Đánh giá kiến trúc ngọ môn

Ngọ Môn Huế là cổng chính phía Nam của Hoàng Thành được xem là bộ mặt của kinh thành vương triều phong kiến. Hình ảnh Ngọ Môn gắn liền với đất cố đô Huế, với kiến trúc đặc sắc có gía trị lịch sử và có ý nghĩa quan trọng trong nền văn hoá nước ta.

Đánh giá kiến trúc ngọ môn

Cùng với cầu Trường Tiền, tháp chùa Thiên Mụ, Kỳ Đài, Ngọ Môn là hình ảnh tượng trưng của thành phố Huế và quẩn thể di tích cố đô Huế.

Ngọ Môn được xây dựng vào năm 1833 dưới thời vua Minh Mạng. Ngọ Môn có chiều dài 57,95m, rộng 27,5m, cao 14,8m, gồm 2 phần:

1. Phần đền đài là đá ghép gạch vồ có cửa ra vào, dốc thoai thoải tạo chân vững chắc. Cửa chính của Ngọn Môn dành cho vua đi, cửa này cao 4,2m, rộng 3,7m. Tả Hữu Giáp môn dành cho các quan văn võ. Tả Hữu Dịch môn dành cho lính tráng, voi ngựa theo đoàn.

2. Phần trên có lầu Ngũ Phụng cao 2 tầng bằng gỗ sơn son thếp vàng, tổng cộng lầu có 100 cột lớn nhỏ chèo chống. Trên mái lầu có kết cấu con lượn, nhìn xa như cánh phụng nên được gọi là Ngũ Phụng.

Trên lầu Ngũ Phụng nhà vua thường ngự trong các dịp lễ. Đây còn là nơi hành lễ xướng danh các sỹ tử trúng tuyển trong các khoa thi hội, thi đình, trước khi danh sách đem yết ở Phu Văn Lâu.

Suốt thời Nguyễn, chỉ khi nào vua ra khỏi Hoàng Thành hoặc tiếp các sứ thần thì Ngọ Môn mới được mở.

Ngọ Môn được giới chuyên gia đánh giá là công tình kiến trúc cổ tiêu biểu của miền quê núi Ngự, sông Hương. Mặc dù đã trải qua gần 200 năm, đất nước bị sự tàn phá của nhiều cuộc chiến tranh, bão tố, nhưng Ngọ Môn vẫn đứng vững theo thời gian nhờ vào kỹ thuật xây dựng khéo léo, và kiến trúc thành thạo.

Có điều kiện du khách hãy du lịch Huế một chuyến để có thể tận mắt trông thấy được công trình kiến trúc độc đáo này và tìm hiểu về lịch sử dân tộc, Ngọ Môn Huế ngày xưa thường diễn ra những buổi lễ đề bạt quan trọng như Ban Sóc (ban lịch mới), truyền lô (tuyên bố tên tiến sỹ, tân khoa). Vào ngày 25 tháng 8 năm 1945, tại cửa Ngọ Môn Huế, vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam, vua Bảo Đại đã đọc tuyên ngôn thoái vị, trao chính quyền lại cho chính phủ lâm thời Việt Nam.

Người thiết kế xây dựng kiến trúc Ngọ Môn Huế phải là bậc uyên thâm dịch học, vì mọi thứ đều có con số khớp với Hà Đồ Lạc Thư, như cửa có 5 lối đi, lầu Ngũ phụng có 9 mái, cột có 100 cây, năm lối đi tượng trưng cho ngũ hành, 9 mái là trong Cửu Trù của Kinh dịch hoặc quẻ càn là ứng với mạng thiên tử. 100 cây cột là số cộng của Hà Đồ Lạc Thư về số chẵn và số lẻ.

Nhìn xa, Ngọ Môn Huế như một toà lâu đài nguy nga, tráng lệ, đồ sộ và nằm tại một vị trí thích hợp trong quần thể đền đài cung điện, xứng đáng là biểu tượng chốn kinh đô và liệt vào hàng công trình kiến trúc đặc sắc nhất của triều đại phong kiến nói riêng và Việt Nam nói chung.

Ngọ Môn là hình ảnh gắn liền với đất cố đô Huế, mặc nhiên là như vậy. Đó là một công trình kiến trúc đặc sắc có giá trị trên nhiều phương diện. Cùng với cầu Trường Tiền, Kỳ Đài, tháp chùa Thiên Mụ, Ngọ Môn là hình ảnh tiêu biểu nhất của thành phố Huế và Quần thể di tích cố đô Huế - Di sản văn hóa thế giới.

