Cảm nhận của em về nhân vật anh thanh niên trong đoạn trích sau cháu ở đây có nhiệm vụ

Nguyễn Thành Long là cây bút chuyên viết truyện ngắn và kí. Tác phẩm của ông thường có giọng điệu nhẹ nhàng, tình cảm,thường pha chất kí và giàu chất thơ, thấm đẫm chất trữ tình, làm ánh lên vẻ đẹp của con người nên có khả năng thanh lọc làm trong sáng tâm hồn, khiến chúng ta thêm yêu cuộc sống. Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” ra đời là kết quả chuyến đi Lào Cai trong mùa hè 1970 của tác giả, lúc miền Bắc đang thời kỳ xây dựng miền Bắc, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mĩ đến thắng lợi. Qua hình ảnh anh thanh niên, tác phẩm ca ngợi những con người dùng cảm, tuyệt đẹp đang cống hiến một cách thầm lặng cho tổ quốc.

Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được xây dựng xoay quanh một tình huống truyện khá đơn giản mà tự nhiên. Đó chính là cuộc gặp gỡ tình cờ của mấy người khách trên chuyến xe lên Sa Pa với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn.

Tình huống gặp gỡ này là cơ hội thuận tiện để tác giả khắc họa “bức chân dung” nhân vật chính một cách tự nhiên và tập trung, qua sự quan sát của các nhân vật khác và qua chính lời lẽ, hành động của anh. Đồng thời, qua “bức chân dung” của người thanh niên, tác giả đã làm nổi bật được chủ đề của tác phẩm: Trong cái lặng lẽ, vắng vẻ trên núi cao Sa Pa, nơi mà nghe tên người ta chỉ nghĩ đến sự nghỉ ngơi, vẫn có bao nhiêu người đang ngày đêm làm việc miệt mài, say mê cho đất nước.

Hoàn cảnh sống và làm việc vất vả gian khổ của anh thanh niên được tác giả khắc họa khá rõ ràng. Anh sống một mình tại trạm khí tượng trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét. Đó là một thế giới cách biệt với cuộc sống của mọi người “bốn bề chỉ cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”. Nơi anh ở rất vắng vẻ, thiếu người qua lại, vắng bạn tâm tình trò chuyện. Bởi thế mà bác lái xe đã gọi anh là “người cô độc nhất thế gian”.

Anh phụ trách công việc khí tượng kiêm vật lí địa cầu dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Nhiệm vụ cụ thể là “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất” và phải báo cáo kết quả hằng ngày liên tục về trung tâm. Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng.

Hoàn cảnh sống khắc nghiệt vô cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ; cuộc sống và công việc có phần đơn điệu, giản đơn…là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn sung sức và khát khao trời rộng, khát khao hành động. Nhưng cái gian khổ nhất đối với chàng trai trẻ ấy là phải vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ quanh năm suốt tháng ở nơi núi cao không một bóng người.

Anh là người yêu nghề và có trách nhiệm cao trong công việc. Lòng yêu nghề, gắn bó với công việc, sống một mình trên đỉnh núi cao với rừng xanh, mây trắng và bão tuyết nhưng anh vẫn yêu nghề, yêu việc. Lời anh nói với người họa sĩ “công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất ” đã giúp ta nhận thấy điều đó. Qua lời anh kể và lời bộc bạch này, ta hiểu rằng anh đã thực sự tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong công việc thầm lặng giữa Sa Pa và sương mù bao phủ.

Anh luôn ý thức đầy đủ và sâu sắc về ý nghĩa công việc. Khi giới thiệu với bác họa sĩ và cô kĩ sư về công việc của mình, anh đã nhấn mạnh: “Dãy núi này có một ảnh hưởng quyết định với gió mùa Đông bắc đối với miền Bắc nước ta. Cháu ở đấy có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Suy nghĩ của anh về công việc: “Ta với công việc là đôi sao gợi là một mình được ? Huống chi việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh đồng chỉ dưới kia”. Anh đã tự lực làm việc với tinh thần tự giác cao độ.

