1] Về nguyên nhân xâm lược của giặc Xiêm và giặc Thanh
Giặc Xiêm trong chiến dịch Rạch Gầm - Xoài Mút [RG - XM] và giặc Thanh trong chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa [NH - ĐĐ] đều có ý đồ chiếm lấy nước ta. Từ thế kỷ XVII, bọn phong kiến Xiêm đã có tham vọng “Đông tiến”, xâm chiếm Chân Lạp [Campuchia], nhiều lần cho quân cướp phá Hà Tiên và một số nơi ven biển Tây Nam bộ của nước ta. Còn bọn phong kiến Thanh luôn ấp ủ mưu đồ bành trướng xuống phía Nam. Việc nhà Thanh xua quân xâm lược nước ta là hệ quả tất yếu của chính sách bành trướng, bá quyền nước lớn đã được hình thành từ rất sớm trong lịch sử Trung Quốc.
Thế nhưng, để che đậy bộ mặt xâm lược, phi nghĩa, cả giặc Xiêm và giặc Thanh đều vin vào cớ là, do có sự cầu viện của Nguyễn Ánh và Lê Chiêu Thống, nên mới đưa quân sang xâm lược nước ta.
2] Về đối tượng của hai chiến dịch RG - XM và NH - ĐĐ
Cả giặc Xiêm và giặc Thanh đều là những kẻ thù hùng mạnh và hung hãn của dân tộc ta. Vào thế kỷ XVIII, vương quốc Xiêm là một trong những nước có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh nhất ở Đông Nam Á; từng chiếm đóng Chân Lạp, Lào, một phần Mã Lai; xâm lấn Miến Điện và Đàng Trong của đất nước ta; cũng như tranh chấp trên biển với Java [Indonesia]. Còn giặc Thanh, dưới thời Thanh Càn Long, đang ở vào giai đoạn cực thịnh: kinh tế, quân sự có sự phát triển vượt bậc với lãnh thổ rất rộng lớn và dân số đông nhất thế giới. Trung Quốc lúc đó là nước hùng mạnh nhất Châu Á. Vào cuối thế kỷ 18, dân tộc ta phải đương đầu với hai kẻ thù như thế; nên cuộc chiến đấu giữ nước của nhân dân ta diễn ra rất gay go và ác liệt.3] Về việc rút lui chiến thuật của nghĩa quân Tây Sơn khi mở đầu chiến dịch
Tháng 7 năm Giáp Thìn [8-1784], giặc Xiêm đổ bộ lên Rạch Giá. Lực lượng của chúng lúc này còn rất sung mãn. Trong khi đó lực lượng nghĩa quân Tây Sơn đóng ở vùng đất Gia Định ít hơn so với quân địch. Do đó, dưới sự chỉ huy của phò mã Trương Văn Đa và Đô đốc Nguyễn Trấn, nghĩa quân Tây Sơn vừa tiến hành một số trận đánh; vừa tổ chức lui binh chiến thuật. Rồi sau đó, cấp báo về đại bản doanh của Bộ chỉ huy nghĩa quân đóng ở Quy Nhơn; để chờ đại quân vào tiến hành cuộc phản công chiến lược, đánh bại quân Xiêm. Trong chiến dịch NH - ĐĐ [1789], trước thế mạnh ban đầu của giặc Thanh, sau một vài trận nhỏ có tính cách thăm dò, nghĩa quân Tây Sơn đồn trú tại Bắc Hà theo kế sách của Ngô Thời Nhiệm tạm rút lui về Tam Điệp [Ninh Bình]. Từ đây, tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở cho người cấp tốc lên đường vào Phú Xuân, báo tin giặc dữ cho Nguyễn Huệ biết để ông kịp thời lên kế hoạch tác chiến diệt địch. Các cuộc rút lui chiến thuật của nghĩa quân Tây Sơn có các tác dụng: - Thứ nhất, thăm dò lực lượng và khả năng tác chiến của đối phương; - Thứ hai, tiêu diệt một phần sinh lực địch; - Thứ ba, bảo toàn lực lượng nghĩa quân; - Thứ tư, làm cho bọn địch sinh ra chủ quan, kiêu ngạo, đánh giá thấp nghĩa quân; để từ đó mất cảnh giác, không chu đáo trong phòng bị, tạo điều kiện cho nghĩa quân đánh bại bọn chúng; - Thứ năm, từ chỗ chủ quan, kiêu ngạo, bọn địch đi đến hành động cướp của, giết người, hãm hiếp phụ nữ, lộng hành, ngang ngược. Điều ấy, đã làm cho nhân dân thấy rõ bộ mặt xấu xa của bọn cướp nước và bè lũ bán nước; để từ đó, hết lòng ủng hộ nghĩa quân Tây Sơn trong việc đánh giặc giữ nước và bảo vệ cuộc sống yên lành của nhân dân.4] Hành quân thần tốc - nét độc đáo của quân Tây Sơn
