Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và tác động đối với sinh viên Trường Đại học An ninh nhân dân

1. Nhận thức về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Trong lịch sử loài người đã và đang trải qua các cuộc cách mạng công nghiệp:

- Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất vào năm 1784 khởi nguồn từ nước Anh đặc trưng là cơ khí hóa với máy chạy bằng thủy lực và phát minh ra động cơ hơi nước (phát minh này của James Watt công bố năm 1775) - Kỷ nguyên sản xuất cơ khí.

- Cách mạng công nghiệp lần thứ hai từ năm 1871 - 1914 đặc trưng là động cơ điện, vận tải, hóa học, sản xuất thép và sản xuất trên cơ sở điện cơ khí và sang giai đoạn tự động hóa và khởi nguồn từ Mỹ.

- Cách mạng công nghiệp lần thứ ba từ năm 1969, với sự ra đời của công nghệ thông tin, sử dụng điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Được xúc tác bởi chất bán dẫn, siêu máy tính, laptop (1970 và 1980), Internet (thập niên 1990) trung tâm và khởi nguồn từ Mỹ.

- Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra một cách nhanh chóng chưa từng có trong lịch sử từ năm 2011, thuật ngữ “cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đã được đề cập và sử dụng phổ biến trên toàn thế giới. Khái niệm “công nghiệp 4.0” (industry 4.0) hay nhà máy thông minh lần đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ công nghiệp Hannover (Cộng hòa Liên bang Đức) vào năm 2011. Năm 2013, thuật ngữ công nghiệp 4.0 bắt đầu được tìm hiểu và tìm kiếm rộng rãi xuất phát từ một báo cáo của Chính phủ Đức đề cập đến cụm từ này nhằm nói tới chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà không cần sự tham gia của con người. Tại Diễn đàn kinh tế thế giới lần thứ 46 ở thành phố Davos-Klosters, Thụy Sĩ (tháng 01/2016) với chủ đề “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Giáo sư Klaus Schwab - Chủ tịch Diễn đàn kinh tế thế giới đã đưa ra một khái niệm mới, mang tính phổ quát hơn: “Một cụm thuật ngữ cho các công nghệ và khái niệm tổ chức trong chuỗi giá trị” đi cùng với hệ thống vật lý không gian ảo, internet kết nối vạn vật (IoT) và internet các dịch vụ (IoS).

Sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 dựa trên ba trụ cột chính:

- Nguồn dữ liệu lớn (big data):dữ liệu lớn được thể hiện ở cả ba phương diện thời gian, không gian, đối tượng.

- Trí tuệ nhân tạo (AI): được thể hiện trên nhiều khía cạnh khác nhau nhưng tập trung chủ yếu vào robot và camera nhận diện thông minh.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển như vũ bão

- Internet kết nối vạn vật:Internet ngày nay đã trở thành một lực lượng vật chất quan trọng đối với mọi hoạt động của cuộc sống con người, không chỉ kết nối giữa con người với con người, giữa con người với vật thể mà còn giữa vật thể với vật thể - làm cho máy móc giao tiếp được với máy móc thông qua việc sử dụng công cụ hiện đại như email, website, điện thoại thông minh, thiết bị điện tử, thiết bị số hóa.

Đặc trưng của cách mạng công nghiệp 4.0 được thể hiện ở 3 điểm chính:

- Sự kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực tế: Đây là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật kết nối IoT và các hệ thống kết nối IoS. Nhờ khả năng kết nối thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận với cơ sở dữ liệu lớn, các tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột phá công nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ người máy, xe tự lái, công nghệ in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử.

- Có quy mô và tốc độ phát triển chưa từng có trong lịch sử loài người. “Nếu như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây diễn ra với tốc độ theo cấp số cộng (hay tuyến tính) thì tốc độ phát triển của cách mạng công nghiệp lần thứ tư này là theo cấp số nhân”. Theo đó, những đột phá công nghệ diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tốc độ nhanh chóng và mức độ tương tác rộng lớn sẽ tạo ra một thế giới được số hóa, tự động hóa và hoạt động ngày càng trở nên hiệu quả, thông minh hơn.

- Có sự tác động mạnh mẽ và toàn diện đến thế giới đương đại. Điều này thể hiện ở sự ảnh hưởng sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh… với các cấp độ từ toàn cầu đến châu lục, khu vực và trong từng quốc gia.

2. Sinh viên Trường Đại học An ninh nhân dân sẽ làm gì và làm như thế nào trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động sâu rộng tới nhận thức, cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị, quan hệ giữa các dân tộc, tạo ra những cơ hội và những thách thức đối với mỗi quốc gia trong thời đại ngày nay.Cùng với toàn bộ các cơ quan, ban, ngành trên cả nước, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đang khẩn trương xây dựng và triển khai các biện pháp nhằm chủ động tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Trong đó, với vai trò của nguồn nhân lực trẻ, thế hệ kế cận của Đảng, của Ngành trong tương lai, lực lượng sinh viên các trường Công an nhân dân nói chung và sinh viên Trường Đại học An ninh nhân dân nói riêng đang đứng trước cơ hội nắm bắt công nghệ để có thể đương đầu với thách thức khi nước ta thực sự bước vào cuộc cách mạng công nghiệp, nắm bắt chìa khóa mở ra cánh cửa bước vào sân chơi toàn cầu hóa.

Do vậy, sinh viên Trường Đại học An ninh nhân dân sẽ làm gì và làm như thế nào trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư:

Một là,nhận thức sâu sắc về tác động, ảnh hưởng to lớn của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cuộc cách mạng này sẽ tạo ra động lực mới để thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ chuyển sang nền kinh tế tri thức, sang xã hội “thông minh”. Sự giao thoa và hội tụ các lĩnh vực công nghệ cao sẽ xóa mờ dần ranh giới giữa các khâu/công đoạn, quy trình sản xuất, đặc biệt là các khâu thiết kế, gia công, lắp ráp và chế tạo ra sản phẩm, từ đó sản xuất sẽ đạt trình độ rất cao, tối ưu hóa cao, làm cho lợi ích kinh tế ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Bên cạnh đó, cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ phân cực lực lượng lao động, nguy cơ thất nghiệp gia tăng không chỉ của người nghèo và ở nước nghèo. Do đó, các quốc gia muốn tiến vào cuộc cách mạng công nghiệpnày đòi hỏi phải có mộtnguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ của cuộc cách mạng vào thực tiễn sản xuất để có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển đặt ra.Chính vì vậy, ngay từ trên giảng đường đại học, sinh viên phải chủ động tích lũytri thức về công nghệ thông tin,chủ động cập nhật kịp thời và ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất của thế giới vào học tập, công tác và cuộc sống.

Hai là, ứng dụng thành tựu của cách mạng 4.0 trong học tập, nghiên cứu: Kết nối internet toàn cầu mang lại cho mỗi cá nhân nguồn tài nguyên khổng lồ, vô vàn cơ hội tìm kiếm thông tin, tư liệu, sách trực tuyến. Đối với các môn học thuộc bộ mộn Lý luận chính trị và khoa học xã hội nhân văn, Pháp luật, Tâm lý, Tin học, Ngoại ngữ,... sinh viên hoàn toàn có thể chủ động tìm kiếm và lưu trữ các nguồn tài liệu tham khảo, kiến thức bổ sung, ứng dụng các phần mềm trên điện thoại, máy vi tính, laptop để thực hiện bài tập một cách khoa học, sáng tạo, sinh động và dễ nhớ, dễ hiểu. Thậm chí trong các môn học Nghiệp vụ, công nghệ đã được ứng dụng vào thư viện nghiệp vụ của Nhà trường, nhờ đó sinh viên có thể dễ dàng tìm kiếm giáo trình, sách, tư liệu, tài liệu,.. trên hệ thống phần mềm lưu trữ. Vì kiến thức là vô tận và ngày càng hoàn thiện, nên chỉ có sự kết nối tri thức toàn nhân loại mới là thư viện lớn nhất, đáp ứng yêu cầu tìm tòi, nghiên cứu của người học. Mấu chốt chính là sự khác biệt giữa việc lựa chọn học tập chủ động hay thụ động, ứng dụng một cách tích cực để cách mạng 4.0 vừa là động lực thúc đẩy, vừa là công cụ hỗ trợ cho sinh viên thực hiện mục tiêu của mình.

