Chuyển di ngôn ngữ là gì

Xem mẫu

Đỗ Thị Thúy Hà

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

188[12/3]: 227 - 233

BÀN VỀ HIỆN TƯỢNG CHUYỂN DI NGÔN NGỮ TRONG QUÁ TRÌNH
THỤ ĐẮC NGÔN NGỮ THỨ HAI THÔNG QUA CÁCH SỬ DỤNG
TỪ BIỂU THỊ MỤC ĐÍCH “为了” TRONG TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI
Đỗ Thị Thúy Hà*
Khoa Ngoại ngữ - ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT
Nghiên cứu về chuyển di ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng của nghiên cứu thụ đắc ngôn ngữ
thứ hai. Các nhà ngôn ngữ học đã sớm phát hiện ra rằng, việc học tập và nắm vững một loại ngôn
ngữ nào đó sẽ có tác dụng bổ trợ cho việc thụ đắc một loại ngôn ngữ khác. Trong quá trình thụ đắc
ngôn ngữ thứ hai, người học sẽ lợi dụng tất cả những kiến thức đã có về ngôn ngữ [ngôn ngữ thứ
nhất] để phát triển ngôn ngữ đích [ngôn ngữ thứ hai]. Điều đó có nghĩa là hiện tượng chuyển di
ngôn ngữ là không thể tránh khỏi. Nhưng chuyển di ngôn ngữ có mặt tích cực và mặt tiêu cực của
nó, do vậy, trong dạy học không thể coi nhẹ hiện tượng này. Bài viết trên cơ sở quan sát thực trạng
sử dụng từ biểu thị mục đích “为了” trong tiếng Hán hiện đại của sinh viên, đi sâu tìm hiểu ảnh
hưởng của sự chuyển di ngôn ngữ trong quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai và từ đó đưa ra một số
gợi ý trong dạy học ngôn ngữ thứ hai [cụ thể là tiếng Hán] cho người Việt Nam.
Từ khóa: thụ đắc ngôn ngữ, chuyển di ngôn ngữ, 为了, tiếng Hán, tiếng Việt

ĐẶT VẤN ĐỀ**
Từ đầu những năm 60, 70 của thế kỷ 21,
nghiên cứu quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai
đã là một môn khoa học độc lập, hệ thống lý
luận của nó được xây dựng dựa trên mục tiêu
là miêu tả quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai
và giải thích đặc trưng của việc thụ đắc ngôn
ngữ thứ hai. Không thể phủ nhận vai trò của
việc nghiên cứu quá trình thụ đắc, trong đó
nhấn mạnh nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng
đến quá trình này đối với công việc giảng dạy
tiếng nước ngoài. Trước sự phát triển như vũ
bão của ngành giảng dạy tiếng Hán hiện nay,
công việc nghiên cứu này ngày càng được coi
trọng. Phạm trù mục đích là một phạm trù
được sử dụng khá phổ biến trong giao tiếp
của con người. Trong tiếng Hán để biểu thị
mục đích ta có thể sử dụng các từ ngữ, kết
cấu
như
“为了”,
“为”,“以”,“以便”,“好”,“免得”,“为的是”,“
是为了”. Trong đó “为了” có tần suất sử dụng
nhiều hơn cả. Trong tiếng Việt cũng có không
ít các chỉ tố chỉ mục đích như “để”, “để mà”,
“nhằm”, “hòng”, “cốt”… Người Việt nam khi
học tiếng Hán sẽ có xu hướng đem hiểu biết
về kiến thức tiếng mẹ đẻ vận dụng vào sử
dụng ngôn ngữ đích, hay chính là ở đây đã
xuất hiện một sự chuyển di, điều này đem đến
*