Từ Quy Nhơn, Nguyễn Huệ chỉ huy hạm thuyền, men theo bờ biển đi về hướng Nam tiến đến đóng ở Mỹ Tho chỉ mất có 15 ngày trên một hải trình dài hơn 700km. Từ Phú Xuân, Quang Trung chỉ huy nghĩa quân Tây Sơn hành quân ra Bắc hà với độ dài khoảng 600 km chỉ mất có khoảng 20 ngày. Lúc bấy giờ, hành quân như vậy được xem là thần tốc. Sở dĩ nghĩa quân đạt được điều ấy là do: - Thứ nhất, nghĩa quân có tính kỷ luật cao; - Thứ hai, sự tổ chức tài giỏi của các tướng lĩnh nghĩa quân mà người đứng đầu là Nguyễn Huệ - Quang Trung; - Thứ ba, có nhiều thuyền với trọng tải lớn để vận chuyển quân; - Thứ tư, sự thuận lợi của thời tiết, v.v…5] Bổ sung quân số trên đường hành tiến và hậu cần tại chỗ
Trên đường hành quân tiến vào Mỹ Tho đánh giặc Xiêm hay ra Bắc hà đánh giặc Thanh, Nguyễn Huệ đều tổ chức tuyển quân ở các địa phương để tăng cường quân số; đồng thời, vận động nhân dân đóng góp hậu cần để nuôi quân đánh giặc. Việc Nguyễn Huệ thành công ở công tác này biểu hiện tính quần chúng nhân dân rất rộng rãi và đi vào chiều sâu của phong trào Tây Sơn; đồng thời, nó cũng phản ánh công tác quốc phòng của chính quyền Tây Sơn đã tổ chức tốt ở cấp cơ sở.6] Đánh nhanh thắng nhanh và tiêu diệt triệt để - tư tưởng chiến lược chủ động của nhà quân sự kiệt xuất Nguyễn Huệ
Trong chiến dịch RG - XM, tính từ lúc nổ ra trận đánh cho đến khi kết thúc thắng lợi thuộc về phía nghĩa quân Tây Sơn, trận thủy chiến này chỉ diễn ra trong vòng có một ngày [đêm 9 tháng 12 rạng ngày 10 tháng 12 năm Giáp Thìn nhằm [đêm 19 rạng ngày 20 - 01- 1785]; kết quả là 300 chiến thuyền Xiêm bị đánh đắm và bị thiêu hủy hoàn toàn, 2 vạn quân thuỷ của địch cũng bị tiêu diệt gần hết; và kể từ sau trận này, “Người Xiêm tuy bề ngoài thì miệng nói khoác, nhưng trong lòng thì sợ quân Tây Sơn như sợ cọp” [Đại Nam thực lục].
Còn chiến dịch NH - ĐĐ mở đầu đêm 30 - 12 năm Mậu Thân [đêm 25- 1-1789] và kết thúc thắng lợi bằng việc giải phóng thành Thăng Long vào ngày 5 - 1 năm Kỷ Dậu [30 -01 - 1789]. Như vậy, chiến dịch NH - ĐĐ chỉ diễn ra có 5 ngày đêm; và trong ngần ấy thời gian, nghĩa quân đã trãi qua cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt, tiêu diệt và làm tan rã 29 vạn quân Thanh xâm lược; còn bản thân tên chủ tướng Tôn Sĩ Nghị kinh hoàng đến mức ngựa không kịp đóng yên, giáp không kịp mặc, vứt bỏ cả ấn tín trốn chạy về nước.7] Sử dụng lối đánh hoả công tiêu diệt kẻ thù
Nghĩa quân Tây Sơn được trang bị pháo với số lượng rất nhiều và các loại vũ khí cận chiến rất lợi hại, như hỏa hổ [một loại khí cụ có phun lửa], hỏa cầu [một loại khí cụ tương tự như lựu đạn ngày nay], v.v… Đây là những loại vũ khí mang tính chiến lược của nghĩa quân, có tác dụng đánh phủ đầu, tạo nên sức mạnh hỏa lực tấn công vô cùng hùng hậu và những cơn bão lữa khủng kiếp, nhằm vừa sát thương, vừa làm cho đối phương hoảng sợ, kiếp đảm, không còn ý chí chiến đấu, tạo điều kiện để nghĩa quân xông lên dứt điểm trận đánh bằng bạch khí [gươm, dao, giáo, mác…]. Trong chiến dịch RG - XM, sau khi 300 chiến thuyền Xiêm lọt vào trận địa mai phục, pháo từ trên bộ và từ các chiến thuyền Tây Sơn đã thi nhau nả đạn vào chiến thuyền địch. Tiếp theo, những chiến thuyền nhỏ, có sức cơ động nhanh của nghĩa quân xông ra chia cắt đội hình địch; rồi dùng hỏa hổ, hỏa cầu tấn công, đốt cháy chiến thuyền của quân Xiêm. Cả một đoạn