Hơn bao giờ hết, trước những khó khăn mà đại dịch Covid-19 mang lại, cuộc cách mạng 4.0, sự kết nối toàn cầu, chuyển đổi số,... đã chứng minh được tầm quan trọng và sự tất yếu trong mọi lĩnh vực của đời sống, từ kinh tế - xã hội đến giáo dục - đào tạo. Để đảm bảo “mục tiêu kép”, vừa thực hiện công tác phòng chống dịch bệnh, vừa tích cực, chủ động triển khai và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ chuyên môn được giao, thầy và trò Trường Đại học An ninh nhân dân đã nhanh chóng thực hiện chuyển đổi số, dạy và học trực tuyến qua nhiều ứng dụng công nghệ như Google Meet, Kahoot!, Quizziz,... an toàn, hiệu quả.

Ba là,không ngừng rèn luyện, phát triển kỹ năng đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình mới. Song song với nhiệm vụ học tập, nhiệm vụ rèn luyện, phát triển toàn diện của sinh viên Trường Đại học An ninh nhân dân cũng được chú trọng, và đã có nhiều thay đổi vượt bậc cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng lần thứ 4. Đoàn thanh niên, các Câu lạc bộ đã chủ động, sáng tạo tổ chức các hoạt động ứng dụng khoa học, công nghệ như Cuộc thi online “Sáng mãi truyền thống anh hùng” theo hình thức trả lời các câu hỏi, tìm hiểu kiến thức trực tuyến trên nền tảng website myaloha.com, xây dựng video clip tuyên truyền, thường xuyên viết bài đăng tải tại Trang sinh viên và website của Nhà trường, qua đó đã định hướng, lan tỏa cho sinh viên các khóa tích cực nghiên cứu, phát triển toàn diện các kỹ năng, đồng thời tham gia và đạt nhều thành tích cao trong các hội thi, cuộc thi quy mô lớn như Olympic toàn quốc các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh “Ánh sáng soi đường”, “Olympic tiếng Anh dành cho cán bộ trẻ” do Trung ương Đoàn TNCS tổ chức, hay thi Hùng biện “Say to Succeed” của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh với sự tham gia của sinh viên từ nhiều trường đại học khác nhau.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Tuổi trẻ Trường Đại học An ninh nhân dân vinh danh ở vị trí cao nhất của cuộc thi Olympic Tiếng Anh dành cho cán bộ trẻ lần II năm 2020.

Bốn là,mỗi sinh viên Trường Đại học An ninh nhân dân xác định rõ những cơ hội và thách thức của sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia trước tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, đặc biệt là các mối nguy cơ về an ninh phi truyền thống. Với những yêu cầu trong tình hình mới đòi hỏi lực lượng Công an nhân dân, trong đó có sinh viên Trường Đại học An ninh nhân dân phải không ngừng nâng cao trình độ để đảm bảo an ninh, phòng chống tội phạm trên không gian mạng, tội phạm công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia, đa quốc gia... Bên cạnh những mặt tích cực, cần trang bị hiểu biết và cách thức nhận diện, đấu tranh, loại bỏ những tác động tiêu cực của lỗ hổng an ninh mạng, bảo vệ bí mật nhà nước, tác động xấu từ mạng xã hội...

Năm là,bản thân mỗi sinh viên của Nhà trường cần tự giác, chủ động, liên tục tìm tòi, cập nhật những tri thức mới, sẵn sàng học hỏi và đổi mới, đặc biệt là về những tiến bộ khoa học công nghệ và kỹ năng ứng dụng vào thực tiễn (như việc sử dụng hệ thống camera giám sát giao thông kết nối, cải cách thủ tục hành chính trong quản lý nhân hộ khẩu, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý về an ninh trật tự, thủ tục xuất nhập cảnh, cấp thị thực điện tử…), phát triển toàn diện về ngoại ngữ, kỹ năng mềm. Trong bối cảnh toàn lực lượng đang ra sức góp phần đẩy lùi đại dịch Covid-19, các khóa sinh viên Trường Đại học An ninh nhân dân không chỉ trực tiếp xung kích trên tuyến đầu chống dịch mà còn phải tích cực lan tỏa những thông tin đúng đắn, chủ động nhận diện thủ đoạn tinh vi của các phần tử xấu, bảo vệ “vùng xanh” trên không gian mạng trong tình hình hiện nay. Để “Với tinh thần đổi mới, sáng tạo và phát triển, tin tưởng rằng Trường Đại học An ninh nhân dân sẽ viết tiếp trang sử hào hùng của một tập thể đã trải qua muôn vàn thử thách trong cả thời chiến lẫn thời bình, xứng đáng với truyền thống Anh hùng để vững bước tiến lên” [2].

Hồ Thị Quỳnh Ngân

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tô Lâm (2021). Đề cương chuyên đề “Những nhận thức mới, tư duy mới về an ninh quốc gia trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

2. Võ Hồng Công. Chuyển đổi số - Trọng tâm hiện đại hóa Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn đến 2030, từ .

Tin khác

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Tổ quốc gọi - Chúng ta lên đường(23/07/2021)

Phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân là nghĩa vụ, trách nhiệm, đồng thời là niềm vinh dự lớn lao của Công an nhân dân nói chung, lực lượng An ninh nhân dân nói riêng, trong đó có học viên, sinh viên của Trường Đại học An ninh nhân dân anh hùng.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Sinh viên Trường Đại học An ninh nhân dân đi thực tế tại Bảo tàng Hồ Chí Minh (Bến Nhà rồng)(30/10/2020)

Sinh viên Trường Đại học An ninh nhân dân đi thực tế tại Bảo tàng Hồ Chí Minh (Bến Nhà rồng) trong chương trình bồi dưỡng bổ sung, hoàn thiện kiến thức tương đương trình độ trung cấp lý luận chính trị

  • Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
Thư viện ảnh
  • Thư viện Ảnh
Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Những hình ảnh Trường Đại học ANND (1989-1995), Phân hiệu Đại học ANND (1995-2001), Phân hiệu Học viện ANND (2001-2003)

Trường Đại học ANND (1989-1995), Phân hiệu Đại học ANND (1995-2001), Phân hiệu Học viện ANND (2001-2003)

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1984-1989

Giai đoạn 1984-1989: Trường Cao đẳng An ninh nhân dân II

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1976-1984

Giai đoạn 1976-1984: Trường Bổ túc sỹ quan Công an nhân dân

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1963-1976

Giai đoạn 1963-1976: Trường An ninh Trung ương cục miền Nam

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Sự ra đời của lực lượng CAND - Tất yếu của lịch sử

"Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ". Thấm nhuần tư tưởng của Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang gồm Quân đội, Công an để bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân

href="http://dhannd.edu.vn/thu-vien-anh-883">
Thư viện Video
  • Thư viện Video
Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
videocam

Trường Đại học An ninh nhân dân - Nơi ươm mầm sĩ quan an ninh tương lai

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
videocam

Phim Tư liệu: 75 năm - Một bản hùng ca

Phim Tư liệu “75 năm - một bản hùng ca” góp phần ôn lại cũng như phát huy truyền thống anh hùng 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng An ninh nhân dân.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
videocam

Học viên Trường Đại học An ninh nhân dân đảm bảo trực tết và phòng chống dịch Covid-19

Học viên các Trường CAND tham gia lực lượng ứng trực đảm bảo trực tết và phòng chống Covid-19

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
videocam

Hành trình gian nan đưa thi thể Đại úy Trương Văn Thắng về nơi an nghỉ

Hy sinh trong lúc ứng cứu người dân bị nước lũ cuốn trôi từ đêm ngày 17/10, tại xã Hướng Việt, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, đến tối ngày 20/10 các đồng đội mới có thể đưa đồng chí Đại úy Trương Văn Thắng về nơi an nghỉ.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
videocam

Xây dựng Đảng bộ Công an Trung ương trong sạch, vững mạnh

Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, xây dựng đảng bộ thực sự trong sạch vững mạnh, là đảng bộ kiểu mẫu, tiêu biểu về phẩm chất, năng lực lãnh đạo các mặt công tác công an.

href="http://dhannd.edu.vn/thu-vien-video">

4 yêu cầu 'cứng' đối với sinh viên ''đời' 4.0

Giáo dục - Đại học

Những yếu tố của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã đặt con người trước cuộc cạnh tranh việc làm và chinh phục trí tuệ nhân tạo, robot.