Một tuyệt tác kiến trúc

Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng thành Huế, cũng được coi là bộ mặt của Hoàng thành và vương triều phong kiến. Ngọ Môn được xây dựng dưới thời vua Minh Mạng - vua thứ 2 của nhà Nguyễn.

Đánh giá kiến trúc ngọ môn

Năm 1833, trong công cuộc quy hoạch xây dựng, nâng cấp tổng thể Hoàng cung triều Nguyễn, vua Minh Mạng đã cho xây dựng Ngọ Môn - cổng chính phía nam Hoàng thành. Tại vị trí này trước kia có kiến trúc Nam Khuyết đài, được xây dựng dưới thời Gia Long. Trên đài có điện Càn Nguyên, hai bên có hai cửa là tả Đoan Môn và hữu Đoan Môn. Tất cả các kiến trúc này đã bị triệt giải để xây dựng Ngọ Môn.

Theo Kinh Dịch, vua luôn ngồi quay mặt về hướng nam để trị thiên hạ. Chính vì vậy, toàn bộ Kinh thành, Hoàng thành được quy hoạch xây dựng theo nguyên tắc “tọa càn hướng tốn” (tây bắc - đông nam). Ngọ Môn cũng là cổng lớn nhất trong 4 cổng Hoàng thành. Căn cứ trên la bàn, phía nam thuộc hướng “ngọ” trên trục “tý - ngọ” (bắc - nam), vì thế, cái tên Ngọ Môn mang ý nghĩa về không gian, phương hướng chứ không phải về thời gian. Là cổng chính nhưng Ngọ Môn không được sử dụng nhiều vì mang tính nghi thức cao. Cổng thường chỉ mở trong những dịp đặc biệt như khi vua ra vào Hoàng thành có đoàn ngự giá, hay trong những dịp tiếp đón sứ thần ngoại quốc quan trọng của Hoàng cung.

Về mặt công năng, Ngọ Môn không chỉ là cổng Hoàng thành, mà còn là một lễ đài hướng về quảng trường rộng lớn phía trước từ lớp tường Hoàng thành tới lớp tường Kinh thành - nơi thẳng trục có kiến trúc quan trọng khác là Kỳ đài nằm ngay trong tường của Kinh thành. Lễ đài và quảng trường này là nơi cử hành các cuộc lễ lớn của triều đình như lễ Truyền lô (xướng danh các sĩ tử thi đỗ Tiến sĩ), lễ Ban sóc (Phát lịch), lễ Duyệt binh... Ngọ Môn cũng là địa điểm lịch sử - nơi diễn ra lễ thoái vị của vua Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều đại phong kiến Việt Nam, vào ngày 30-8-1945.

Kiến trúc của Ngọ Môn là một phức hệ, có thể chia ra làm hai phần chính: Phần nền đài ở phía dưới và lầu Ngũ Phụng ở phía trên. Tuy tính chất và vật liệu xây dựng rất khác nhau nhưng hai thành phần này lại được thiết kế ăn khớp, hài hòa với nhau, trở thành một tổng thể thống nhất.

Hệ thống nền đài Ngọ Môn được xây bằng gạch vồ và đá Thanh, kết hợp kim loại (đồng). Nền đài có mặt bằng hình chữ U vuông góc, lòng hướng ra ngoài Hoàng thành. Ở phần giữa nền đài có 3 cửa đi song song nhau: Ngọ Môn ở giữa dành cho vua đi, hai bên là các cửa tả Giáp Môn và hữu Giáp Môn dành cho các quan văn võ trong đoàn ngự đạo. Đây là phần được xây dựng bằng đá. Ở trong lòng cánh chữ U mỗi bên có một cửa chạy xuyên qua lòng đài như đường hầm, lối ra - vào bên ngoài vuông góc với đường dũng đạo (trục chính). Hai lối này gọi là tả Dịch Môn và hữu Dịch Môn, dành cho quân lính và voi ngựa theo hầu. Các cổng tả Dịch Môn và hữu Dịch Môn được xây kết cấu theo lối cuốn vòm và đỉnh cổng có hình cung, còn ba cổng ở giữa lại được thiết kế và xây dựng vuông - thẳng. Phía trong Ngọ Môn (phía Hoàng thành) có hệ thống thang lộ thiên ở hai bên để đi lên trên nền đài. Xung quanh mặt trên nền đài được bao bởi hệ thống lan can trang trí bằng gạch hoa đúc rỗng tráng men ngũ sắc.