sông Tiền, từ rạch Xoài Mút đến Rạch Gầm, vang lên tiếng hò reo xung phong dậy đất của nghĩa quân và ánh lửa cháy ngút trời. Quân Xiêm bị đại bại hoàn toàn. Khi sang xâm lược nước ta, biết nghĩa quân Tây Sơn có hỏa hổ, hỏa cầu và lối đánh hỏa công rất dũng mãnh, chủ tướng quân Thanh Tôn Sĩ Nghị đã đề ra một số biện pháp nhằm vô hiệu hóa thế mạnh của nghĩa quân Tây Sơn. Thế nhưng, điều mà y lo ngại đã trở thành sự thực. Trong chiến dịch NH - ĐĐ, ở hai trận đánh có tính quyết định cho toàn chiến dịch là trận Ngọc Hồi và trận Đống Đa, nghĩa quân Tây Sơn, với những vũ khí cực kỳ lợi hại ấy và lối đánh hỏa công táo bạo, mưu trí, đã đè bẹp mọi sự kháng cự của địch; tên Đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy đồn Ngọc Hồi phải bỏ chạy; tên Đề đốc Sầm Nghi Đống chỉ huy đồn Đống Đa phải thắt cổ tự vẫn chết.8] Kiên quyết thực hiện thế bao vây
Chiến dịch RG - XM mang tính chất phục kích và thủy chiến; trong khi đó, chiến dịch NH - ĐĐ lại là chiến dịch nổi rõ lên tính công kích và bộ chiến. Tuy vậy, cả hai chiến dịch đều giống nhau ở một chỗ là, Nguyễn Huệ và nghĩa quân Tây Sơn đã thực hiện thế bao vây chặt chẽ quân thù, khiến cho cơ may chạy thóat của bọn chúng còn rất ít. Trong chiến dịch RG - XM, thủy quân Tây Sơn thực hiện thế bao vây bằng cách chặn đầu ở rạch Xoài Mút khóa đuôi ở Rạch Gầm và kiểm soát chặt các cù lao Thới Sơn, Phú Túc để ngăn địch tháo chạy qua ngã Bến Tre.Trong chiến dịch NH - ĐĐ, để thực hiện thế bao vây đối với quân Thanh, Nguyễn Huệ đã chia quân ra làm 5 đạo, trong đó, 3 đạo tấn công trực tiếp vào thành Thăng Long, 1 đạo tiến ra Hải Dương và 1 đạo tiến lên Bắc Giang để chặn đuờng rút lui của địch. Kết quả, cả quân Xiêm và quân Thanh gần như bị tiêu diệt hoàn toàn.
***
Hai chiến dịch RG - XM [1785] và NH - ĐĐ [1789] giành được thắng lợi rực rỡ. Với RG - XM và NH - ĐĐ, nhân dân ta đã đập tan hành động cướp nước và bán nước của bọn giặc Xiêm - Nguyễn Ánh và của bọn giặc Thanh - Lê Chiêu Thống, củng cố thêm một bước nền thống nhất quốc gia, bảo vệ vững chắc nền độc lập và lãnh thổ của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang, Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, Nxb Tiền Giang, 1985.
2. Nguyễn Lương Bích - Phạm Ngọc Phụng, Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, Nxb Quân đội nhân dân, 2006.
3. Nguyễn Phan Quang, Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2005.
4. Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, Nxb Khoa học xã hội, 2004.
5. Quách Tấn - Quách Giao, Nhà Tây Sơn, Nxb Thuận Hóa, 2001.
6. Tạ Chí Đại Trường, Việt Nam thời Tây Sơn: Lịch sử nội chiến 1771 - 1802, Nxb Công an nhân dân, 2007.
7. Ủy ban Khoa học xã hội, Lịch sử Việt Nam [tập 1], Nxb Khoa học xã hội, 1971.
Trận Rạch Gầm – Xoài Mút [tiếng Thái: การรบที่ซากเกิ่ม-สว่ายมุต] là một trận chiến lớn trên sông diễn ra vào đêm 19 rạng sáng ngày 20 tháng 1 năm 1785 giữa liên quân Xiêm-Nguyễn và quân Tây Sơn tại khúc sông Rạch Gầm - Xoài Mút, khi đó thuộc dinh Trấn Định, xứ Đàng Trong; về sau đổi thành tỉnh Mỹ Tho, nay thuộc tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. Chỉ trong nửa ngày, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã dùng chiến thuật phục kích để đánh tan lực lượng quân Xiêm đông gấp đôi, bảo vệ được chủ quyền của Đại Việt tại vùng Nam Bộ trước đội quân viễn chinh Xiêm La [nay là Thái Lan] do Nguyễn Ánh cầu viện.