Anh luôn tự hào về nghề nghiệp của mình. Anh rất sung sướng vì công việc có ích đã góp phần bắn hạ phản lực Mĩ. Anh tâm sự với bác họa sĩ: “Từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc”. Với anh hạnh phúc là được đóng góp phần công sức nhỏ bé thầm lặng của mình cho cuộc sống xây dựng và bảo vệ đất nước, đem lại hòa bình cho đất nước.

Anh luôn có tinh thần trách nhiệm, là người thành thạo, am hiểu công việc. Nhìn gió hay nhìn trời, nhìn sao anh cũng có thể “nói được máy, tính được gió”. Anh quên mình, vượt qua gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ.

Anh là người yêu đời, biết tổ chức, sắp xếp cuộc sống gọn gàng, ngăn nắp. Trong buổi đầu gặp gỡ khi thấy anh thanh niên chạy vội lên trước, ông họa sĩ đã tường tượng ra cái cảnh “khách tới nhà bất ngờ chắc cu cậu chưa kịp quét tước dọn dẹp, chưa kịp gấp chăn”. Nhung trước mặt ông lại hiện ra một vườn hoa rực rỡ với các loại đủ màu đủ sắc …

Cuộc sống của anh vô cùng giản dị. “Cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách” nhưng anh biết chủ động tổ chức, cải thiện cuộc sống: sắp xếp nhà cửa ngăn nắp, sạch sẽ, chăn nuôi gà, trồng hoa, làm vườn. Chi tiết anh gửi bác lái xe mua sách; cuốn sách đang đọc dở; thái độ mừng quýnh lên với ‘những cuốn sách của anh giúp người đọc hiểu thêm về cuộc sống tinh thần phong phú, một tấm lòng say mê khoa học của một trí thức mới.

Anh còn là người gắn bó với cuộc sống, cởi mở, hiếu khách và yêu mến mọi người, lại là rất khiêm tốn. Anh luôn khao khát gặp gỡ mọi người: Vì thèm người nên anh đã nghĩ ra việc lấy cây chặn đường xe chạy để được nói chuyện một lát với mọi người. Anh nói với bác họa sĩ: “Cháu thèm nghe chuyện dưới xuôi lắm … còn người thì ai mà chả thèm hở bác”. Anh tặng củ tam thất cho bác lái xe, tặng hoa và quà cho cô kĩ sư, tặng bác họa sĩ làn trứng gà. Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quý.

Anh khiêm tốn từ chối khi biết ông họa sĩ muốn vẽ mình. “Bác đừng mất công vẽ cháu … để cháu giới thiệu với bác “đồng chí đang làm một cái bản đồ sét riêng cho nước ta. Có cái bản đồ ấy thì lắm của lắm bác ạ. Của chìm nông, của chìm sâu trong lòng đất đều có thể biết, quý giá lắm”.

Anh thanh niên có một vẻ đẹp tâm hồn của một trí thức mới, gắn bó với nghề nghiệp, thiết tha yêu cuộc sống, yêu đất nước. Anh là tấm gương hi sinh quên mình vì lí tưởng phục vụ đất nước. Cũng chính vì thế chỉ với cuộc gặp gỡ chưa đầy nửa giờ mà anh đã hoàn toàn chinh phục được người đối diện. Ông họa sĩ thi từ chỗ “xúc động, bị cuốn hút” đến “bối rối, băn khoăn”. Cô kĩ sư thì “tò mò, ngạc nhiên” đến “một ấn tượng hàm ơn khó tả …”. Anh thanh niên đã mang đến cho mọi người niềm tin yêu vào cuộc sống.

Hình ảnh anh thanh niên và nhiều người như anh lặng lẽ làm việc, gắn bó với nhân dân, với nhiệm vụ bằng các công việc có ý nghĩa lớn lao, mãi mãi là hình ảnh đẹp. Với lời kể tự nhiên, với tình cảm mến yêu, trân trọng của Nguyễn Thành Long, nhân vật anh thanh niên cứ dần hiện ra hoàn toàn chinh phục người đọc.

