Đánh giá chức năng thận chất năm 2024

Do thực phẩm (một số thực phẩm, ví dụ như củ cải đỏ, đại hoàng, đôi khi phẩm nhuộm màu thực phẩm, có thể khiến nước tiểu có màu đỏ)

  • Do thuốc (một số loại thuốc thông thường: phenazopyridine, trà thảo dược, diphenylhydantoin, rifampin, methyldopa, phenacetin, phenindione, phenolphthalein, phenothiazines và cây phan tả diệp có thể làm nước tiểu có màu từ vàng đậm tới vàng da cam hoặc đỏ)

Nồng độ protein cao trong nước tiểu gây ra tình trạng nước tiểu có nhiều bọt hoặc đi tiểu sủi bọt. Tiểu nhiều lần Tiểu dắt Tiểu dắt là tình trạng người bệnh cần phải đi tiểu rất nhiều lần trong ngày, hoặc vào ban đêm (tiểu đêm), hoặc cả hai, nhưng lượng nước tiểu bình thường hoặc ít hơn bình thường. Thường đi kèm... đọc thêm (đi tiểu thường xuyên hơn) cần được phân biệt với đa niệu Đa niệu Đa niệu là lượng nước tiểu > 3 L/ngày; đa niệu phải được phân biệt với tiểu dắt, đó là nhu cầu đi tiểu rất nhiều lần trong ngày hoặc ban đêm nhưng thể tích nước tiểu bình thường hoặc ít hơn... đọc thêm (lượng nước tiểu lớn hơn bình thường) ở những bệnh nhân tiểu tiện quá mức. Tiểu đêm có thể là đặc trưng của một trong hai tình trạng rối loạn trên, nhưng thường là kết quả của việc uống quá nhiều nước gần giờ đi ngủ, phì đại tiền liệt tuyến Tăng sản tuyến tiền liệt lành tính (BPH) Tăng sản tuyến tiền liệt lành tính (BPH) là sự phát triển quá mức không ác tính tuyến tiền liệt bao quanh niệu đạo. Triệu chứng là biểu hiện tắc nghẽn đường ra của bàng quang-dòng tiểu yếu,... đọc thêm , hoặc bệnh thận mạn Bệnh thận mạn Bệnh thận mạn (CKD) là sự suy giảm chức năng thận tiến triển, kéo dài. Các triệu chứng tiến triển chậm và trong các giai đoạn tiến triển có các triệu chứng bao gồm chán ăn, buồn nôn, nôn ói... đọc thêm

Đánh giá chức năng thận chất năm 2024
. Tiền sử gia đình rất hữu ích để xác định các kiểu di truyền và nguy cơ mắc bệnh thận đa nang Bệnh thận đa nang di truyền gen trội nhiễm sắc thể thường (ADPKD) Bệnh thận đa nang (PKD) là một rối loạn di truyền về sự hình thành nang thận gây ra sự tăng kích thước dần dần của cả hai thận, đôi khi kèm theo sự tiến triển đến suy thận. Hầu như tất cả các... đọc thêm
Đánh giá chức năng thận chất năm 2024
hoặc các bệnh thận di truyền khác (ví dụ: viêm thận di truyền, bệnh màng đáy mỏng Bệnh màng đáy mỏng Bệnh màng đáy mỏng là sự mỏng màng đáy cầu thận lan tỏa từ rộng 300 đến 400 nm ở các cá thể bình thường đến 150 đến 225 nm. Bệnh màng đáy mỏng là một loại của hội chứng viêm thận. Đây là bệnh... đọc thêm
Đánh giá chức năng thận chất năm 2024
, hội chứng móng-xương bánh chè Hội chứng móng - xương bánh chè Hội chứng móng-xương bánh chè là một rối loạn di truyền hiếm gặp của trung mô đặc trưng bởi những bất thường của xương, khớp, móng tay và móng chân, và thận. Chẩn đoán là lâm sàng. Không có... đọc thêm , xistin niệu Cystin niệu Cystin niệu là một khiếm khuyết di truyền của ống thận trong đó quá trình tái hấp thu cystine (homodimer của axit amin cysteine) bị suy giảm, bài tiết qua nước tiểu tăng lên và hình thành sỏi... đọc thêm , tăng oxalat niệu). Đau hạ sườn có thể thứ phát sau viêm thận bể thận hoặc tắc nghẽn do sỏi thận Sỏi tiết niệu Sỏi tiết niệu là những phân tử rắn trong hệ tiết niệu. Chúng có thể gây đau, buồn nôn, nôn ói, đái máu và có thể gây sốt, rét run vì nhiễm trùng thứ phát. Chẩn đoán dựa trên chẩn đoán hình ảnh... đọc thêm .