Một phần của Các trận đánh của Hoàng đế Quang Trung | ||||||||||||||||||||||
Tượng đài kỷ niệm chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút tại Châu Thành, Tiền Giang
Năm 1771, ba anh em Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đứng dậy khởi nghĩa. Sau khi hai chúa Nguyễn [Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương] bị giết năm 1777, chúa mới là Nguyễn Phúc Ánh, dù bị đánh thua nhiều lần, vẫn cố tập hợp lại lực lượng để khôi phục. Tháng 2 năm Quý Mão [1783], vua nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sai hai em là Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ mang quân vào Nam Bộ. Tướng Nguyễn là Châu Văn Tiếp dùng hỏa công chống ngăn nhưng không được. Thua trận, chúa Nguyễn Ánh phải chạy xuống Ba Giồng [Định Tường], còn Châu Văn Tiếp phải men theo đường núi qua Cao Miên rồi qua Xiêm cầu viện. Trong giai đoạn này nước Xiêm La lúc bấy giờ đang lúc thịnh vượng[4] và nuôi tham vọng chiếm lấy Cao Miên và Gia Định để mở rộng bờ cõi. Khi nghe Châu Văn Tiếp - một bề tôi thân tín của chúa Nguyễn - đến cầu cứu, vua Xiêm là Rama I liền đồng ý.[5] Được hứa hẹn, Châu Văn Tiếp gửi ngay mật thư báo tin cho chúa Nguyễn. Sau khi hội đàm với tướng Xiêm tại Cà Mau xong, vào tháng 3 năm Giáp Thìn [1784], chúa Nguyễn qua đến thành Vọng Các hội kiến với vua Xiêm. Được tiếp đãi và giúp đỡ, chúa Nguyễn tổ chức lại lực lượng. Trong tập Kỷ yếu Hội nghị khoa học lịch sử nhân kỷ niệm 200 năm ngày chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút tại Tiền Giang vào tháng 12-1984, trong đó bài tham luận của nhà sử học Phan Huy Lê đánh giá, nhận xét như sau[6]: Triều Mạc thỏa thuận với nhà Minh và cắt đất cho giặc. Chúa Trịnh bất lực để cho nhà Minh rồi nhà Thanh lấn cướp nhiều dải đất biên cương. Nguyễn Ánh cầu cứu vua Xiêm và câu kết với chủ nghĩa tư bản phương Tây. Lê Chiêu Thống rước quân Thanh vào giày xéo đất nước. Đây không còn là hành vi bán nước của từng phần tử phong kiến mà là sự phản bội dân tộc của các thế lực phong kiến nắm quyền thống trị. Giai cấp phong kiến đang trải qua một quá trình phân hóa sâu sắc, trong đó từng bộ phận phong kiến cầm quyền, có tính chất đại diện, đã phản bội lợi ích dân tộc và sẵn sàng câu kết với giặc. Kẻ thù của độc lập dân tộc tìm thấy một chỗ dựa, một lực lượng nội ứng ngay bên trong cơ cấu xã hộiLực lượngSửa đổiLiên quân Xiêm-NguyễnSửa đổiTheo hầu hết các tài liệu sử Việt thì sau khi nhận lời giúp Nguyễn Ánh,[7] tháng 4 năm 1784, vua Xiêm Rama I phái hai tướng Lục Côn và Sa Uyên cùng với Chiêu Thùy Biện [hay Bèn, Bẹn, Chao Phraya Abhaya Bhubet] là nhiếp chính vương Chân Lạp thân Xiêm, đem hai đạo bộ binh tiến sang Chân Lạp để từ đó, mở một mũi tiến công đánh phối hợp. Theo GS. Nguyễn Khắc Thuần thì đạo bộ binh này gồm khoảng 3 vạn quân bộ.[8] Ngày 25 tháng 7 cùng năm, vua Xiêm sai cháu là Chiêu Tăng làm chủ tướng và Chiêu Sương,[9] làm tướng tiên phong, thống lĩnh 2 vạn quân thủy và 300 chiến thuyền, từ Vọng Các vượt vịnh Xiêm La, qua ngả Kiên Giang sang giúp. Ngoài ra, chúa Nguyễn Ánh cũng tập hợp được một số quân khoảng 3, 4 ngàn người[10] cho Chu Văn Tiếp chỉ huy với chức Bình Tây đại đô đốc và Mạc Tử Sanh [hay Sinh] làm tham tướng dẫn đường. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Duy Chính, trích dẫn tài liệu lịch sử Xiêm La thì:
Như vậy, lực lượng của quân Xiêm ít nhất cũng hơn một vạn người, bao gồm 5.000 đi theo đường thủy và trên dưới 1 vạn đi theo đường bộ. Lực lượng đó thường xuyên được tăng viện bởi quân Việt [cánh quân thủy] và quân Chân Lạp [cánh quân bộ]. Cánh quân bộ do Phraya Wichinarong chỉ huy, được tăng viện bởi quân Chân Lạp gồm 5.000 quân của Chao Phraya Abhaya Bhubet [sử Việt chép là Chiêu Thùy Biện - một người Chân Lạp làm quan cho Xiêm] và 2 cánh quân của Phraya Rachasetthi và Phraya Thatsada không rõ quân số. Cánh quân thủy do Chaofa Kromluang Thepharirak chỉ huy, được tăng viện bởi quân của chúa Nguyễn đi từ Xiêm La về cộng với các cánh quân khác nằm sẵn trong nước. Ước tính lực lượng liên quân Xiêm - Nguyễn - Chân Lạp có quân số ít nhất là hơn 2 vạn.[14] Con số này khá phù hợp với các tài liệu sử chính thức của triều Nguyễn. Quân Tây SơnSửa đổiTheo sách Mạc Thị gia phả của Vũ Thế Dinh[15] [cai đội quân Nguyễn], thì riêng thủy quân của Nguyễn Huệ[16] đã là 5 vạn. Tuy nhiên, nhóm tác giả sách Một số trận quyết chiến chiến lược thì cho rằng đó là con số thổi phồng để giảm bớt sự thất bại nhục nhã của quân Xiêm - Nguyễn. Xét lực lượng và tình hình quân Tây Sơn lúc đó [kể cả quân đồn trú của Trương Văn Đa] chỉ lên đến khoảng 2 vạn là cùng. Nhưng về trang bị vũ khí, nhất là súng đại bác, quân Tây Sơn không hề thua kém quân Xiêm.[17] Quân đội Tây Sơn, ngoài bộ binh còn có tượng binh, kỵ binh và một đội thủy binh mạnh với nhiều loại thuyền chiến lớn nhỏ khác nhau. Trang bị của quân Tây Sơn có nhiều đại bác các cỡ, đó là những đại bác của quân chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn chiếm được trong các trận đánh, bao gồm đại bác do quân chúa Nguyễn chế tạo và những đại bác do chúa Nguyễn mua của các công ty phương Tây. Chỉ riêng trận đánh ra Quảng Nam giữa năm 1774, quân Tây Sơn đã chiếm được 45 voi chiến, 82 khẩu đại bác Hà Lan, Anh và 6 thuyền chở đầy đạn được Trước trận chínhSửa đổiThuyền Đại Hiệu, một loại thuyền chiến cỡ lớn có trang bị hỏa lực mạnh mà thủy quân Tây Sơn đã sử dụng trong trận đánh [mô hình] Tháng 7 năm 1784, thủy quân Xiêm đổ bộ lên đánh lấy Rạch Giá [thuộc đạo Kiên Giang], tiến đánh quân Tây Sơn của Đô đốc Nguyễn Hóa ở Trấn Giang [Cần Thơ], tiến chiếm các miền Ba Thắc [Srok Pra-sak, Sóc Trăng], Trà Ôn, Sa Đéc, Mân Thít [hay Mang Thít, Man Thiết] rồi chia quân đóng giữ. Tướng Tây Sơn là Trương Văn Đa liền đem quân thủy từ Gia Định tiến xuống Long Hồ [Vĩnh Long] để ngăn cản. Ngày 30 tháng 11 năm 1784, Đại đô đốc Chu Văn Tiếp, vì thông thạo địa hình dẫn quân đi trước. Ông cho quân vào sông Mân Thít, thì bị Tiền quân Chưởng cơ Tây Sơn tên là Bảo [Chưởng tiền Bảo] đưa quân ra vây đánh và giết chết. Mất đại tướng, chúa Nguyễn Ánh liền cho quân đánh gấp vào cứu viện, chém chết Chưởng tiền Bảo cùng nhiều quân Tây Sơn. Xét thấy quân ít, không chống chọi được, phò mã nhà Tây Sơn là Trương Văn Đa cho quân lui về giữ Long Hồ. Quân Xiêm đi đến đâu cướp bóc đến đấy, Nguyễn Ánh dù bất bình nhưng không can thiệp được vì đã mất Chu Văn Tiếp, người liên lạc chính giữa hai bên Xiêm-Nguyễn. Chu Văn Tiếp tử trận, Lê Văn Quân được cử lên thay, liền cho quân tiến đánh lũy Ba Lai [Bến Tre] và Trà Tân [Định Tường]. Trong trận Ba Lai, Chưởng cơ quân Nguyễn là Đặng Văn Lượng bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Kim chém chết, tướng Quân cũng bị Lê Văn Kế chém trọng thương. Kể từ đó, bộ chỉ huy liên quân cho đóng quân dọc theo sông Tiền, từ cù lao Năm Thôn trở lên hướng Mỹ Tho và đặt đại bản doanh tại cù lao này.[18]
