triển thị trường vốn, bất động sản lành mạnh

Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ gắn với hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả

Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

Kết quả thực hiện cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng giai đoạn 2021 – 2025

Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

Khắc phục khó khăn trong triển khai áp dụng hóa đơn điện tử tại hộ kinh doanh

Đánh giá tình thu hút và cạnh tranh của Đắk Lắk dựa trên mô hình chủ ký sống của điểm đến

Giải pháp thực hiện Chiến lược Tài chính đến năm 2030