Để có thể đương đầu với thách thức khi nước ta thực sự bước vào cuộc cách mạng công nghiệp này, các bạn sinh viên phải chuẩn bị cho mình tri thức về công nghệ thông tin và trình độ ngoại ngữ tốt, kỹ năng mềm thành thạo và kinh nghiệm làm việc thực tế để mở ra cánh cửa bước vào sân chơi toàn cầu hóa.

1. Khả năng ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ vào thực tiễn

Ngày nay cả thế giới và Việt Nam đang tiến vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hay còn gọi là công nghiệp 4.0. Cuộc cách mạng này sẽ biến đổi cách sống, làm việc và giao tiếp của toàn nhân loại theo cách hoàn toàn mới.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã đặt con người trước cuộc cạnh tranh việc làm. Ảnh: Internet

Trung tâm của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư là công nghệ thông tin (CNTT) và Internet kết nối vạn vật (IoT), không chỉ giúp con người giao tiếp với con người, mà còn là con người giao tiếp với máy, con người giao tiếp với đồ vật và đồ vật giao tiếp với nhau.

Do đó, các quốc gia muốn tiến vào cuộc cách mạng công nghiệpnày đòi hỏi phải có mộtnguồn nhân lực chất lượng cao có khả năng ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ của cuộc cách mạng vào thực tiễn sản xuất để có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển đặt ra.

Vì thế, ngay từ trên giảng đường đại học, sinh viên phải chủ động tích lũytri thức về công nghệ thông tin,chủ động cập nhật kịp thời và ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất của thế giới vào cuộc sống thì chúng ta mới có cơ hội cạnh tranh việc làm, mở ra cánh cửa để bước vào sân chơi toàn cầu hóa.

2. Ngoại ngữ tốt - mở rộng cơ hội nghề nghiệp

Trau dồi vốn ngoại ngữ là yêu cầu mang tính cần thiết. Khả năng sử dụng ngoại ngữ sẽ tạo cơ hội cho chúng ta tiếp cận với các tin tức, sách báo, tài liệu nước ngoài, giao tiếp được với bạn bè quốc tế nhằm giao lưu, học hỏi văn hóa của các miền đất trên Thế giới và tiếp thu tri thức nhân loại.

Giữa xu thế “đa quốc gia hóa” của các công ty, biết ít nhất một ngoại ngữ sẽ giúp bạn nổi bật, dễ dàng nhận được công việc phù hợp với khả năng, trình độ bản thân, việc tìm kiếm các thông tin tuyển dụng sẽ mở rộng nhiều vị trí hấp dẫn.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
Biết ít nhất một ngoại ngữ sẽ giúp bạn nổi bật, dễ dàng nhận được công việc phù hợp với khả năng, trình độ bản thân. Ảnh: Internet

Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng học ngoại ngữ không đơn thuần chỉ là biết từ vựng và hiệu quả, nghĩa là người học ngoại ngữ đồng thời phải học hỏi văn hóa nước khác để có cách diễn đạt phù hợp. Một giảng viên tiếng Anh đã từng nói: “Không thể dạy được ngoại ngữ nếu người đó không am hiểu về văn hóa nước họ”. Cũng như vậy, việc học ngoại ngữ cũng cần gắn với mục đích đúng đắn nhất định, đó là phục vụ học tập, làm việc, giao tiếp và giải trí lành mạnh.

3. Kỹ năng mềm thành thạo - lợi thế hòa nhập với môi trường làm việc

Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống con người, thường không được học trong nhà trường, không liên quan đến kiến thức chuyên môn. Nhưng, kỹ năng mềm lại quyết định bạn là ai, làm việc thế nào, là thước đo hiệu quả cao trong công việc.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, kỹ năng mềm quyết định 75% thành công của con người còn kỹ năng cứng (hay kiến thức, trình độ chuyên môn) chỉ chiếm 25%. Chìa khóa dẫn đến thành công thực sự là bạn phải biết kết hợp cả hai kỹ năng này một cách khéo léo.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
Rèn luyện, tích lũy kỹ năng mềm thông qua các chương trình phát triển cá nhân. Ảnh: Internet

Kỹ năng mềm bao gồm: giao tiếp, làm việc nhóm, chọn partner, kỹ năng trình bày (thể hiện và vận dụng trí tuệ, công nghệ, bản lĩnh), quản lý thời gian… Đặc biệt, là kỹ năng quản lý thời gian để giúp các bạn sinh viên không sa đà vào mạng xã hội, giải trí mà làm việc thiếu hiệu quả, giảm năng suất. Trong quá tình học tập bạn cần khai thác và phát triển tối đa khả năng tiềm ẩn của mình. Hãy tham gia các chương trình ngoại khóa sôi nổi, các câu lạc bộ, các lớp học... là nơi bạn có thể rèn luyện kĩ năng mềm.

Ngoài ra, bạn cũng cần tham gia vào công tác xã hội để biết chia sẻ năng lực và của cải với xã hội. Mối quan hệ là điều quan trọng, nó như một thư viện lớn. Khi cần việc gì sẽ tìm đến ngăn thư viện đó và mở nó ra, sẽ tìm được cách giải quyết khó khăn, thắc mắc của mình. Vì thế, xây dựng mối quan hệ từ thời sinh viên bằng cách tham gia các hoạt động xã hội của câu lạc bộ hay hội nhóm... là cách tích lũy cho mình những kiến thức, kinh nghiệm và quan trọng là những mối quan hệ tốt đẹp.

4. Kinh nghiệm làm việc thực tế - bí quyết gây ấn tượng với nhà tuyển dụng

Doanh nghiệp thường yêu cầu tuyển dụng ứng viên có kinh nghiệm, chính vì vậy nhiều sinh viên ra trường thường không đáp ứng được. Trái lại, nhiều sinh viên mới ra trường nhưng đã có bản CV đẹp với kinh nghiệm khá “dày”, họ nhanh chóng thích nghi với môi trường doanh nghiệp khi còn ở đại học.