Cuối năm 1784, Trương Văn Đa sai Đô úy Đặng Văn Trấn về Quy Nhơn báo rõ tình hình nguy cấp ở phía Nam, vua Thái Đức [Nguyễn Nhạc] liền cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy đem đại binh vào chống ngăn[19]. Khoảng đầu năm Giáp Thìn [tháng 1 năm 1785], thì binh thuyền Tây Sơn vào đến nơi và đóng ở Mỹ Tho. Sau đó, tướng Nguyễn Huệ cử một ít quân mở những cuộc tập kích nhỏ để thăm dò. Biết quân Xiêm tham tàn, Nguyễn Huệ cho người đưa tiền của sang mua chuộc, bàn việc giảng hòa, cốt làm cho tướng Xiêm chủ quan và làm tăng thêm mối hoài nghi của chúa Nguyễn đối với quân Xiêm.[20] Nguyễn Huệ nói rằng: “Quân Xiêm chỉ tham của, ta lấy lợi mà nhử thì thế nào cũng được việc”. Nhờ kế mưu đó, mà Nguyễn Huệ có đủ thời gian để nghiên cứu địa hình và bố trí một trận quyết chiến. Ngoài mối nghi ngờ trên, càng ở gần nhau thì mâu thuẫn giữa quân Nguyễn, quân Xiêm và nhân dân Đại Việt càng trở nên sâu sắc. Quân Xiêm cậy mình là kẻ cứu giúp Nguyễn Ánh nên đàn áp, cướp bóc nhân dân, khinh mạn cả chúa Nguyễn và quân Nguyễn.[21] Sách "Hoàng Việt hưng long chí" chép: "Quân Xiêm tàn bạo, đi đến đâu đều cướp bóc, bắt bớ; nên dân chúng ta thán oán ghét". Theo Mạc Thị gia phả, tướng Xiêm là Chiêu Tăng, Chiêu Sương khi đánh Ba Lai đã “giết hại nhân dân và cướp bóc vàng bạc, của cải không biết bao nhiêu mà kể”. Vua Xiêm về sau này cũng phải thừa nhận: “Hai tên súc sinh Chiêu Tăng và Chiêu Sương làm việc kiêu căng, hung hãn, vào sâu đất giặc, không tuân lệnh quốc vương [chỉ Nguyễn Ánh], tàn hại nhân dân nước ấy...”. Theo lời vua Xiêm thì tướng Xiêm đã dùng chiến thuyền chở về nước rất nhiều con gái, vàng bạc, của cải cướp được ở nước Việt. Trong thư đề ngày 25 tháng 1 năm 1785, chúa Nguyễn Ánh phải than phiền với giáo sĩ J. Liot rằng:
Đại Nam thực lục thì chép:
Lực lượng của Nguyễn Ánh không có bao nhiêu, tất cả đều phải dựa vào quân Xiêm. Do những hành động tàn bạo của quân Xiêm khiến nhân dân phẫn nộ, Nguyễn Ánh mất dần tin tưởng vào quân Xiêm. Cuối năm 1784, khi quân Xiêm còn đang đánh Nam Bộ thì Nguyễn Ánh đã bắt đầu mở đường cho sự can thiệp của tư bản Pháp. Tháng 11 năm 1784, Nguyễn Ánh nhờ giám mục Bá Đa Lộc - sang cầu viện nước Pháp. Bá Đa Lộc đã đem Hoàng tử Cảnh làm "con tin" để đi sang Pháp cầu viện. Trận chínhSửa đổiLược đồ trận Rạch Gầm – Xoài Mút So sánh lực lượng, biết không thể nào đánh thẳng vào Sa Đéc hay Trà Tân được, Nguyễn Huệ liền đi xem xét địa hình, thăm dò lòng dân ở đây và tìm hiểu điểm mạnh, yếu của đối phương. Cuối cùng, ông quyết định chọn khúc sông Mỹ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút,[23] cách Mỹ Tho khoảng 12 km, làm trận địa quyết chiến.[24] Đoạn sông này được Nguyễn Huệ dựa trên nhiều tính toán. Nó dài khoảng 7km, lòng sông rộng, đủ để dồn hàng trăm chiến thuyền quân Xiêm. Đồng thời, với sự kết hợp tự nhiên giữa hai con sông nhỏ Rạch Gầm, Xoài Mút, sông Trước, sông Sau với địa thế hai bên bờ sông Mỹ Tho và cù lao Thới Sơn, rất thuận lợi trong hoạt động tác chiến mai phục. Nguyễn Huệ triệt để lợi dụng địa hình, tạo lập thế trận mai phục hiểm hóc. Theo đó, thủy quân và thuyền chiến Tây Sơn được giấu kín trên hai sông Rạch Gầm, Xoài Mút và sông Sau; pháo binh và bộ binh được bố trí bí mật ở hai bên bờ sông Mỹ Tho và trên cù lao Thới Sơn. Khi quân Xiêm - Nguyễn lọt vào sông Trước, thủy binh Tây Sơn từ hai con sông nhỏ Rạch Gầm và Xoài Mút sẽ tiến ra đánh “chặn đầu, khóa đuôi”, dồn thuyền địch vào khu vực lựa chọn. Hàng trăm thuyền chiến bị dồn vào 1 khúc sông thì không thể cơ động né tránh, sẽ trở thành mục tiêu dễ dàng cho lực lượng pháo binh Tây Sơn mai phục sẵn trên bờ. Ở trên