Tel: 0914 598599; Email: dothuyha.sfl@tnu.edu.vn

cho người học nhiều thuận lợi nhưng cũng
không thể không bàn đến những khó khăn.
Dưới đây chúng tôi tập trung bàn về sự
chuyển di này thông qua tình hình sử dụng từ
chỉ mục đích “为了” của sinh viên chuyên
ngành tiếng Trung.
HIỆN TƯỢNG CHUYỂN DI NGÔN NGỮ
Quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai là một quá
trình gây dựng giả thiết và thử nghiệm giả
thiết mang tính sáng tạo. Trong quá trình này,
người học sẽ vận dụng những kiến thức đã có,
bao gồm cả kiến thức về ngôn ngữ mẹ đẻ để
phát triển ngôn ngữ trung gian của mình.
Hiểu theo nghĩa này thì sự xuất hiện của hiện
tượng chuyển di ngôn ngữ là không thể tránh
khỏi, hiện tượng này là một trong những nhân
tố quan trọng ảnh hưởng tới quá trình thụ đắc
ngôn ngữ thứ hai.
Theo quan điểm của ngôn ngữ học chủ nghĩa
hành vi, chuyển di luôn có mối quan hệ chặt
chẽ với rào cản, nhưng ngày nay các nhà
nghiên cứu đã nhận ra rằng không thể giản
đơn coi chuyển di là 1 loại rào cản hoặc cách
sử dụng lại tiếng mẹ đẻ. Sharwood Smith và
Kellerman [1986] cho rằng có thể dùng “sự
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các ngôn ngữ” để
khái quát nên hiện tượng chuyển di ngôn ngữ.
Hai ông cho rằng cụm từ “sự ảnh hưởng lẫn
nhau giữa các ngôn ngữ” về mặt lý luận là
trung tính, nó có thể khái quát cho rất nhiều
227

Đỗ Thị Thúy Hà

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

loại hiện tượng như là chuyển di, rào cản,
tránh né, vay mượn, lỗi liên quan đến ngôn
ngữ thứ hai... Điều này cũng đem đến tiềm
năng cho việc nghiên cứu sự khác biệt và
tương đồng giữa các hiện tượng trên.
Một vài quan điểm có ảnh hưởng đến hiện
tượng chuyển di ngôn ngữ
Chuyển di ngôn ngữ có ảnh hưởng đến việc
thụ đắc ngôn ngữ thứ hai hay không, mức độ
ảnh hưởng thế nào và ảnh hưởng ra sao đã trở
thành những vấn đề cơ bản mà các nhà nghiên
cứu cần giải đáp. Trong quá trình phát triển
của mình, chuyển di ngôn ngữ đã trải qua hai
giai đoạn lịch sử quan trọng, đó là giai đoạn
nghiên cứu dựa theo khung lý thuyết của chủ
nghĩa hành vi lấy giả thiết phân tích đối chiếu
là chủ đạo và giai đoạn nghiên cứu dựa theo
khung lý thuyết của lý luận tri nhận lấy giả
thiết ngôn ngữ trung gian là chủ đạo.
Chuyển di ngôn ngữ được phát triển sớm nhất
từ trong lĩnh vực phân tích đối chiếu. Từ
những năm 50, phân tích đối chiếu bắt đầu
xuất hiện và từ đó nhanh chóng chiếm vị trí
đầu tiên trong nghiên cứu giảng dạy ngôn ngữ
thứ hai. Lado [1957] dưới sự ảnh hưởng của
chủ nghĩa hành vi và chủ nghĩa cấu trúc đã
đưa ra giả thuyết phân tích đối chiếu, trong đó
ông đã cho rằng, hiện tượng chuyển di ngôn
ngữ là một trở ngại đáng kể trong việc thụ đắc
ngôn ngữ thứ hai, thông qua việc so sánh, đối
chiếu ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ đích
có thể dự đoán trước được lỗi mà người học
ngôn ngữ thứ hai dễ mắc phải cũng như
những điểm khó trong quá trình học. Trong
giai đoạn này, người ta đã thừa nhận tác dụng
của tiếng mẹ đẻ trong việc thụ đắc ngôn ngữ
thứ hai. Sự tương đồng giữa ngôn ngữ tiếng
mẹ đẻ và ngôn ngữ đích đem đến sự “chuyển
di tích cực” và sự khác biệt giữa chúng sẽ
đem đến “sự chuyển di tiêu cực”. Từ đó, Lado
và các nhà nghiên cứu đã có kết luận rằng,
“phần giống nhau giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ
và ngôn ngữ đích thì dễ học, phần khác nhau
thì khó học”. Quan điểm này đã được khái
quát hóa giản đơn thành công thức “khoảng
cách = độ khó”, tức là khoảng cách lớn nhỏ
giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ đích
tỉ lệ thuận với độ khó của việc học [1]. Tới
những năm 70, cùng với sự phát triển của lĩnh
228