Theo đó, kỳ thực tập là một lợi thế rất lớn giúp sinh viên vượt qua các kỳ tuyển dụng gắt gao cũng như không bị ngỡ ngàng khi bắt tay vào việc. Bởi kỳ thực tập là thời điểm tốt nhất để sinh viên có thể học hỏi kinh nghiệm trong lĩnh vực mà mình quan tâm. Về cơ bản, quá trình thực tập cũng gần giống như quá trình đào tạo cho một nhân viên mới trong công ty.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên
Kỳ thực tập là một lợi thế rất lớn giúp sinh viên vượt qua các kỳ tuyển dụng gắt gao cũng như không bị ngỡ ngàng khi bắt tay vào việc. Ảnh: Internet

Ngoài ra, nếu muốn có thêm kinh nghiệm làm việc ngay trong khóa học, một công việc làm thêm phù hợp với ngành học hoặc sở thích sẽ giúp bạn học hỏi nhiều điều bởi trong quá trình làm việc không tránh được những "va chạm" bạn sẽ có thêm nhiều kinh nghiệm để xử lý những tình huống đó. Những kinh nghiệm này sẽ giúp bạn tạo ấn tượng tốt trước nhà tuyển dụng

Hoa Lê (Tổng hợp/Theo Báo Nghệ An)

Giáo dục đại học

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ NHỮNG KỸ NĂNG CẦN THIẾT CHO SINH VIÊN VIÊN NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.72 KB, 11 trang )

CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 VÀ NHỮNG KỸ NĂNG
CẦN THIẾT CHO SINH VIÊN VIÊN NAM HIỆN NAY
ThS. Lê Đức Thọ
Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng
Emai:
Sđt: 0911 733 407
TÓM TẮT
Để hòa nhập vào cuộc cách mạng thời kỳ công nghiệp 4.0 đang bùng nổ
trên toàn cầu, sẽ có nhiều nghề mất đi, tuy nhiên lại có những công việc mới
ra đời. Để thích ứng với thời đại công nghệ số, ngoài việc trang bị kiến thức
thì sinh viên cần thay đổi tư duy theo hướng tiếp cận mới. Theo đó, trong bối
cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, sinh viên cần được giáo dục và
rèn luyện các kỹ năng cơ bản về: kỹ năng nghề nghiệp, kỹ năng ngoại ngữ, kỹ
năng tin học và các kỹ năng mềm. Bài viết cũng nêu lên một số giải pháp
nhằm nâng cao những kỹ năng cần thiết cho sinh viên Việt Nam hiện nay đáp
ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khóa: Sinh viên Việt Nam; kỹ năng; cách mạng công nghiệp 4.0.
1. Đặt vấn đề
Ngày nay, thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, cuộc cách mạng công nghiệp lần này mang đến nhiều cơ hội và cũng đầy
thách thức với nhân loại. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra sự thay
đổi vô cùng lớn trong đời sống, kinh tế xã hội và đây chính là thách thức của
ngành giáo dục trong việc đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu mới của thời
đại. Muốn hòa nhập vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vào nền kinh tế số,
yếu tố then chốt là nguồn nhân lực. Do đó, nền giáo dục Việt Nam nói chung
và các trường Đại học, cao đẳng nói riêng, nơi cung cấp cho xã hội nguồn
nhân lực, lao động sẽ phải đào tạo theo chuẩn giáo dục 4.0 theo hướng bảo
đảm khối kiến thức nền tảng vững chắc cho sinh viên. Bên cạnh đó, cần chú ý
giáo dục những kỹ năng cần thiết cho sinh viên nhằm đào tào ra nguồn nhân
lực lao động để đáp ứng nhu cầu phát triển trong bối cảnh mới của thế giới.
Vì vậy, việc nghiên cứu và tìm ra giải pháp nhằm rèn luyện và nâng cao


những kỹ năng cần thiết cho sinh viên trong bối cảnh cách mạng công nghiệp
4.0 hiện nay là việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn.
2. Cách mạng công nghiệp 4.0 và những yêu cầu đặt ra đối với người
lao động


Thuật ngữ "Cách mạng công nghiệp lần thứ tư" đã được áp dụng cho sự
phát triển công nghệ quan trọng một vài lần trong 75 năm qua và là để thảo
luận về học thuật. Khái niệm Công nghiệp 4.0 hay nhà máy thông minh lần
đầu tiên được đưa ra tại Hội chợ công nghiệp Hannover tại Cộng hòa Liên
bang Đức vào năm 2011. Công nghiệp 4.0 nhằm thông minh hóa quá trình sản
xuất và quản lý trong ngành công nghiệp chế tạo. Sự ra đời của Công nghiệp
4.0 tại Đức đã thúc đẩy các nước tiên tiến khác như Mỹ, Nhật, Trung Quốc,
Ấn Độ thúc đẩy phát triển các chương trình tương tự nhằm duy trì lợi thế cạnh
tranh của mình.
Năm 2013, một từ khóa mới là "Công nghiệp 4.0" (Industrie 4.0) bắt đầu
nổi lên xuất phát từ một báo cáo của Chính phủ Đức đề cập đến cụm từ này
nhằm nói tới chiến lược công nghệ cao, điện toán hóa ngành sản xuất mà
không cần sự tham gia của con người. Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF)
lần thứ 46 đã chính thức khai mạc tại thành phố Davos-Klosters của Thụy
Sĩ, với chủ đề “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, Chủ tịch của WEF
đã đưa ra một định nghĩa mới, mở rộng hơn khái niệm Công nghiệp 4.0 của
Đức. Nhân loại đang đứng trước một cuộc cách mạng công nghiệp mới, có
thể thay đổi hoàn toàn cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với nhau. Quy
mô, phạm vi và sự phức tạp của lần chuyển đổi này không giống như bất kỳ
điều gì mà loài người đã từng trải qua.
Hiện nay, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi khuôn khổ dự án của Đức với
sự tham gia của nhiều nước và trở thành một phần quan trọng của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư. Bản chất của cách mạng công nghiệp lần thứ 4
là dựa trên nền tảng công nghệ số và tích hợp tất cả các công nghệ thông minh

để tối ưu hóa quy trình, phương thức sản xuất; nhấn mạnh những công nghệ
đang và sẽ có tác động lớn nhất là công nghệ in 3D, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới, công nghệ tự động hóa, người máy,..
Cuộc cách mạng công nghiệp thứ 4 hay Công nghiệp 4.0, là xu hướng
hiện tại của tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất. Nó
bao gồm các hệ thống mạng vật lý, mạng Internet kết nối vạn vật và điện
toán đám mây.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 không chỉ là về các máy móc, hệ
thống thông minh và được kết nối, mà còn có phạm vi rộng lớn hơn nhiều.
Đồng thời là các làn sóng của những đột phá xa hơn trong các lĩnh vực khác
nhau từ mã hóa chuỗi gen cho tới công nghệ nano, từ các năng lượng tái tạo
tới tính toán lượng tử.
Công nghiệp 4.0 tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo ra các “nhà máy


thông minh” hay “nhà máy số”. Trong các nhà máy thông minh này, các hệ
thống vật lý không gian ảo sẽ giám sát các quá trình vật lý, tạo ra một bản sao
ảo của thế giới vật lý. Với IoT (Internet kết nối vạn vật), các hệ thống vật lý
không gian ảo này tương tác với nhau và với con người theo thời gian thực,
và thông qua IoS (Internet của các dịch vụ) thì người dùng sẽ được tham gia
vào chuỗi giá trị thông qua việc sử dụng các dịch vụ này.
Trước xu thế số hóa, máy móc tự động hóa thay thế con người. Đã đặt ra
những yêu cầu cần thiết đối với người lao động như: Khả năng ứng dụng
những tiến bộ khoa học công nghệ vào thực tiễn: sử dụng thành thạo tin học;
Ngoại ngữ tốt - mở rộng cơ hội nghề nghiệp; Kỹ năng mềm thành thạo - lợi
thế hòa nhập với môi trường làm việc; luôn năng cao trình độ chuyên môn để
đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới, tránh nguy cơ bị đào thải. Đó
là những yêu cầu cần thiết đối với người lao động khi bước cuộc cách mạng
4.0.
3. Những kỹ năng cần thiết cần giáo dục cho sinh viên Việt Nam

trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0
Hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước đang phát triển trong
khu vực và thế giới đều đang phải đối mặt với những thách thức lớn về sự
thiếu hụt lao động có trình độ cao và kỹ năng chuyên nghiệp để đáp ứng được
nhu cầu về nguồn nhân lực cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Dưới tác
động của cách mạng công nghiệp 4.0, việc máy móc, robot dần thay thế con
người sẽ đẩy vô số lao động phổ thông sẽ bị mất việc. Lực lượng lao động
ngày càng phải trở nên chất lượng hơn để đáp ứng được nhu cầu thực tế. Vì
vậy, có thể nói rằng để thích ứng được với cuộc cách mạng 4.0 thì các bạn
sinh viên phải ngày càng phải trở nên giỏi hơn, năng lực tốt hơn. Do đó, trong
bối cảnh mới, người sinh viên cần có những kỹ năng cần thiết sau đây:
Thứ nhất, kỹ năng nghề nghiệp
Kỹ năng nghề nghiệp được hiểu là khả năng của con người thực hiện
công việc nghề nghiệp một cách có hiệu quả trong một thời gian thích hợp,
với các điều kiện nhất định, dựa vào sự tích hợp nhuần nhuyễn các kiến thức,
kỹ năng, thái độ. Kỹ năng nghề nghiệp gồm những kỹ năng mềm giúp sinh
viên đánh giá đúng năng lực cá nhân, thị trường công việc từ đó có thể xác
định và theo đuổi hướng đi phù hợp với bản thân. Đa số sinh viên Việt Nam
hiện nay đã có thể đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề
nghiệp, bằng chứng là đa số các bạn có học lực khá, giỏi trở lên.
Nhưng bên cạnh đó cũng có không ít những bạn sinh viên có học lực
trung bình trở xuống, trình độ chuyên môn thì chỉ nắm ở mức độ sơ bộ, và


cũng có những trường hợp gần như không nắm chút gì về kiến thức chuyên
ngành. Sở dĩ các bạn ấy như thế không phải tại thầy cô, không hẳn là tại bạn
bè và môi trường xung quanh mà đa phần nằm ở nội tại bản thân các bạn ấy.
Thứ hai, kỹ năng ngoại ngữ
Có thể nói rằng trong xu thế hội nhập ở Việt Nam hiện nay, hầu hết các
nhà tuyển dụng đều chọn ngoại ngữ là một tiêu chí để đánh giá và sàng lọc

các ứng viên. Đặc biệt đối với công ty nước ngoài họ hoàn toàn sử dụng ngoại
ngữ trong suốt quá trình phỏng vấn, nếu không thông thạo ngoại ngữ bạn
không thể tiếp thị bản thân trong lần phỏng vấn đó. Chúng ta không thể phủ
nhận vai trò của của môn Ngoại ngữ và nó là môn quan trọng trong cuộc sống
hiện đại. Muốn trở thành một sinh viên giỏi và dễ dàng tìm kiếm công việc
cho sau này thì sinh viên phải có khả năng sử dụng thành thạo ngoại ngữ
trong quá trình giao tiếp và trong cuộc việc.
Đại đa số các bạn sinh viên đã hiểu được vai trò của ngoại ngữ trong xã
hội hiện đại nhưng tình trạng kém ngoại ngữ vẫn hết sức phổ biến và mang
tính đại trà trong sinh viên. Tuy nhiên, kỹ năng ngoại ngữ của sinh viên hiện
nay còn nhiều hạn chế, một bộ phận khong nhỏ các bạn sinh viên không thể
nghe, nói, đọc, viết một cách thành thạo. Phần lớn chỉ dừng lại ở các câu, từ
chào hỏi, giới thiệu tên tuổi và những câu nói xã giao thông thường chứ
không thể kể lại được một câu chuyện ngắn bằng tiếng Anh khoảng 100 từ.
Có bạn đến tận mãi học kỳ 2 của năm 3 đại học mà vẫn chưa có tín chỉ A2
hoặc B1 về Anh văn, mà chỉ vỏn vẹn học xong Anh văn căn bản 2, thậm chí
có bạn chưa học tiếng anh căn bản 2, hoặc rớt và học lại. Vấn đề này không
chỉ riêng là nổi sợ của các bạn sinh viên mà còn làm đau đầu các thầy cô
giảng viên ở các khoa nói riêng và cũng như của nhà trường nói chung.
Thứ ba, kỹ năng tin học
Kỹ năng tin học cơ bản sẽ giúp bạn hoàn thành nhiều công việc, đặc biệt
là công việc của bạn liên quan đến việc nhập dữ liệu, tính toán đơn giản.
Ngày nay, sự phát triển nhảy vọt của khoa học công nghệ nói chung và của
ngành tin học nói riêng, với những tính năng ưu việt, sự tiện dụng và được
ứng dụng rộng rãi, tin học hiện là một phần không thể thiếu được của nhiều
ngành trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. Trong đó phải kể đến
những ứng dụng của tin học đã đem lại những lợi ích đáng kể đối với sinh
viên như: tra cứu tài liệu, phục vụ việc tự học cho sinh viên, cung cấp kiến
thức cho sinh viên,…
Tuy nhiên, dù là rất quan trọng như vậy nhưng một số sinh viên vẫn xem

nhẹ tin học, sao khi chúng tôi tìm hiểu thì một số các bạn sinh viên dù là năm


3 năm 4 vẫn chưa có tín chỉ tin học ứng dụng của nhà trường. Tại vì sao? Câu
hỏi này chúng tôi đã hỏi rất nhiều bạn năm 3 và các bạn trả lời vì đủ thứ lý do
nhưng tóm gọn lại thì cũng chỉ trong 1 chữ “sợ”, các bạn sợ thi rớt. Vậy, tại vì
sao các bạn “sợ”? các bạn ấy cho hay, “word thì đánh máy chậm. không biết
định dạng, không biết sửa lổi trong word khi gặp vấn đề”, “powerpoint thì
không biết làm hiệu ứng”, “excel thì không biết sử dụng công thức nào cả”.
Bây giờ, chúng ta đang vào thời đại công nghiệp hiện đại “cách mạng công
nghiệp 4.0” với sự thay đổi nhanh chóng chưa từng có. Nhưng, chúng ta lại
yếu về tin học sẽ dẫn đến tình trạng không thích ứng với nền công nghiệp
hiện đại và đẩy các lùi về phía sau. Gây ra nạn thất nghiệp và đổ lỗi tại nhà
trường, xã hội. Trong khi đó một bộ phận sinh viên trường ta chưa chủ động
trong quá thích ứng của mình về tin học và công nghệ.
Thứ tư, kỹ năng mềm
Kỹ năng mềm là một thuật ngữ xã hội học chỉ những kỹ năng có liên
quan đến việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng hòa nhập xã hội, thái độ và hành
vi ứng xử áp dụng vào việc giao tiếp giữa người với người. kỹ năng mềm là
những kỹ năng có liên quan đến việc hòa mình vào, sống với hay tương tác
với xã hội, cộng đồng, tập thể hoặc tổ chức. Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng
để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống con người như: kỹ năng sống,
giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, thư giãn,
vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới.
Kỹ năng sáng tạo trong công việc: Kỹ năng này, không ai đủ khả năng
dạy bạn cách sáng tạo trong công việc và học tập, nếu có chỉ là hướng dẫn
bạn nên làm như thế nào để công việc đạt hiệu quả cao nhất. Vậy kỹ năng
sáng tạo trong công việc do chính bạn nắm bắt và tự tạo ra. Nhưng đa số các
bạn sinh viên vẫn chưa có kỹ năng này, phần lớn các bạn hay hành động gập
khuôn, có những lối suy nghĩ lối mòn không có tính sáng tạo. Chúng ta có thể

dễ dàng nhìn thấy trong những lần báo cáo bài thảo luận nhóm trên lớp, khi
giới thiệu bài thuyết trình cứ một câu “Xin chào thầy/cô và các bạn đến với
bài thuyết trình của nhóm…” hoặc khi đứng lên trả lời câu hỏi của giáo viên
cứ nói đúng y như những gì trong sách giáo trình viết chứ không thêm thoắt
những kiến thức, những hiểu biết của bản thân vào trong đó…và còn nhiều
biểu hiện khác nữa.
Kỹ năng giao tiếp hiệu quả, biết lắng nghe và học tập những lời phê bình:
Kỹ năng lắng nghe vô cùng quan trọng đối với tất cả sinh viên chúng ta. Dĩ
nhiên ai cũng biết lắng nghe, nhưng lắng nghe như thế nào cho hiệu quả thì
không phải bạn sinh viên nào cũng làm được. Các bạn hay đề cao cái tôi, cái