bờ, bộ binh Tây Sơn sẽ phối hợp đánh “thốc” vào bên sườn đội hình địch, chia cắt ra nhiều mảng để tiêu diệt. Sau khi bí mật cho quân và tàu chiến ẩn náu ở các nơi hiểm yếu, Nguyễn Huệ lệnh cho quân đến khiêu khích. Lập tức, Chiêu Tăng giao Sạ Uyển ở lại giữ đại bản doanh, cử Lục Cổn dẫn bộ binh men theo tả ngạn sông Tiền để cùng phối hợp; còn ông cùng với tướng tiên phong là Chiêu Sương, dẫn hàng trăm thuyền chiến tiến xuống Mỹ Tho, nơi đặt đại bản doanh của Tây Sơn. Đêm ngày 18 tháng 1 năm 1785 [ngày 8 tháng Chạp năm Giáp Thìn], lợi dụng con nước đang xuôi, cả hai đạo thủy bộ quân Xiêm cùng rầm rộ tấn công. Đến khoảng đầu canh năm ngày 19 tháng 1 năm 1785, đoàn thuyền chiến của địch lọt vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn ở Rạch Gầm - Xoài Mút, tức thì pháo lệnh tấn công của Tây Sơn nổ vang. Mở đầu trận đánh, hai đội thủy binh Tây Sơn từ Rạch Gầm - Xoài Mút bất ngờ lao ra, chặn đánh hai đầu, dồn quân địch vào vòng vây đã bố trí sẵn. Đồng thời, từ hai bờ sông Tiền [đoạn Rạch Gầm-Xoài Mút] và dọc bờ cù lao Thới Sơn, bãi Tôn, cồn Bà Kiểu, Rừng Dừa... các đại bác cùng pháo hỏa hổ của bộ binh Tây Sơn bắn ra dữ dội vào khúc giữa đoàn thuyền địch lúc bây giờ đang bị ùn lại. Đồng loạt, đoàn thuyền Tây Sơn từ Rạch Gầm - Xoài Mút từ trong những nhánh rạch nhỏ chảy quanh các cồn bãi, nhanh chóng kéo ra chặn đánh đầu. Một đoàn thuyền Tây Sơn khác ẩn náu sau cù lao Thới Sơn, xông ra đánh mạnh vào hông [nhằm chia cắt đội hình] và đánh chặn đường lui, dồn đoàn thuyền của đối phương vào thế tiến thoái lưỡng nan. Cùng lúc ấy, quân Tây Sơn cho những thuyền nhẹ chở đầy những vật liệu dễ cháy đâm thẳng vào những chiến thuyền đang rối loạn làm cho số bị chìm, số bị cháy... Quân Tây Sơn, thủy bộ phối hợp với nhau, khép chặt vòng vây, tiêu diệt quân địch hết mảng này đến mảng khác. Dưới sự chỉ huy và đốc chiến của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn lao vào cuộc chiến đấu quyết liệt. Một viên tướng quân Nguyễn về Long Hồ kể cho Mạc Tử Sinh biết: "Nguyễn Huệ đốc chiến ở phía sau, ra lệnh liều chết đánh, quân sĩ nào không quyết chiến thì chém ngay để làm răn. Vì thế các tướng sĩ đều liều, không nghĩ gì đến tính mệnh... tiến công rất là mãnh liệt"[25]. Trời vừa rạng sáng thì chiến cuộc cũng vừa dứt. 300 chiến thuyền và 2 vạn thủy binh của Xiêm cùng một số quân của chúa Nguyễn, không đầy một ngày, đã bị quân Tây Sơn phá tan. Hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương chạy trốn về Sa Đéc, bị truy kích, lại hối hả cùng Sa Uyển dẫn vài nghìn tàn quân chạy bộ sang Chân Lạp rồi về Xiêm.[26] Riêng chúa Nguyễn Ánh thì đã sớm bỏ chạy khi thấy giao tranh nổ ra. Theo "Đại Nam chính biên liệt truyện", khi Nguyễn Ánh vừa thấy "thế giặc mãnh liệt, không thể chống nổi" [Mạc Thị gia phả] thì đã vội vã cùng đoàn tùy tùng rút chạy theo sông Trà Luật ra sông Tiền rồi tìm đường sang Trấn Giang [Cần Thơ]. Theo Đại Nam thực lục: lúc này chỉ còn cỡ 10 người chạy cùng Nguyễn Ánh là Trần Phước Giai, Nguyễn Văn Bình, Lê Văn Duyệt,... Tại Long Hồ, Mạc Tử Sinh đưa 3 chiếc thuyền còn lại để đón chúa Nguyễn chạy sang Hà Tiên. Tàn quân dần dần nhóm họp lại, chạy theo Nguyễn Ánh có hơn 200 người và 5 chiếc thuyền chạy ra đảo Thổ Châu, Cổ Cốt rồi lại trốn sang Xiêm. Còn quân của chúa Nguyễn thì tan tác mỗi người một ngả. Viên cai cơ chỉ huy quân thủy là Nguyễn Văn Oai bị chết tại trận. Những viên tướng khác như Nguyễn Văn Thành, Tôn Thất Huy, Tôn Thất Hội... mỗi người cũng chỉ còn dăm chục quân.