188[12/3]: 227 - 233

vực nghiên cứu lỗi, phân tích đối chiếu dần
không được coi trọng, nhưng nghiên cứu hiện
tượng chuyển di ngôn ngữ vẫn không dừng
lại, nhiều công trình nghiên cứu trên cơ sở
của phân tích đối chiếu, từ nhiều góc độ như
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp đã đi sâu tìm hiểu
mối quan hệ “khoảng cách = độ khó” đã nói ở
trên, trong đó một vài nghiên cứu đã chứng
minh được lý luận của Lado.
Những vấn đề cần được nghiên cứu tiếp mà
lĩnh vực nghiên cứu đối chiếu để lại khiến cho
các nhà nghiên cứu nhận ra rằng chuyển di
ngôn ngữ không phải là hiện tượng đơn giản
như Lado và các nhà nghiên cứu đã nghĩ và
họ đã đem lý luận tiêu chí ngôn ngữ vào việc
nghiên cứu hiện tượng này. Lý luận tiêu chí
với nền tảng cơ sở là khái niệm tiêu chí, là
nguyên tắc quan trọng để phân tích hệ thống
ngôn ngữ. Mục đích chính của lý luận này là
thông qua phân tích hiện tượng tiêu chí trong
các hệ thống ngôn ngữ nhỏ để xây dựng nên
những mô hình tiêu chí ngôn ngữ. Những khó
khăn của người học ngôn ngữ thứ hai có thể
dựa vào lý luận này để dự đoán vì lý luận tiêu
chí ngôn ngữ đã trả lời được câu hỏi chuyển
di ngôn ngữ xuất hiện ở đâu và bằng những
phương thức nào.
Các hình thức biểu hiện chính của chuyển
di ngôn ngữ [liên hệ từ biểu thị mục đích
trong tiếng Hán và tiếng Việt]
Để tiến hành tìm hiểu các hình thức của
chuyển di ngôn ngữ giữa tiếng Hán và tiếng
Việt, chúng tôi đã thực hiện việc khảo sát,
thống kê các bài viết luận và bài dịch, trong
đó tập trung vào nghiên cứu quá trình sử dụng
các từ biểu thị mục đích “为了” trong tiếng
Hán hiện đại của sinh viên chuyên ngành
tiếng Trung quốc tại Khoa Ngoại ngữ, Đại
học Thái Nguyên. Trên cơ sở nguồn ngữ liệu
đã tổng hợp được tiến hành miêu tả, phân tích
và phân loại. Trong đó đặc biệt chú trọng đến
sự xuất hiện các kiểu loại lỗi của sinh viên
cũng như nguyên nhân gây ra những lỗi đó.
Chúng tôi đã thực hiện thống kê hiện trạng sử
dụng từ biểu thị mục đích “为了” từ bài viết
luận trong kỳ thi cuối kỳ của sinh viên năm
thứ 3 chuyên ngành tiếng Trung Quốc, kết
quả được thể hiện trong bảng dưới đây:

Đỗ Thị Thúy Hà

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

188[12/3]: 227 - 233

Bảng 1. Tình hình sử dụng từ biểu thị mục đích “为了” trong tiếng Hán hiện đại của sinh viên chuyên
ngành tiếng Trung Quốc
Nội dung
Đối tượng
Sinh viên năm
thứ 3