tự ái và cái bản lĩnh cá nhân lên quá cao. Các bạn hay nói chèn vào những lúc
người khác đang nói hoặc nói chưa dứt câu, khi các bạn nghe người khác
phản bác về những ý kiến mà mình đưa ra, lập tức các bạn trở nên khó chịu và
có lời lẻ chỉ trích lại mà không suy nghĩ xem những lời người khác góp ý là
đúng hay sai. Trong lúc tranh luận bài, các bạn không nghe người khác phát
biểu ý kiến, các bạn chú tâm vào bàn bạc hoặc nói chuyện riêng với những
bạn xung quanh…
Giao tiếp đối với nhiều người thật sự rất dễ dàng, nhưng với một số bạn
sinh viên thì đó lại là nỗi sợ hãi, lo lắng. Nhưng nếu các bạn là người không
giỏi trong giao tiếp, lời nói không có trọng lượng, không tạo được niềm tin
cho đối tác thì chắc chắn thành công sẽ rất khó đến. Thực tế thì vẫn còn nhiều
bạn sinh viên ngại giao tiếp, ngại nói chuyện với người khác, có những bạn
khi đi gặp gỡ bạn bè thì chỉ ngồi im lặng, nghe người khác nói, không dám
mở miệng vì không biết gì để nói hoặc sợ người khác cười vì nói chuyện “quá
thiếu muối”. Chúng ta cũng có thể dễ dàng bắt gặp nhiều bạn sinh viên khi
nhắn tin zalo, Facebook… thì nói rất nhiều, nhưng khi gặp mặt thì người ta
nói thế nào cũng chỉ mỉm cười, không nói chuyện, làm cho cuộc nói chuyện
chỉ diễn ra một chiều khiến đối phương dễ nhàm chán và khó chịu, khiến mối

quan hệ trở nên nhạt nhẽo và tan rã.
Tự tin, năng động: Đây là hai yếu tố mà các bạn cần phải có trên con
đường chinh phục thành công. Một người tự tin sẽ luôn đặt cho mình những
mục tiêu rõ ràng cho cuộc đời mình và phấn đấu hết sức mình để đạt được nó.
Năng động sẽ giúp chúng ta có nhiều mối quan hệ và luôn được đánh giá cao.
Thế những vẫn tồn tại nhiều bạn sinh viên nhút nhát, không dám phát biểu ý
kiến, biết những không nói, thụ động trong mọi việc. Các bạn hãy quan sát
những bạn ngay trong lớp các bạn, sẽ có một số bạn khi giáo viên đưa ra câu
hỏi chỉ dám ngồi ở dưới thì thầm đưa ra câu trả lời cho bạn kế bên nghe chứ
không dám dơ tay phát biểu ý kiến, có những bạn có đủ khả năng để đại diện
lớp, đại diện khoa đi thi nhưng lại không ứng cử. Có những bạn thụ động, nếu
không bắt buộc các bạn ấy tham gia phong trào của lớp, của khoa bằng biện
pháp cưỡng chế thì sẽ không tham gia…
Kỹ năng làm việc đồng đội: Sinh viên không thể lúc nào cũng làm việc
một mình, dù ở bất kỳ môi trường làm việc nào cũng sẽ có lúc phải làm việc
nhóm. Điều kiện cần để làm việc nhóm là các bạn phải biết cách kết hợp hài
hoà với cách thành viên trong đội, trong nhóm để có được kết quả cuối cùng
tốt nhất. Vậy kỹ năng làm việc nhóm rất cần thiết cho quá trình học tập và
làm việc của bạn, khi làm việc nhóm cũng là cơ hội để bạn thể hiện năng lực,


sự nhiệt tình của bản thân trong công việc chung. Nhưng đa số sinh viên
không có kỹ năng làm việc nhóm tốt, đây là thực trạng của sinh viên hiện nay,
khi làm việc nhóm các bạn thường đẩy hết công việc cho những người giỏi,
có bạn thì thậm chí không làm gì và cũng không đi họp nhóm lấy một buổi.
Có bạn có ý tưởng những không nói ra, không thảo luận mà phó mặc cho các
bạn khác làm….
Bên cạnh đó còn nhiều kỹ năng khác nữa như kỹ năng quản trị cảm xúc,
kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng ra quyết định,… chúng tôi sẽ làm rõ trong
những bài nghiên cứu khác. Những kỹ năng mềm này không phải tự nhiên có

mà sẽ được hình thành trong quá trình làm việc, tích luỹ kinh nghiệm.
4. Biện pháp hình thành và hoàn thiện các kỹ năng cần thiết cho
sinh viên Việt Nam đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
4.1. Biện pháp nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho sinh viên
Để nâng cao trình đồ chuyên môn, kiến thức chuyên ngành thì sinh viên
không có cách nào khác ngoài tập chung chú ý lắng nghe và ghi chép lại
những thông tin mà giảng viên cung cấp trên lớp, bên cạnh đó là vấn đề tự
học, yếu tố quyết định nhất đến học lực và kiến thức của sinh viên. Sinh viên
có thể tự học, như thế sẽ giúp cho sinh viên nắm kiến thức vững vàng. Bên
cạnh đó sinh viên có thể tập hợp bạn bè thành một nhóm và trao đổi với nhau
về những kiến thức trong giáo trình và của giảng viên, bằng cách đọc sách,
hãy đọc giáo trình trước khi đến lớp và đọc lại giáo trình sau khi đã “học thầy
không tày học bạn” mà, các bạn vừa có thể trao đổi kiến thức với nhau vừa
tập được khả năng tranh luận nữa. Các bạn hãy đọc thêm nhiều sách, thông tin
có liên quan đến kiến thức chuyên môn và các lĩnh vực khác nữa nó sẽ hỗ trợ
cho các bạn dễ tiếp thu kiến thức chuyên ngành, có thêm nhiều kiến thức, có
tri thức vững vàng đáp ứng cho việc học và cũng như công việc sau này.
4.2. Biện pháp nâng cao kỹ năng ngoại ngữ cho sinh viên
Thứ nhất, các bạn cần phải xác định mục đích học ngoại ngữ là để làm
gì? Ngoại ngữ là một yêu cầu tất yếu của lao động có kỹ thuật cao nhằm đáp
ứng các quy trình công nghệ thường xuyên được đổi mới và thông thạo ngoại
ngữ còn là một năng lực cần thiết đối với sinh viên trong thời kỳ hiện nay nếu
muốn tồn tại và phát triển. Để từ đó tạo động lực cho bản thân trong việc học
Ngoại ngữ, rèn được tính kiên trì và cố gắng trong việc học.
Thứ hai, hãy học từ vựng. Mỗi ngày các bạn hãy giành thời gian ra để
học thuần thục 10 từ vựng mới, nếu tốt hơn các bạn hãy học cả một câu nói,
vì có như vậy các bạn vừa có thể học được từ vựng vừa có thể hiểu được cách
viết một câu như thế nào.