Tiếng cọ màng ngoài tim và tiếng cọ màng phổi có thể là triệu chứng của hội chứng tăng ure huyết. Bệnh nhân có thể có biểu hiện ran nổ ở phổi thứ phát sau phù phổi do giữ nước trong bệnh thận cấp tính hoặc mạn tính.

Dấu hiệu vỗ hông lưng là khi bác sĩ nắm tay tác động lực nhẹ vào vùng lưng, mạng sườn và góc tạo bởi xương sườn thứ 12 và cột sống thắt lưng thì bệnh nhân đau, có thể gặp trong hoặc tắc nghẽn đường tiết niệu Bệnh thận tắc nghẽn Bệnh thận tắc nghẽn là sự cản trở dòng tiểu bình thường do bất thường về cấu trúc hoặc chức năng, đôi khi dẫn đến rối loạn chức năng thận (bệnh thận tắc nghẽn). Bệnh thận tắc nghẽn mạn tính... đọc thêm (ví dụ, do sỏi). Thận bình thường không sờ thấy. Tuy nhiên, ở một số phụ nữ, đôi khi có thể cảm nhận cực dưới của thận bên phải bằng cách sờ nắn khi bệnh nhân hít vào sâu, và khi thận to hoặc có các khối u thì có thể sờ thấy được mà không cần làm nghiệm pháp đặc biệt. Ở trẻ sơ sinh, có thể khám thấy thận bằng ngón tay cái, khi ngón tay cái được đặt trước và các ngón tay còn lại đặt ở phía sau vị trí góc sườn cột sống.

Phương pháp chiếu sáng qua mô có thể phân biệt khối u thận đặc với khối u nang thận ở một số trẻ < 1 tuổi nếu thận và khối u được ép vào thành bụng.

Bệnh thận mạn có thể gây ra một số vấn đề sau đây:

  • Da xanh do thiếu máu
  • Sạm da do lắng đọng melanin
  • Da tái xám hoặc vàng nâu do lắng đọng sắc tố urochrome
  • Chấm nốt xuất huyết hoặc mảng bầm tím do rối loạn chức năng tiểu cầu

Hiếm gặp lớp phấn trắng trên bề mặt da do sự lắng đọng các tinh thể ure sau khi mồ hôi bị bốc hơi.

  • Suy gan mạn tính
  • Cacbon dioxid
  • Bệnh não nhiễm độc

Những bước đầu tiên để đánh giá rối loạn chức năng thận là:

  • Xét nghiệm nước tiểu
  • Nồng độ creatinine huyết thanh

Các xét nghiệm nước tiểu, máu và các phương tiện chẩn đoán hình ảnh khác (ví dụ siêu âm, CT, MRI) được thực hiện tùy trường hợp cụ thể. Mẫu nước tiểu lý tưởng nhất được lấy sau khi làm sạch lỗ niệu đạo ngoài, mẫu nước tiểu được lấy ở giữa dòng (mẫu sạch) khi bệnh nhân đi bãi nước tiểu đầu tiên vào buổi sáng; cần xét nghiệm nước tiểu ngay bởi nếu chậm trễ có thể dẫn đến thay đổi kết quả xét nghiệm. Đặt ống thông bàng quang Đặt ống thông bàng quang Thủ thuật đặt ống thông bàng quang thường được thực hiện trong những trường hợp sau: Lấy nước tiểu để làm xét nghiệm Đo lượng nước tiểu tồn dư Giải quyết tình trạng bí tiểu hoặc tiểu không tự... đọc thêm hoặc chọc hút trên xương mu có thể được sử dụng để lấy mẫu khi không thể lấy được nước tiểu, do bệnh nhân tiểu không tự chủ, hoặc có khí hư làm bẩn mẫu nước tiểu. Tuy nhiên, chấn thương khi đặt ống thông có thể làm tăng sai số số lượng hồng cầu (RBC) trong bệnh phẩm, vì vậy tránh đặt ống thông thường nếu kết quả cần quan tâm là tiểu tiện máu vi thể. Mẫu xét nghiệm lấy từ túi đựng nước tiểu dẫn lưu không được chấp nhận để soi kính hiển vi hoặc xét nghiệm vi khuẩn.