Chỉ bằng một số chi tiết và anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc của truyện, nhưng tác giả đã phác hoạ được chân dung nhân vật chính với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa của công việc. Anh thanh niên là hình ảnh tiêu biểu cho những con người ở Sa Pa, là chân dung con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa thành công hình ảnh những con người lao động bình thường, mà tiêu biểu là anh thanh niên làm công tác khí tượng ở một mình trên đỉnh núi cao. Qua đó, truyện khẳng định vẻ đẹp của con người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.

Giải giúp em với ạ Trình bày cảm nhận của em về nhân vật anh thanh niên trong đoạn trích sau: Công việc của cháu cũng quanh quẩn ở mấy chiếc máy ngoài vườn này thôi. Những cái máy vườn trạm khí tượng nào cũng có. Dãy núi này có một ảnh hưởng quyết định tới gió mùa đông bắc đối với miền Bắc nước ta. Cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng, tính máy, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu. Đây là máy móc của cháu. Cải thùng đo mưa này, ở đâu bác cũng trông thấy, mưa xong đổ nước ra cái cốc li phân này mà đo. Cái này là máy nhật quang kí, ánh nắng mặt trời xuyên qua cái kính này, đốt các mảnh giấy này, cứ theo mức độ, hình dáng vết cháy mà định nắng. Đây là máy Vin,nhìn khoảng cách giữa các răng cưa mà đoán gió. Ban đêm không nhìn máy, cháu nhìn gió lay lá hay nhìn trời, thấy sao nào khuất, sao nào sáng, có thể nói được mây, tính được gió. Cái máy nằm dưới sâu kia là máy đo chấn động vỏ quả đất. Cháu lấy những con số, mỗi ngày báo về “nhà” bằng máy bộ đàm bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sáng. Bản báo ấy trong ngành gọi là “ốp”.Công việc nói chung dễ, chỉ cần chính xác. Gian khổ nhất là lần ghi và báo về lúc một giờ sáng. Rét, bác ạ. Ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn bão vặn to đến cỡ nào vẫn thấy là không đủ sáng. Xách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái im lặng lúc đó thật dễ sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì giống như nhát chổi lớn muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy.. Xong việc, trở vào, không thể nào ngủ lại được. Anh thanh niên đang nói, dừng lại. Và tại sao họa sĩ cảm giác mình bối rối? Vì nhác thấy người con gái nhỏ nhỏ e lệ, đứng giữa các luống dơn, không cần hái hoa nữa, ôm nguyên bó hoa trong tay, lắng tai nghe? Vì họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ước ao được biết, ôi, một nét thôi đã khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác, một nét mới đủ là giá trị một chuyến đi dài. – Anh nói nữa đi. – Ông giục. – Báo cáo hết! – Người con trai vụt trở lại giọng vui vẻ. – Năm phút nữa là mười. Còn hai mươi phút thôi. Bác và cô vào trong nhà. Chè đã ngấm rồi đấy. Thì giờ ngắn ngủi còn lại thúc giục cả chính người hoạ sĩ già. Ông theo liền anh thanh niên vào trong nhà, đảo nhìn qua một lượt trước khi ngồi xuống ghế. Một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm. Cuộc đời riêng của anh thanh niên thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách. Họa sĩ còn đang nheo mắt cố đọc tên các sách trên giá thì cô gái đã bước tới, dường như làm việc ấy hộ bố. Cô không trở lại bàn giữa và ngồi ngay xuống trước chiếc bàn học con, lật xem bìa một cuốn sách rồi để lại nguyên lật mở như cũ. Anh thanh niên rót nước chè mời bác già, ngoảnh lại tìm cô gái, thấy cô đang đọc, liền bưng cái chén con đến yên lặng đặt trước mặt cô. (Trích Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long, SGK Ngữ văn 9, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2018)

—HẾT—