Thứ ba, rèn luyện kỹ năng nói. Hãy nhớ rằng những người nói ngoại ngữ
giỏi là những người thường giao tiếp nhiều bằng ngoại ngữ. Chúng ta có thể
luyện tập bằng cách đầu tiên là mời một bạn, hoặc nhiều bạn cùng trao đổi nói
chuyện với nhau bằng ngoại ngữ. Trong những buổi học trên lớp khi cần phát
biểu bằng ngoại ngữ hãy mạnh dạng phát biểu đừng sợ sai, bởi vì nếu chúng
ta sai thì giảng viên sẽ sửa lại chỗ sai cho chúng ta, và như các bạn đã biết thì
khi chúng ta được thầy cô sửa sai thì chắc chắn sau này chúng ta hiếm khi nào
mắc lại lỗi đó bởi vì con người thường nhớ rất lâu những gì họ đã sai lầm và
được người khác sửa chữa.
Thứ tư, luyện nghe và phát âm. Các bạn có thể lên mạng, trên mạng có
rất nhiều trang wed hữu ích cho việc luyện nghe và đọc ngoại ngữ của bạn.
Thường xuyên nghe những bài nhạc nước ngoài và hát những bài tiếng anh
đơn giãn để chúng ta có cách phát âm và nghe ngoại ngữ chuẫn hơn.
Thứ năm, Luyện viết, hãy học ngữ pháp trước, khi đã vững về từ vựng
cũng như ngữ pháp căn bản, bạn có thể luyện tập kĩ năng viết. Kĩ năng viết
bằng ngoại ngữ cũng không khác gì tiếng Việt, chỉ khác nhau ở cách sắp xếp
vị trí câu, từ. Chỉ cần bạn có vốn từ vựng nhiều và nói tốt bạn sẽ viết tiếng
anh tốt.
4.3. Giải pháp nâng cao trình độ tin học.
Để nâng cao trình độ tin học có hai cách sau:
Thứ nhất, các bạn hãy tích cực tham gia các lớp học tin học để cung cấp
kiến thức về tin học để thành thạo trong việc sử dụng máy tinh. Tiếp theo là
sau khi đã có kiến thức rồi hãy tích cực thực hành trên máy tính, càng thực
hành nhiều thì kỹ năng sử dụng máy tính của các bạn càng thành thạo, càng
trở nên điêu luyện sẽ giúp ích trong quá trình học tập và công việc sau này khi
ra trường của chúng ta.
Thứ hai, nghiên cứu và học qua mạng. Nói đến tin học là nói đến máy
tính và mạng máy tính, chúng ta không thể học giỏi tin học mà không có sự
hiện diện của mạng Internet. Trên mạng có rất nhiều cái hay về máy tính mà
chúng ta cần học hỏi, những chổ chúng ta không biết, có những gì chúng ta

không khám phá ra, nhưng những người khác biết và họ khám phá ra và họ
điều “up” lên mạng để chúng ta xem và học hỏi. Qúa trình này cần phải kiên
trì và trong thời gian ngắn tôi tin các bạn sẽ sử dụng tốt và thành thạo tin học.
4.4. Giải pháp nâng cao kỹ năng mềm
Đối với kỹ năng sáng tạo trong công việc: Các bạn đừng cứ ngồi ỳ, thụ
động chờ mọi việc sẽ tự được giải quyết hoặc sẽ có người giải quyết giúp bạn
mà hãy vận động trí óc của mình, hãy nghĩ làm thế nào để giải quyết công


việc của bạn như thế nào nhanh nhất, đạt kết quả cao nhất. Hãy là người năng
động, xắn tay vào giải quyết mọi vấn đề dù khó hay dễ, đừng cất giấu khả
năng sáng tạo. Các bạn đừng bao giờ cứ ôm khư khư những nguyên tắc cổ hủ,
mãi đi theo một lối mòn thì khả năng tư duy sáng tạo của bạn sẽ chết dần theo
thời gian. Hãy dám thử thách bản thân bằng những đột phá mới trong học tập
cũng như trong cuộc sống, có thể mọi thứ sẽ trở nên không như mong đợi khi
bạn thử một phương pháp mới nhưng đó lại là cách giúp bạn tư duy tốt nhất vì
nếu không tư duy, sáng tạo bạn sẽ bị mắc trong mớ bòng bong do chính mình
tạo nên. Hãy dám nghĩ và dám làm, đó là cách rất tốt giúp bạn rèn luyện khả
năng tư duy, sáng tạo của mình.
Đối với kỹ năng giao tiếp hiệu quả, biết lắng nghe và học tập những
lời phê bình: Các bạn hãy tập sử dụng tốt giọng điệu, và ngữ điệu, dù là nói
chuyện với những người lạ hay bạn bè, thầy cô, những ngữ điệu của bạn cũng
sẽ giúp bạn truyền tải những gì mà bạn muốn nói. Những ngữ điệu trong khi
nói chuyện cũng sẽ giúp người nghe cảm thấy thoải mái và thú vị hơn khi
lắng nghe những gì bạn nói. Ngoài ra, ngữ điệu cũng góp phần thể hiện sự tự
tin của bạn. Ngược lại khi người khác nói chuyện các bạn hãy lăng nghe với
thái độ mong muốn được nghe, lắng nghe bằng cả con tim của mình.
Hãy nhìn thẳng một cách tự tin vào người mà bạn đang nói chuyện. Điều
đó cho thấy bạn là con người ngay thẳng và đáng tin cậy. Cử chỉ này cũng là
một biểu hiện tôn trọng người nghe và làm cho họ cảm thấy bạn đánh giá cao

sự hiện diện của họ.
Các bạn hãy nhớ rằng sự xung đột về ý kiến là một điều lành mạnh. Nó
cho cho thấy bạn là một cá nhân độc lập, có khả năng hình thành niềm tin của
riêng mình cũng như tranh luận về chúng. Mặc dù bạn không đồng ý với ai đó
về những vấn đề chính trong cuộc sống thì sự tôn trọng lẫn nhau sẽ động viên
bạn tìm được hướng giải quyết.
Đối với kỹ năng tự tin, năng động: Các bạn đừng ngần ngại viết ra một
danh sách dài những thành quả bạn luôn tự hào vì đã làm được, hãy để nó ở
bất cứ chỗ nào bạn có thể nhìn thấy hàng ngày. Thêm nữa hãy liệt kê những
tính cách bạn cho là điểm mạnh của bạn. Điều gì khiến bạn là bạn mà không
phải là ai khác? Hãy trân trọng chính bản thân bạn và tất cả những điều đó.
Hãy bắt đầu một ngày mới bằng một câu nói “Không có gì làm khó được tôi”
và giữ vững tinh thần lạc quan suốt cả ngày, điều này sẽ giúp các bạn trở nên
tự tin và năng động hơn rất nhiều.
Đối với kỹ năng làm việc đồng đội: Để nâng cao kỹ năng làm việc nhóm
thì đầu tiên phải nâng cao kỹ năng của người trưởng nhóm đã. Kỹ năng tổ


chức công việc là nhiệm vụ của trưởng nhóm, người trưởng nhóm phải có khả
năng giao việc và giải quyết các vấn đề phát sinh trong nhóm, đảm bảo sự
đồng đều giữa các thành viên với nhau để công việc không bị giám đoạn vì
bất kỳ lý do gì. Ngoài ra kỹ năng làm việc nhóm là phải biết cách tổ chức
công việc. Đây cũng là nhiệm vụ của các thành viên trong nhóm, khi được
giao việc các thành viên phải biết cách tiến hành công việc thế nào cho khoa
học, không để tiến trình công việc quá chậm so với những thành viên khác,
đảm bảo công việc được hoàn thành đúng tiến độ và thời gian.
Trong cùng một nhóm các thành viên phải biết trợ giúp lẫn nhau
trong công việc, nếu đồng đội của mình gặp khó khăn hãy sẵn sàng chia
sẻ, giúp đỡ họ. Việc làm này sẽ tạo nên sự gắn kết giữa các thành viên
trong nhóm lại với nhau.