Phân tích nước tiểu đầy đủ gồm có:

  • Kiểm tra màu sắc, cảm quan và mùi
  • Đo pH, trọng lượng riêng, protein, glucose, hemoglobin (gợi ý RBC), nitrit và esterase của bạch cầu (WBC) bằng thuốc thử que thăm
  • Soi kính hiển vi phát hiện trụ niệu, tinh thể, và các tế bào (cặn nước tiểu)

Mặc dù các que thử vẫn còn chức năng xét nghiệm bilirubin và urobilinogen niệu, nhưng chúng không còn đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá các bệnh lý tại thận hoặc gan.

Màu sắc là thuộc tính rõ ràng nhất của nước tiểu và việc quan sát màu sắc là một phần không thể thiếu trong quá trình phân tích nước tiểu (xem bảng ). Màu nước tiểu có thể gợi ý nguyên nhân và giúp đề ra các xét nghiệm bổ sung.

Đánh giá chức năng thận chất năm 2024

Mùi, chỉ vô tình phát hiện bất thường lúc quan sát, nó cung cấp những thông tin hữu ích trong một số trường hợp bệnh lý rối loạn chuyển hóa axit amin di truyền hiếm gặp. Khi đó, nước tiểu có mùi đặc biệt (ví dụ, mùi xi rô cây phong trong , mùi mồ hôi chân khi , mùi nước tiểu mèo khi thiếu hụt carboxylase [xem bảng Rối loạn chuyển hóa axit amin chuỗi nhánh Rối loạn chuyển hóa axit amin phân nhánh Valine, leucine, và isoleucine là axit amin phân nhánh; sự thiếu hụt các enzym tham gia vào quá trình chuyển hoá của chúng dẫn đến sự tích tụ các axit hữu cơ với tình trạng toan chuyển hóa nghiêm... đọc thêm ]).

Tỷ trọng cho biết sơ bộ độ đậm đặc của nước tiểu (độ thẩm thấu). Phạm vi bình thường là 1,001 đến 1,035; Giá trị có thể thấp ở những bệnh nhân cao tuổi hoặc những người bị suy chức năng thận, những người có khả năng cô đặc nước tiểu kém. Tỷ trọng được đo bằng phù kế hoặc khúc xạ kế hoặc được ước tính bằng que thử. Độ chính xác của que thử còn nhiều tranh cãi, nhưng xét nghiệm này phù hợp với những bệnh nhân sỏi thận cần tự theo dõi nồng độ nước tiểu để duy trì độ pha loãng nước tiểu. Tỷ trọng được đo bằng que thử nước tiểu có thể tăng cao khi pH nước tiểu < 6 hoặc thấp khi pH nước tiểu \> 7. Tỷ trọng được đo bằng phù kế và khúc xạ kế có thể tăng lên bởi lượng lớn các phân tử có trọng lượng phân tử lớn (ví dụ: thuốc cản quang, albumin, glucose, carbenicillin) trong nước tiểu.

Protein, được phát hiện bằng xét nghiệm của que xét nghiệm nước tiểu tiêu chuẩn, phản ánh chủ yếu là nồng độ albumin trong nước tiểu, được phân loại là âm tính (< 10 mg/dL), vết (15 đến 30 mg/dL), hoặc 1+ (30 đến 100 mg/dL) cho đến 4+ (\> 500 mg/dL). Albumin niệu tăng vừa phải (trước đây được gọi là microalbumin niệu), một dấu hiệu quan trọng đối với các biến chứng thận ở bệnh nhân đái tháo đường, không được phát hiện bằng que thử nước tiểu tiêu chuẩn, nhưng có loại que thử microalbumin đặc biệt. Protein chuỗi nhẹ (ví dụ, do đa u tủy xương) cũng không phát hiện được. Ý nghĩa của protein niệu Protein niệu Protein niệu là protein, thường là albumin, trong nước tiểu. Nồng độ protein cao gây ra nước tiểu có nhiều bọt. Trong nhiều bệnh lý về thận, protein niệu xuất hiện cùng với các bất thường khác... đọc thêm phụ thuộc vào tổng lượng protein tiết ra hơn là nồng độ protein được ước tính bằng que thử; do đó, sau khi phát hiện protein niệu bằng que thử, nên tiến hành định lượng protein niệu. Kết quả âm tính giả có thể do nước tiểu bị pha loãng. Kết quả dương tính giả có thể là do bất kỳ điều nguyên nhân nào sau đây:

  • pH cao (\> 9)
  • Sự hiện diện của các loại tế bào
  • Các chất Cản quang
  • Nước tiểu cô đặc

Glucose thường xuất hiện trong nước tiểu khi glucose huyết thánh tăng lên\> 180 mg/dL (\> 10,0 mmol/L) và chức năng thận bình thường. Ngưỡng phát hiện glucose trong nước tiểu của que thử là 50 mg/dL (2,8 mmol/L). Glucose trong nước tiểu ở bất cứ nồng độ nào đều là tình trạng bất thường. Xét nghiệm với que thử glucose niệu nồng độ thấp hoặc âm tính giả có thể do một số nguyên nhân sau đây:

  • Axit ascorbic
  • Ketone
  • Aspirin
  • Levodopa
  • Tetracycline
  • pH nước tiểu rất cao
  • Nước tiểu bị pha loãng

Đái máu phát hiện được do hồng cầu bị ly giải trên băng vạch của que thử, giải phóng Hb và gây ra sự thay đổi màu sắc. Khoảng xét nghiệm từ âm tính (0) đến 4+. Hồng cầu dạng vết (tương ứng 3 đến 5 hồng cầu/vi trường độ phóng đại cao [HPF]) là bình thường trong một số trường hợp (ví dụ như tập thể dục) ở một số người. Vì thuốc thử của que thử phản ứng với Hb, Hb tự do (ví dụ: do tan máu nội mạch) hoặc myoglobin (ví dụ: do globin cơ niệu kịch phát Globin cơ niệu kịch phát Globin cơ niệu kịch phát là một hội chứng lâm sàng liên quan đến sự phá hủy mô cơ xương. Các triệu chứng và dấu hiệu bao gồm yếu cơ, đau cơ và nước tiểu màu nâu đỏ, mặc dù bộ ba này có mặt ở... đọc thêm ) gây ra kết quả dương tính. Đái hemoglobin và myoglobin niệu có thể phân biệt được với đái máu bằng cách xét nghiệm soi tìm hồng cầu trong nước tiểu và kiểu biến đổi màu sắc trên dải băng của que thử. Trong nước tiểu, hồng cầu tạo ra hình ảnh chấm hoặc đốm; Hb tự do và myoglobin tạo ra sự thay đổi màu sắc đồng nhất. Povidone iốt gây kết quả dương tính giả (đồng màu); axit ascorbic gây ra kết quả âm tính giả.

Nitrit được tạo ra do vi khuẩn phân hủy nitrat trong nước tiểu - nguồn gốc nitrat xuất phát từ chuyển hóa axit amin. Bình thường nitrit không có trong nước tiểu và khi xuất hiện báo hiệu có nhiễm trùng đường niệu. Kết quả xét nghiệm là dương tính hoặc âm tính. Âm tính giả có thể gặp do các nguyên nhân sau đây:

  • Vi khuẩn gây nhiễm trùng không thể chuyển đổi nitrat thành nitrit (ví dụ: Enterococcus faecalis, Neisseria gonorrhoeae, Mycobacterium tuberculosis)
  • Nước tiểu lưu lại ở bàng quang chưa đủ lâu (< 4 giờ)
  • Bài tiết muối nitrat thấp
  • Enzyme (của một số vi khuẩn) chuyển hóa nitrat thành nitơ
  • Lượng urobilinogen cao trong nước tiểu
  • Sự hiện diện của axit ascorbic
  • pH nước tiểu < 6.0
  • Nước tiểu rất loãng
  • Đái glucose
  • Urobilinogen
  • Sử dụng phenazopyridine, nitrofurantoin, rifampin, hoặc một lượng lớn vitamin C