Lầu Ngũ Phụng là hệ thống kiến trúc đặt phía trên nền đài, được xây dựng bằng kết cấu gỗ. Lầu có mặt bằng hình chữ U tương ứng với mặt bằng nền đài, gồm hai tầng lầu, hai tầng mái, được dựng trên nền cao 1,14m. Hệ thống mái tầng dưới chạy vòng quanh suốt để che mưa nắng tất cả phần hồi lang. Hệ thống mái tầng trên phức tạp hơn, được chia làm 9 bộ mái, trong đó phần mái ở giữa cao hơn 8 bộ còn lại. Bộ mái giữa cùng với phần mái tương ứng ở hệ thống mái dưới được lợp ngói hoàng lưu ly - là nơi vua ngự; các phần mái khác được lớp ngói thanh lưu ly. Các bờ nóc, bờ quyết, hồi mái được trang trí bằng nhiều chi tiết hoa văn tinh xảo. Phần lầu giữa lợp ngói hoàng lưu ly được lắp hệ thống cửa gỗ kính phía trước, các phía còn lại thưng vách gỗ. Đây là chỗ ngự tọa của vua khi dự lễ.

Biểu tượng của xứ Huế

Trải qua hơn 180 năm với những tác động của thời gian, thiên nhiên - khí hậu nhưng Ngọ Môn vẫn tồn tại và đứng vững tới ngày hôm nay để trở thành một biểu tượng của xứ Huế.

Kiến trúc sư, nhà quy hoạch đô thị Nguyễn Trọng Huấn, một người con xứ Huế, có nhiều tâm huyết với mảnh đất cố đô và cũng là người dày công nghiên cứu lịch sử - văn hóa - kiến trúc Huế đã viết về Ngọ Môn như sau: “Nhiều người thường so sánh Ngọ Môn của kinh thành Huế với Thiên An Môn ở Bắc Kinh và có ý chê rằng Ngọ Môn quá nhỏ... Tuy nhiên, xét về phương diện nghệ thuật, một Ngọ Môn với lầu Ngũ Phụng ở kinh thành Huế giá trị nghệ thuật không thua kém, nếu không nói là hơn hẳn Thiên An Môn về tính nhân văn. Cùng một công năng, nhưng Ngọ Môn thân thiết, gần gũi hơn, hấp dẫn hơn, quyến rũ hơn. Ngọ Môn với ngói lưu ly, lầu Ngũ Phụng, vút bay như một cánh chim, thơ thới, nhẹ nhàng, hòa vào thiên nhiên, đầy chất thơ”.

Tiến sĩ Sử học Phan Thanh Hải, nguyên Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã nhận xét về Ngọ Môn: “Nổi bật giữa bóng cây xanh, hoa cỏ và mặt nước, Ngọ Môn Huế luôn gợi cho người ta một cảm giác thư thái và yên bình. Có lẽ vì thế mà thật tự nhiên, hình ảnh chiếc cửa này đã trở thành biểu tượng cho xứ Huế”.

Anh Nguyễn Anh Tuấn, du khách từ Hà Nội, một người yêu thích nhiếp ảnh chia sẻ: “Đã rất nhiều lần đến Huế, nhưng lần nào tôi cũng bắt đầu chuyến tham quan từ Ngọ Môn vào trong Đại Nội. Đối với tôi, Ngọ Môn là công trình đẹp nhất xứ Huế. Lần nào tôi cũng chụp ảnh công trình này nhiều nhất với những xúc cảm khác nhau...”.

Ngọ Môn là biểu tượng của kỹ thuật và trình độ xây dựng thời bấy giờ. Với khả năng sử dụng và phối hợp nhuần nhuyễn các loại vật liệu bản địa; những người thợ, những nghệ nhân đã làm nên một công trình bền vững hàng thế kỷ. Ngọ Môn cũng là minh chứng của nghệ thuật kiến trúc - điêu khắc đậm tính bản địa và bản sắc dân tộc; tiêu biểu cho kiến trúc triều Nguyễn ở Huế nói riêng và kiến trúc truyền thống Việt Nam nói chung. Đó là một kiệt tác, một đỉnh cao của kiến trúc Cung đình Huế; từng lưu dấu một kinh thành vàng son, là biểu tượng của vương triều phong kiến. Nhưng vượt lên cả yếu tố chính trị và thời cuộc, Ngọ Môn trở thành biểu tượng của Huế, mãi là hình ảnh đẹp không phai của miền cố đô thơ mộng.