Số bài khảo sát

108

Tần suất sử dụng
Số bài
23

Tỷ lệ
21,2 %

Theo số liệu trong bảng trên cho thấy, tỷ lệ
bài viết có sử dụng các từ ngữ chỉ mục đích
“为了” là rất thấp [chiếm 18%], trong đó, số
bài sử dụng chính xác và không chính xác có
tỷ lệ khá cao và độ chênh lệch không lớn.
Ngoài ra, ngữ liệu của bài viết còn được thu
thập từ nguồn bài tập môn dịch 1 [Dịch Trung
– Việt] của sinh năm thứ 3 chuyên ngành
tiếng Trung Quốc. Kết quả thu được là các
câu có sử dụng từ ngữ chỉ mục đích “为了”
trong tiếng Hán, bao gồm cả câu chính xác và
không chính xác.
1] Chuyển di tiêu cực: Chuyển di tiêu cực chỉ
việc mượn tiếng mẹ đẻ để biểu đạt ngôn ngữ
thứ hai nhưng lại không phù hợp với thói
quen biểu đạt của ngôn ngữ thứ hai đó , hoặc
không được người bản địa dùng ngôn ngữ đó
chấp nhận, do đó kết quả là đã sinh ra lỗi. Khi
giữa ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ và ngôn ngữ thứ
hai có sự khác nhau về điểm nào đó thì sự
khác nhau này luôn là nội dung khó đối với
người học, lúc này rất dễ xảy ra hiện tượng
chuyển di tiêu cực. Chuyển di tiêu cực chỉ
một loại “rào cản” mà kiến thức tiếng mẹ đẻ
hoặc kiến thức ngôn ngữ đích mang đến cho
người học. Nếu “rào cản” do ngôn ngữ tiếng
mẹ đẻ mang đến thì được gọi là “chuyển di
giao ngôn ngữ”, còn nếu “rào cản” đó đến từ
ngôn ngữ đích thì được gọi là “chuyển di nội
ngôn ngữ”[2].
Có thể thấy rằng chuyển di tiêu cực trong quá
trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai ảnh hưởng tới
[đem rào cản tới] các bình diện của ngôn ngữ,
từ ngữ âm, từ vựng đến ngữ pháp, ngữ dụng
và văn hóa. Đối với hiện tượng khách quan
này, chúng ta một mặt cần nhìn ra sự tồn tại
của nó, thừa nhận ảnh hưởng của nó tới việc
thụ đắc ngôn ngữ thứ hai; mặt khác, cần phải
nhận thức được rằng, lỗi mà do rào cản này
đem đến là khó tránh khỏi, người học ngoại
ngữ cần phải thoát khỏi trở ngại tâm lý sợ
mắc lỗi, như thế lại có lợi cho người học

Tỷ lệ sử dụng
chính xác
Số bài
Tỷ lệ
13
56,5 %

Tỷ lệ sử dụng
không chính xác
Số bài
Tỷ lệ
10
43,5 %

ngoại ngữ phát huy tính năng động chủ quan,
đạt được hiệu quả học tập cao. Dù gì thì sự
xuất hiện của lỗi không phải là một việc xấu,
trong quá trình trải qua sự chuyển di tiêu cực,
người học thực tình cũng đã là trải qua quá
trình học tập không ngừng nghỉ, chúng ta
cũng có thể coi chuyển di tiêu cực như là một
loại sách lược học tập, sách lược giao tiếp.
Ví dụ 1: Để luyện tốt khí công,anh ấy đã
phải chịu bao khó khăn mà không hề oán thán
một câu nào.
Với câu mang chỉ tố chỉ mục đích “để” ở trên,
có người học đã dịch sang tiếng Hán
là:以便练好气功,他受了不少苦,却没有半点怨言。*
“Để” trong tiếng Việt có thể đứng ở đầu câu
hoặc ở đầu phân câu sau, còn “以便” cũng là
từ chỉ quan hệ mục đích, chuyển dịch sang
tiếng Việt cũng có nghĩa là “để”, nhưng nó
chỉ có vị trí duy nhất là đứng ở đầu phân câu
sau. Người học không để ý đến sự khác biệt
này nên đã sinh ra lỗi trong khi vận dụng. Câu
trên cách biểu đạt chính xác nên là:

为了练好气功,他受了不少苦,却没有半点怨言。
Ta tiếp tục quan sát các ví dụ dưới đây:
Ví dụ 2: *为我没带伞,妈妈要来接我。
Ví dụ 3: *为了想想好久,我睡一个觉到下午。

dụ
4:*

他也说过,大家可以生活在一起是为了缘分,所以我
们要互相帮助,互相尊敬。
Nguyên nhân gây lỗi của các ví dụ trên là do
“为” và “为了” ngoài nghĩa chỉ mục đích ra
còn có thể biểu thị nguyên nhân, người học
do trong quá trình sử dụng đã vận dụng kiến
thức một cách máy móc, hay nói cách khác là
họ đã liên hệ vận dụng những gì đã học được
sang một kiến thức mới, do vậy đã xảy ra sự
nhầm lẫn. Các câu trên nên biểu đạt như sau:

因为我没带伞,妈妈要来接我。
Dịch nghĩa: Vì tôi không mang theo ô nên mẹ
phải đến đón tôi.
229

Đỗ Thị Thúy Hà

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

因为想想好久,我睡一个觉到下午。
Dịch nghĩa: Vì suy nghĩ quá nhiều nên tôi đã
ngủ một giấc đến tận chiều.

他也说过,大家可以生活在一起是因为缘分,所以我
们要互相帮助,互相尊敬。
Dịch nghĩa: Anh ta đã từng nói, mọi người có
thể sống được cùng nhau là do duyên phận,
cho nên chúng ta phải giúp đỡ nhau, tôn
trọng lẫn nhau.
Ta quan sát tiếp ví dụ dưới đây:
Ví dụ 5:
*他很喜欢唱歌直到他妈妈为了他找个辅导老师教他唱

歌。
Vì “为” vừa có thể biểu thị mục đích của động
tác hành vi, lại vừa có thể biểu thị đối tượng tiếp
nhận của động tác, nên câu này phải thay “为了”
bằng “为”, cách diễn đạt chính xác nên là:

他很喜欢唱歌直到他妈妈为他找个辅导老
师教他唱歌。
2] Chuyển di tích cực. Tiếng mẹ đẻ mặc dù có
khả năng sẽ gây ra trở ngại trong quá trình
tiếp thu ngôn ngữ thứ hai, nhưng vẫn có khả
năng mang đến tác dụng tích cực. Hiện tượng
này được gọi là chuyển di tích cực trong học
tập ngôn ngữ. Các nhà nghiên cứu đã phát
hiện ra rằng, trong quá trình học ngôn ngữ thứ
hai, trong đó ở giai đoạn đầu của sự phát triển
ngôn ngữ, người học sẽ luôn dựa theo các quy
tắc ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ. Khi các quy tắc
của ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ đó hoàn toàn giống
với quy tắc của ngôn ngữ thứ hai thì người
học sẽ sử dụng một cách chính xác ngôn ngữ
thứ hai. Tiếp theo đó, người học sẽ dần hình
thành một loạt các quy tắc liên quan đến ngôn
ngữ thứ hai, những quy tắc này có khả năng là
lỗi trong ngôn ngữ thứ hai, nhưng chúng vẫn
là những tiêu chí của sự phát triển ngôn ngữ
của người học. Tiếp đến, người học sẽ phát
hiện ra quy tắc mà mình tự sáng tạo ra có chỗ
không phù hợp với quy tắc chính thống của
ngôn ngữ thứ hai, từ đó người học dần dần
loại bỏ những quy tắc không chính xác và
cuối cùng sẽ học được các quy tắc chuẩn xác
nhất. Trong quá trình học kiểu dạng này, ở
giai đoạn sơ cấp, khi ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ
của người học có các quy tắc đồng nhất với
ngôn ngữ thứ hai, thì ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ
230