Việc phát hiện các thành phần hữu hình (tế bào, trụ niệu, trụ tinh thể) đòi hỏi phân tích bằng kính hiển vi, lý tưởng nhất là khi mẫu xét nghiệm được làm ngay sau khi đi tiểu và sau khi phân tích bằng que thử. Mẫu được chuẩn bị bằng cách ly tâm 10 đến 15 mL nước tiểu với tốc độ 1500 đến 2500 vòng/phút trong 5 phút. Phần nổi phía trên được gạn tách đi; một lượng nhỏ còn lại của mẫu nước tiểu cùng với bã ở đáy ống ly tâm. Bã được trộn lại vào dung dịch bằng cách lắc nhẹ nhàng ống hoặc gõ nhẹ vào đáy ống. Một giọt mẫu được nhỏ lên lam kính và được phủ bằng một phiến kính. Đối với phân tích bằng kính hiển vi thông thường, nhuộm mẫu là tùy ý. Mẫu xét nghiệm được soi với ánh sáng cường độ thấp khi độ phóng đại nhỏ và ánh sáng cường độ cao khi độ phóng đại lớn; cách soi thứ hai thường được sử dụng cho phương pháp bán định lượng (ví dụ 10 đến 15 tế bào bạch cầu/vi trường có độ phóng đại cao [HPF]). Ánh sáng phân cực được sử dụng để xác định một số tinh thể và lipid trong nước tiểu. Kính hiển vi tương phản pha giúp tăng cường khả năng xác định tế bào và trụ niệu.

Tinh thể trong nước tiểu khá phổ biến và thường không có ý nghĩa về mặt lâm sàng. Sự hình thành tinh thể phụ thuộc vào các nguyên nhân sau đây: Sự hình thành tinh thể phụ thuộc vào các nguyên nhân sau đây:

  • Nồng độ của các thành phần tinh thể trong nước tiểu
  • pH
  • Thiếu hụt chất ức chế kết tinh

Nhiều loại thuốc được biết đến là nguyên nhân tạo tinh thể.

Đánh giá chức năng thận chất năm 2024

Đánh giá chức năng thận chất năm 2024

Trụ niệu được tạo thành từ glycoprotein chưa rõ chức năng (Tamm-Horsfall protein) được tiết ra từ nhánh lên quai Henle. Phôi có hình trụ và có biên đều đặn. Sự hiện diện của chúng cho biết nguồn gốc từ thận, có thể hữu ích trong chẩn đoán. Các loại trụ khác nhau về thành phần và hình thái..

Đánh giá chức năng thận chất năm 2024

Các xét nghiệm khác rất hữu ích trong các trường hợp cụ thể.

Tổng lượng protein bài tiết có thể được đo trong bộ sưu tập 24 giờ hoặc có thể được ước tính bằng tỷ lệ protein/creatinine, trong một mẫu nước tiểu ngẫu nhiên, tương quan tốt với các giá trị tính bằng g/1,73 m2 BSA (diện tích bề mặt cơ thể) từ 24- thu thập giờ (ví dụ, 400 mg/dL protein và 100 mg/dL creatinine trong một mẫu ngẫu nhiên bằng 4 g/1,73 m2 trong một bộ sưu tập 24 giờ). Tỷ lệ protein/creatinin ít chính xác hơn khi lượng creatinine bài tiết tăng lên (như ở vận động viên) hoặc giảm (như bệnh nhân suy kiệt).

Tăng vừa phải albumin niệu (trước đây gọi là microalbumin niệu) là sự bài tiết albumin liên tục từ 30 đến 300 mg/ngày (20 đến 200 microgam [mcg]/phút); lượng ít hơn được coi là trong phạm vi bình thường và lượng \> 300 mg/ngày (\> 200 mcg/phút) được coi là protein niệu quá mức (tăng albumin niệu nặng). Sử dụng tỷ số albumin/creatinin niệu là một xét nghiệm sàng lọc đáng tin cậy và thuận tiện hơn vì tránh được việc lấy mẫu nước tiểu và có mối tương quan tốt với các giá trị của mẫu nước tiểu 24 giờ. Giá trị \> 30 mg/g (\> 0,03 mg/mg) gợi ý tăng albumin niệu mức độ vừa phải. Xét nghiệm có độ tin cậy nhất khi sử dụng mẫu xét nghiệm vào giữa buổi sáng, tránh tập thể dục mạnh trước khi xét nghiệm (do tập thể dục mạnh có thể gây ra kết quả dương tính thoáng qua với protein) và không có sự sản sinh creatinine bất thường (ở bệnh nhân suy mòn hoặc rất cơ bắp). Tăng albumin niệu mức độ vừa phải có thể xảy ra trong tất cả các trường hợp sau:

Albumin niệu tăng mức độ vừa phải là giai đoạn sớm của bệnh thận do đái tháo đường ở cả đái tháo đường type 1 và type 2; tiến triển của bệnh thận dễ dự đoán hơn ở bệnh type 1 so với bệnh type 2. Albumin niệu tăng mức độ vừa phải là một yếu tố nguy cơ của rối loạn tim mạch và tử vong sớm do tim mạch không phụ thuộc vào đái tháo đường hoặc tăng huyết áp.