Khu vực xảy ra trận Rạch Gầm – Xoài Mút Sau trậnSửa đổiChiêu Tăng, Chiêu Sương cùng với một số tàn quân trốn được lên bờ bắc sông Mỹ Tho, phải liều chết đánh phá để mở đường chạy lên Quang Hóa[28] rồi qua đất Chân Lạp về Xiêm. Số tàn quân sống sót chạy theo Chiêu Tăng, Chiêu Sương có khoảng vài nghìn người. Ngày 4 tháng 2 năm 1785, vua Xiêm nhận được tin bại trận, vội phái Phi-Nhã Xuân[29] đem 10 chiếc thuyền đi cứu tàn quân chạy trốn bằng đường biển. Khi gặp mặt, tàn quân trả lời Phi-Nhã Xuân: "Chiêu Tăng đại bại, đã theo đường bộ Cao Miên chạy trốn để thoát nạn. Chúng tôi bị thua ở phía sau không biết đường bộ thập tử thất sinh thế lào, may cướp được một số thuyền của dân, chạy trốn về đây"[30] Trong lần chạy tháo thân này, Nguyễn Ánh và đoàn tùy tùng lại lâm vào cảnh rất khổ sở, có lúc cạn cả lương ăn, tướng Nguyễn Văn Thành phải đi ăn cướp, bị người dân đánh trọng thương, suýt chết.[31]Nguyễn Ánh cũng phải ăn cơm ngô và có lúc mệt mỏi, kiệt sức quá phải nhờ người tùy tùng cõng chạy[32]. Số quân bản bộ của Nguyễn Ánh có khoảng 4 nghìn thì chỉ còn hơn 800 người chạy thoát sang Xiêm, trong đó có 200 chạy trốn theo Nguyễn Ánh và 600 chạy theo Lê Văn Quân. Ngày 25 tháng 1 năm 1785, Nguyễn Ánh sai Mạc Tử Sanh và Chánh cơ Trung sang Xiêm báo tin thất trận. Đến khi các tùy tướng dẫn tàn quân tìm đến, cả đoàn mới kéo nhau ra sống ở đảo Thổ Chu. Trong bức thư gửi cho giáo sĩ Li-ô sáu ngày sau trận Rạch Gầm - Xoài Mút, Nguyễn Ánh kể "Chúng tôi vừa bị thua trận, tất cả quân lính đều bị tan vỡ"[33] Tháng 3 năm Ất Tỵ [1785], quân Tây Sơn đến truy đuổi, chúa Nguyễn cùng với khoảng 200 quân tướng và 5 chiếc thuyền[34] lại phải chạy sang đảo Cổ Cốt, rồi sang Xiêm. Sử nhà Nguyễn là Quốc triều chính biên toát yếu chép: Tướng Xiêm là Chiêu Tăng, Chiêu Sương không biết địa lý, lại quen thắng trận luôn, liền kéo quân thẳng xuống Mỹ Tho, gặp quân phục binh chặn đánh, quân Xiêm thua, theo đường núi Chân Lạp chạy về...Tháng 4 năm Ất Tỵ [1785], ngài [Nguyễn Ánh] đến thành Vọng Các, vua Xiêm hỏi sự trạng bị thua. Ngài nói hết chuyện Tăng, Sương tàn bạo, dân ta thán, nên thua. Xiêm vương giận lắm, muốn chém Tăng, Sương, ngài lại hòa giải...Xiêm vương mới nguôi giận.[35]Chính sử của nhà Nguyễn, dù được viết với quan điểm ủng hộ Nguyễn Ánh, phê phán Nguyễn Huệ cũng phải thừa nhận[36]:
Vua Xiêm Chakri I gọi Chiêu Tăng, Chiêu Sương là "ngu hèn, kiêu căng, hung hãn đến nỗi bại trận làm bại binh, nhục quốc".[25] Sau đó, Nguyễn Phúc Ánh xin vua Xiêm cho ra ở Đồng Khoai,[37] ngoại thành Vọng Các. Ở đây, đoàn chúa Nguyễn lo khẩn hoang, làm ruộng, đốn củi...để nuôi nhau. Còn Nguyễn Huệ, sau khi đánh dẹp xong, liền đem đại quân về Quy Nhơn, cử Đô đốc Đặng Văn Trấn ở lại giữ Gia Định. Sông Tiền, đoạn Rạch Gầm - Xoài Mút Trích nhận xét:
Trong bài thơ Lịch sử nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán hành động cầu viện quân đội ngoại quốc của Nguyễn Ánh:
Video liên quanChủ Đề |