188[12/3]: 227 - 233

đem đến tác dụng thúc đẩy việc học ngôn ngữ
thứ hai này.
Nói một cách khác thì chuyển di tích cực chỉ
một vài hình thức mà trong bối cảnh ngôn
ngữ thứ hai, người học vì chịu ảnh hưởng của
ngôn ngữ mẹ đẻ một cách vô thức đã lợi dụng
tiếng mẹ đẻ để biểu đạt, vừa hay kiểu lợi dụng
này lại phù hợp với thói quen biểu đạt của
ngôn ngữ thứ hai, kết quả là có được những
biểu đạt chính xác. Sự chuyển di tích cực
ngôn ngữ mẹ đẻ chủ yếu biểu hiện ở hai cấp
độ từ và câu.
Ta cùng quan sát một vài ví dụ của sinh viên
khi sử dụng từ chỉ mục đích trong tiếng Hán
hiện đại vào viết bài dịch.
Ví dụ 6: Để bạn đọc hiểu rõ sự việc, chúng tôi
xin cung cấp thêm một số tư liệu.
Dịch
câu:“为了让读者把事件弄清,我们就加

给一些新信息。”
Từ “để” trong tiếng Việt có thể dịch sang
tiếng Hán là “为了”, trong câu trên được dịch
thành “为了” là rất hợp lý, cả hai từ đều dùng
để biểu thị mục đích và đều có thể đứng ở đầu
câu, ngay trước phân câu biểu thị mục đích.
Điều này thuộc về sự chuyển di tích cực,
trong đó giữa ngôn ngữ thứ nhất và ngôn ngữ
thứ hai có một vài điểm ngôn ngữ không có
sự khác biệt, người học khi nắm bắt những từ
ngữ kiểu như thế sẽ không gặp vấn đề khó
khăn gì.
Ví dụ 7: Để đứng vững được trên con đường
sự nghiệp, tôi đã đi khắp nơi tìm kiếm những
đột phá mới.
Dịch câu:
“为了在事业上站住脚,我四处寻找新的突破点。”
Một trong những kiểu kết cấu của từ “để”
biểu thị mục đích là theo sau nó là cụm động
từ hoặc một phân câu nhỏ, trong tiếng Hán
cũng vậy, theo sau “为了” cũng có thể là cụm
động từ hoặc một kết cấu chủ vị, người học
có thể dựa vào điểm giống nhau này để vận
dụng vào học tập.
3] Tránh né. Tránh né là một hiện tượng khá
phức tạp, khi người học phát hiện ra một vài
quy tắc của ngôn ngữ đích có sự khác biệt với
ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, hơn nữa lại không dễ

Đỗ Thị Thúy Hà

Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ

học, họ sẽ cố gắng không sử dụng các quy tắc
này. Đây chính là hiện tượng tránh né trong
quá trình thụ đắc ngôn ngữ thứ hai. Tránh né
và chuyển di tiêu cực đều có điểm chung là
được sản sinh trên cơ sở giữa ngôn ngữ tiếng
mẹ đẻ và ngôn ngữ đích có sự khác biệt.
Nhưng ở “tránh né”, người học tránh sử dụng
những quy tắc tương đồng, bao gồm cả việc
không làm theo quy tắc của ngôn ngữ tiếng
mẹ đẻ, còn ở “chuyển di tiêu cực”, người học
có sử dụng nhưng lại làm theo những quy tắc
của ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, do đó sinh ra lỗi.
Từ đó, ta có thể thấy rằng, kiến thức về ngôn
ngữ tiếng mẹ đẻ, mức độ nắm kiến thức ngôn
ngữ đích và thái độ của người học với văn
hóa nước nhà cũng như văn hóa của quốc gia
sử dụng ngôn ngữ đích đều có ảnh hưởng tới
sự sản sinh của hành vi “tránh né”. Ta cùng
quan sát một số ví dụ nằm trong nguồn ngữ
liệu chúng tôi đã thu thập được:
Ví dụ 8:

因为我生病,妈妈请了几天假一直在我的身
边照顾我。
Dịch nghĩa:Vì tôi bị ốm, mẹ đã xin nghỉ làm
mấy ngày ở bên cạnh chăm sóc tôi.
Trong ví dụ trên, nếu người học sử dụng liên
từ “为了”để nối giữa các phân câu thì câu văn
sẽ có được lối diễn đạt phù hợp với văn
phong viết hơn:
我生病了,为了能在我身边照顾我,妈妈请了几天假.
Dịch nghĩa:Tôi bị ốm, để có thể ở bên cạnh
chăm sóc tôi, mẹ đã xin nghỉ làm mấy ngày.
4] Lạm dụng. Trong quá trình thụ đắc ngôn
ngữ thứ hai, sẽ có hiện tượng người học lạm
dụng sử dụng một số hình thức quy tắc ngôn
ngữ, điều này có thể là do họ chưa có hiểu
biết sâu xa về quy tắc của ngôn ngữ đích.
Ví dụ 9: Tôi đã giấu chìa khóa két sắt đi để
khỏi bị trộm lấy mất.
Có người học đã dịch câu này sang tiếng Hán là:

我把保险柜的钥匙藏起来,为了免得被人偷去。*
Câu trên có chứa chỉ tố chỉ mục đích “để”
nhưng lại kết hợp với “khỏi” tạo thành ý
nghĩa mong muốn không xảy ra việc nào đó,
trong tiếng Hán thì ta chỉ cần dùng một từ nối
chỉ quan hệ mục đích là được, ví dụ như là:

188[12/3]: 227 - 233

以免、免得,và cách biểu đạt chính xác của câu
này là:

我把保险柜的钥匙藏起来,免得被人偷去。
Trong ví dụ trên, chỉ cần dùng “免得” là đã đủ
biểu thị quan hệ mục đích rồi nhưng người
học đã lạm dụng dùng cả hai quan hệ từ chỉ
mục đích là为了và省得 .
Qua khảo sát cho thấy, lạm dụng là một biểu
hiện của chuyển di ngôn ngữ xuất hiện nhiều
ở đối tượng người học có trình độ cao hơn, vì
theo thời gian, người học được tiếp cận nhiều
kiến thức mới hơn, khó hơn, lúc này, người
học rất dễ áp dụng những kiến thức chưa đầy
đủ, vẹn toàn [vì vừa được truyền thụ] của nội
dung ngôn ngữ đích đã được tiếp thu vào nội
dung kiến thức mới mẻ, từ đó gây ra lỗi. Ví
dụ khác nằm trong nguồn ngữ liệu mà chúng
tôi đã thu thập được như sau:
Ví dụ 10: *学了三年汉语以后我来中国为了留学。
Dịch nghĩa: Sau 3 năm học tiếng Hán, tôi đến
Trung Quốc để du học.
Từ ví dụ trên cho ta thấy, bản thân cụm
“来中国留学” thông qua kết cấu liên động đã đủ
nói lên quan hệ mục đích, không cần phải dùng
thêm “为了” để chỉ quan hệ mục đích nữa.
Ví dụ 11:
*我喝一点儿水吃一点儿自己做的早饭以后打开电视机

为了看接连换电视台但没找到好玩儿的东西看。
Trong ví dụ trên xuất hiện vài động tác xảy ra
theo tuần tự trước sau là “打开电视机”,
“看电视”, “换台” , đây là mối quan hệ liên tiếp
nên giữa các động tác không thể tồn tại quan
hệ mục đích, vì vậy cần bỏ “为了” đi, và câu
trên

thể
sửa
lại
là:

我喝一点儿水吃一点儿自己做的早饭以后打开电视看
节目,然后连接换电视台但没找到好玩儿的东西看。
ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
Trong quá trình dạy và học ngoại ngữ [ngôn
ngữ thứ hai], chuyển di là hiện tượng không
thể tránh khỏi. Cho nên một trong những
nhiệm vụ của người giáo viên là hướng dẫn
người học từng bước sử dụng ngoại ngữ để tư
duy, làm giảm đi sự ảnh hưởng của rào cản
ngôn ngữ tới người học. Đối với vấn đề này,
chúng tôi đưa ra một số kiến nghị như sau:
231

nguon tai.lieu . vn

Chủ Đề