Axit sulphosalicylic (SSA) có thể được sử dụng để phát hiện protein không phải albumin (ví dụ, globulin miễn dịch ở bệnh đa u tuỷ xương) khi xét nghiệm nước tiểu bằng que thử là âm tính; nước tiểu trộn lẫn với SSA trở nên đục nếu có protein. Xét nghiệm này là xét nghiệm bán định lượng với thang chia từ 0 (không đục) đến 4+(chất kết tủa trắng). Kết quả đọc được có thể không chính xác và bị tăng bậc do sử dụng chất cản quang.

Ceton niệu xuất hiện trong nước tiểu cùng với các thể ceton trong máu, nhưng việc sử dụng các que thử để đo lượng ceton trong nước tiểu không còn được khuyến cáo bởi vì chúng chỉ đo axit acetoacetic và aceton mà không đo axit beta-hydroxybutricric. Do đó, kết quả âm tính giả có thể xảy ra ngay cả khi không có nguyên nhân bên ngoài tác động (ví dụ, vitamin C, phenazopyridine, N-acetylcysteine); đo trực tiếp các thể ceton trong huyết thanh là chính xác hơn. Ceton niệu được tạo ra do rối loạn nội tiết và chuyển hóa và không phản ánh rối loạn chức năng thận.

Đánh giá chức năng thận chất năm 2024

trong đó UNa là Na nước tiểu, PNa là Na huyết tương, PCr là creatinin huyết tương và UCr là creatinin nước tiểu.

Các chỉ số khác bao gồm:

  • Nồng độ canxi, magiê, axit uric, oxalat, citrat, và cystin giúp ích trong việc đánh giá sỏi tiết niệu

Bạch cầu ưa axit, những tế bào bắt màu đỏ tươi hoặc trắng hồng với thuốc nhuộm Wright hoặc Hansel, thường xuất hiện trong những trường hợp sau đây:

Tế bào học được sử dụng cho các trượng hợp sau:

  • Để sàng lọc bệnh ung thư ở những người có nguy cơ cao (ví dụ như các công nhân hóa dầu)
  • Để đánh giá chứng đái máu không đau dai dẳng không rõ nguyên nhân sau soi bàng quang trong trường hợp không có bệnh cầu thận (gợi ý bởi hồng cầu không bị thay đổi hình thái, protein niệu và suy thận) ở những bệnh nhân có các triệu chứng khó chịu khi đi tiểu

Độ nhạy khoảng 90% đối với ung thư biểu mô tại chỗ; tuy nhiên, độ nhạy cảm thấp sẽ hơn đáng kể đối với ung thư tế bào chuyển tiếp độ ác tính thấp. Phản ứng viêm hoặc tổn thương tăng sản phản ứng hoặc thuốc gây độc tế bào để điều trị ung thư biểu mô có thể cho kết quả dương tính giả. Độ chính xác để phát hiện khối u bàng quang có thể tăng lên nhờ việc rửa bàng quang mạnh bằng một lượng nhỏ dung dịch muối 0,9% (50mL dung dịch được đẩy vào và sau đó hút ra bằng bơm tiêm qua ống thông tiểu). Các tế bào thu được trong nước muối được ly tâm và kiểm tra.

Amino axit thường được lọc và hấp thụ lại bởi các ống lượn gần. Các axit này có thể xuất hiện trong nước tiểu khi có khiếm khuyết quá trình vận chuyển ống thận do di truyền hoặc mắc phải (ví dụ: hội chứng Fanconi Hội chứng Fanconi Hội chứng Fanconi bao gồm nhiều khiếm khuyết về tái hấp thu ở ống lượn gần, gây ra glucos niệu, phosphat niệu, axit amin niệu toàn bãi và thải bicarbonat. Bệnh có thể do di truyền hoặc mắc phải... đọc thêm , chứng cystin niệu). Xác định loại và lượng axit amin có thể giúp chẩn đoán một số bệnh sỏi thận Sỏi tiết niệu Sỏi tiết niệu là những phân tử rắn trong hệ tiết niệu. Chúng có thể gây đau, buồn nôn, nôn ói, đái máu và có thể gây sốt, rét run vì nhiễm trùng thứ phát. Chẩn đoán dựa trên chẩn đoán hình ảnh... đọc thêm , nhiễm toan ống thận Toan hóa ống thận Toan hóa ống thận (RTA) là tình trạng toan hóa và rối loạn điện giải do sự giảm bài tiết ion hydro ở thận (type 1), giảm tái hấp thu bicarbonat (type 2), hoặc rối loạn tổng hợp hoặc đáp ứng... đọc thêm , và những rối loạn chuyển hoá di truyền.

Xét nghiệm máu rất hữu ích trong việc đánh giá các bệnh lý thận.

Giá trị creatinin huyết thanh\> 1,3 mg/dL (\> 114 micromol/L) ở nam và \> 1 mg/dL (\> 88,4 micromol/L) ở nữ thường là bất thường. Creatinine huyết thanh phụ thuộc vào sự sản xuất creatinin cũng như sự bài tiết creatinine ở thận. Bởi vì sự luân chuyển creatinin tăng lên khi khối lượng cơ cao hơn, những người cơ bắp có nồng độ creatinin huyết thanh cao hơn và những người cao tuổi và suy dinh dưỡng có nồng độ thấp hơn.

Creatinine huyết thanh cũng có thể tăng lên trong các trường hợp sau:

  • Ăn nhiều thịt
  • Sử dụng một số loại thuốc (cimetidin, trimethoprim, cefoxitin, flucytosine)

Thuốc ức chế men chuyển angiotensin và thuốc ức chế thụ thể angiotensin II làm giảm có mức lọc cầu thận (GFR) có hồi phục và làm tăng creatinin trong huyết thanh vì các loại thuốc này làm giãn mạch hướng tâm nhiều hơn ở các tiểu động mạch, chủ yếu ở những người bị mất nước hoặc đang dùng thuốc lợi tiểu. Nói chung, creatinine huyết thanh không phải là một chỉ thị tốt về chức năng của thận. Công thức Cockcroft và Gault và công thức (MDRD) ước lượng mức lọc cầu thận dựa vào creatin huyết thanh và các chỉ số khác đánh giá chức năng thận một cách đáng tin cậy hơn.

Tỷ lệ urea nitrogen máu (BUN)/creatinin được sử dụng để phân biệt tăng ure huyết trước thận với tăng ure huyết tại thận hoặc tăng ure huyết sau thận (tắc nghẽn); giá trị \> 15 được coi là bất thường và có thể xảy ra trong tăng ure huyết trước thận và tăng ure huyết sau thận. Tuy nhiên, BUN bị ảnh hưởng bởi lượng protein ăn vào và một số nguyên nhân ngoài thận (ví dụ như chấn thương, nhiễm trùng, chảy máu đường tiêu hoá [GI], sử dụng corticosteroid) và mặc dù có giá trị gợi ý, nhưng tỷ số này không được kết luận là bằng chứng về rối loạn chức năng thận.

Renin, một enzyme proteolytic, được lưu trữ trong tế bào gần cầu thận của thận. Sự tiết renin được kích thích khi giảm thể tích tuần hoàn và giảm lưu lượng máu đến thận và bị ức chế khi có sự giữ muối, nước. Renin huyết tương được đánh giá bằng cách đo hoạt tính renin qua lượng angiotensin I được tạo ra mỗi giờ. Các mẫu bệnh phẩm nên được lấy ở những bệnh nhân không bị mất nước, không bị thiếu hụt natri và kali. Renin, aldosterone, cortisol và hormone vỏ thượng thận (ACTH) trong huyết tương nên được đo lường khi đánh giá tất cả những tình trạng sau:

Tỷ số aldosterone/renin huyết tương được tính toán từ các chỉ số thu được trên những bệnh nhân lấy máu xét nghiệm ở tư thế đứng, có giá trị sàng lọc tốt nhất cho cường aldosterone, miễn là hoạt tính renin huyết tương < 0,5 ng/mL/giờ (< 0,5 mcg/L/giờ) và aldosterone \> 12 đến 15 ng/dL (333 to 416 pmol/L).

Chức năng thận được đánh giá bằng các giá trị được tính toán từ các công thức dựa trên kết quả xét nghiệm máu và nước tiểu.

Mức lọc cầu thận (GFR) là thể tích máu được lọc qua thận mỗi phút, là thước đo tốt nhất về chức năng thận; nó được thể hiện bằng mL/phút. Bình thường, giá trị GRF gia tăng cùng với sự gia tăng kích thước cơ thể, do đó, người ta hay áp dụng yếu tố hiệu chỉnh bằng cách sử diện tích da (BSA). Sự điều chỉnh này là cần thiết để so sánh GFR của bệnh nhân với người bình thường và để xác định các giai đoạn khác nhau của bệnh thận mạn Bệnh thận mạn Bệnh thận mạn (CKD) là sự suy giảm chức năng thận tiến triển, kéo dài. Các triệu chứng tiến triển chậm và trong các giai đoạn tiến triển có các triệu chứng bao gồm chán ăn, buồn nôn, nôn ói... đọc thêm

Đánh giá chức năng thận chất năm 2024
. Với mức BSA trung bình là 1,73 m2, yếu tố điều chỉnh là 1,73/BSA của bệnh nhân; các kết quả GFR đã điều chỉnh được biểu diễn bằng ml/phút/1,73 m2.

GFR bình thường ở người trưởng thành trẻ, khỏe mạnh khoảng 120 đến 130 mL/phút/1,73 m2 và giảm theo tuổi khoảng 75 mL/phút/1,73 m2 ở tuổi 70. Bệnh thận mạn được định nghĩa là khi mức lọc cầu thận < 60 mL/phút/1,73 m2 trong \> 3 tháng. Tiêu chuẩn đo lường GFR là đo độ thanh thải inulin. Inulin vừa không bị hấp thu vừa không được tiết thêm bởi ống thận do đó nó là chất chỉ điểm lý tưởng để đánh giá chức năng thận. Tuy nhiên, việc đo lường này là rất phức tạp, do đó nó được sử dụng chủ yếu trong các nghiên cứu. Mức lọc cầu thận được ước tính chính xác hơn bằng cách kết hợp các phương trình CKD-EPI dựa trên creatinin và cystatin C hơn là bằng các phương trình chỉ sử dụng creatinin hoặc cystatin C ( ).

Sử dụng nước tiểu thu gom lại trong một khoảng thời gian (thường là 24 giờ), CrCl có thể được tính như sau

Đánh giá chức năng thận chất năm 2024

UCr là nồng độ creatinin trong nước tiểu, đơn vị: mg/ml, UVol là lượng nước tiểu thu gom được, đơn vị: mL/phút (1440 phút khi lấy đủ 24 giờ), và PCr là nồng độ creatinine huyết tương, đơn vị: mg/mL.

Do creatinin huyết thanh không đủ để đánh giá chức năng thận, nên một số công thức đã được đưa ra để ước lượng CrCl bằng creatinine huyết thanh và các yếu tố khác.

Công thức Cockcroft - Gault có thể được sử dụng để ước lượng CrCl. Nó sử dụng tuổi, cân nặng và mức creatinine huyết thanh. Công thức được tính toán dựa trên tiền đề rằng lượng creatinine được tạo ra hàng ngày là 28 mg/kg/ngày cùng với sự giảm 0,2 mg/năm tuổi.

Đánh giá chức năng thận chất năm 2024

Công thức tính toán Modification of Diet in Renal Disease (MDRD) (công thức 4 biến số) cũng có thể được sử dụng, mặc dù nó đòi hỏi phải tính toán bằng máy tính cầm tay hoặc hệ thống máy vi tính:

Đánh giá chức năng thận chất năm 2024

Đánh giá chức năng thận chất năm 2024

SCr là nồng độ creatinine huyết thanh, đơn vị mg/dL, kappa (κ) là 0,7 đối với nữ và 0,9 đối với nam, α là -0,241 đối với nữ và -0,303 đối với nam, min: biểu hiện giá trị nhỏ nhất của SCr/κ hoặc 1, và max: biểu hiện giá trị lớn nhất của SCr/κ hoặc 1.

  • 1. Inker LA, Schmid CH, Tighiouart H, et al: Estimating glomerular filtration rate from serum creatinine and cystatin C. N Engl J Med 5;367(1):20-29, 2012. doi:10.1056/NEJMoa1114248
  • 2. Delgado C, Bawega M, Burrows NR, et al: Reassessing the inclusion of race in diagnosing kidney diseases: An interim report from the NKF-ASN task force. Am J Kidney Dis 78(1):103-115, 2021. doi: 10.1053/j.ajkd.2021.03.008

3. Delgado C, Bawega M, Crews DC, et al: A unifying approach for CFR estimation: Recommendations of the NKF-ASN Task Force on reassessing the inclusion of race in diagnosis kidney disease. Am J Kidney Dis 79(2):268-288.e1, 2022. doi: 10.1053/j.ajkd.2021.08.003