Bên cạnh đó các thành viên cần tôn trọng lẫn nhau, không nên nghĩ rằng
mình giỏi hơn người khác, tự đề cao mình và xem thường các thành viên
khác. Việc giúp đỡ và tôn trọng lẫn nhau giữa các thành viên trong nhóm
chính là động lực lớn nhất để cùng làm việc và hướng tới mục đích chung
cuối cùng.
Làm việc một mình hay nhóm bạn cũng cần luyện cho mình kỹ năng có
trách nhiệm với công việc. Khi làm việc một mình, kết quả không tốt thì chỉ
bạn là người chịu trách nhiệm, nhưng làm việc nhóm thì khác. Nếu bạn ỷ lại
hoặc không hoàn thành nhiệm vụ được giao nghĩa là bạn đang làm ảnh hưởng
đến cả tập thể. Khi đó công lao của những người cố gắng làm tốt cũng bị phủ
nhận tất cả, bởi kết quả cuối cùng mới là thước đo kết quả công việc chứ
không phải chỉ một phần công việc được hoàn thành.
Hãy biết cách gắn kết lại với các thành viên khác trong nhóm nếu không
bạn sẽ thấy lẻ loi, đôi khi cảm thấy mình không được trọng dụng trong nhóm,
nhưng đó chỉ là do bạn tưởng tượng mà thôi. Hãy học cách sát lại với mọi
người, chỉ có sự gắn kết mới cho các bạn một nhóm hoàn hảo nhất. Bởi khi đó
các thành viên sẽ cởi mở hơn trong việc chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong công
việc cũng như cuộc sống.
5. Kết luận
Với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nó đã
đặt ra những yêu cầu cơ bản để giúp sinh viên Việt Nam có được năng cao
năng lực thích ứng của mình đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng 4.0. Từ đó,
tạo ra những cơ hội mang lại việc là cho chính bản thân mình và trách được
sự đào thải của quy luật tự nhiên. Để làm được điều đó các bạn cần có trang
bị cho mình về trình độ về ngoại ngữ, tin học, chuyên ngành và những kỹ


năng cần thiết để có nền tảng vững chắc tạo tiền đề phát triển năng lực thích
ứng với những thay đổi của thế giới. Các bạn sẽ là người tự dọn đường cho
các bạn để trở thành con người mà các bạn hướng đến, những con người

thành công và cũng có thể là những con người vĩ đại của thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đại học Khánh Hòa (2018), Kỷ yếu Hội thảo “Hoạt động giáo dục kỹ
năng mềm cho sinh”, Khánh Hòa.
[2]. Nguyễn Minh Đường, Phan Văn Kha, (2006), Đào tạo nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiêp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường,
toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
[3]. Lê Thị Thu Hà (2013), “Các biện pháp giáo dục kỹ năng ra quyết định
cho sinh viên”, Tạp chí Giáo dục, số 307.
[4]. Đặng Thành Hưng, (2016), “Vai trò của kỹ năng trong sự phát triển con
người”, Tạp chí Khoa học dạy nghề, số 31.
[5]. Phan Thanh Long, Đào Thị Oanh (2015), “Kỹ năng giao tiếp của sinh
viên trong môi trường đa văn hóa”, Tạp chí Tâm lý học, số 12(201).
[6]. Tạ Quang Thảo (2011), “giáo dục kỹ năng mềm trong các trường Đại học,
Cao đẳng và Dạy nghề”, Tạp chí Lao động và xã hội, số 407.
[7]. Lê Hà Thu (2016), Quản lý giáo dục kỹ năng mềm cho sinh viên Trường
Đại học sư phạm Hà Nội theo tiếp cận năng lực, Luận văn Thạc sĩ Khoa học
Giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam.



Nhiều vấn đề đặt ra cho giáo dục ĐH

PGS-TS Vũ Hải Quân, Phó Giám đốc thường trực ĐH Quốc gia TP.HCM, có mặt tại đại hội, đã đưa ra những con số đáng suy ngẫm đối với giáo dục ĐH về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.

PGS-TS Vũ Hải Quân cho biết: “Theo dự báo của tổ chức McKinsey công bố năm 2018 thì đến năm 2030, 70% công ty khắp thế giới sẽ sử dụng trí tuệ nhân tạo và GDP toàn cầu sẽ tăng 13 nghìn tỷ USD. Đến năm 2030, tỷ lệ tự động hóa đối với tất cả các công việc ở Hoa Kỳ sẽ là 38%, ở Nhật Bản là 24% và ở Hàn Quốc là 22% và trung bình ở các nước thuộc OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) sẽ là 14%. Điều này có nghĩa là nhiều việc làm sẽ được tự động hóa, robot hóa, tỷ lệ thất nghiệp sẽ gia tăng”.

PGS Quân nhấn mạnh trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn sẽ có vị trí quan trọng nhất, cụ thể trí tuệ nhân tạo góp phần làm tăng tuổi thọ trung bình thêm 3 tuổi, nâng độ chính xác chuẩn đoán bệnh lên 95%, tăng năng xuất lao động thêm 10%, cải tiến độ chính xác dự báo tài chính lên 95%; nâng tỷ lệ điều tra, phá án thành công lên 90% và giảm diện tích rừng bị tàn phá 10%...

“Từ đó, giáo dục ĐH trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 phải vận động để giải quyết rất nhiều câu hỏi. Sự thay đổi quá nhanh của công nghệ khiến cho nghề nghiệp nào bị biến mất, nghề nghiệp nào sẽ xuất hiện mới và nghề nghiệp nào sẽ được xã hội ghi nhận? Đâu là chuẩn kiến thức tối thiểu của người tốt nghiệp ĐH trong thế kỷ 21, là cơ sở để chuẩn bị cho hành trình tự học tập của sinh viên sau này? Đặc biệt là trong bối cảnh máy móc ngày càng có thể thực hiện nhiều công việc hơn. Liệu là trong 50 năm tới, sự sáng tạo của con người sẽ bị ảnh hưởng bởi vì chúng ta luôn đặt mọi thứ phải nhanh hơn, chính xác hơn, hoàn hảo hơn? Và cuối cùng chúng ta sẽ hành xử như thế nào, theo các chuẩn mực gì? Trên một lượng lớn dữ liệu lớn xuyên biên giới, xuyên văn hoá, liệu máy tính có thể hiểu và phân biệt được nhân phẩm, sự đồng cảm của mỗi người khác nhau là khác nhau?”, PGS-TS Vũ Hải Quân nêu vấn đề.

Giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Ngày phát hành: 22/06/2019 Lượt xem 12315

1. Bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0

Lịch sử loài người đã trải qua 4 cuộc cách mạng công nghiệp: Lần thứ nhất gắn với sự ra đời máy hơi nước (vào đầu thế kỷ XVIII); lần thứ hai gắn với sự ra đời của điện (vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX); lần thứ ba gắn với sự ra đời máy tính (thập kỷ 1960); và lần thứ tư gắn với sự tích hợp của nhiều công nghệ mà chủ yếu là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo. Thuật ngữ “cách mạng công nghiệp 4.0” lần đầu tiên được nói đến ở Đức năm 2011, đến nay đã được sử dụng rộng rãi, bằng nhiều thứ tiếng trên thế giới. Thành tựu mà các cuộc cách mạng công nghiệp mang lại rất to lớn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của xã hội loài người. Với những tiến bộ khoa học - công nghệ, máy móc thay thế dần sức lao động của con người, hình thành các mô hình sản xuất, kinh doanh mới, năng suất lao động ngày càng cao, sản lượng của cải vật chất được tạo ra ngày càng nhiều. Nhờ đó, cuộc sống của loài người ngày càng được nâng cao; khả năng tư duy, cách sống và phương pháp quản lý xã hội cũng thay đổi theo hướng ngày càng khoa học hơn. Từ gần 200 năm trước, C.Mác từng dự đoán về vai trò to lớn của khoa học - công nghệ, coi sự phát triển tri thức là đặc trưng lớn nhất của các cuộc cách mạng công nghệ: Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào thành lực lượng sản xuất trực tiếp... Các nhà nghiên cứu cho rằng, tất cả các yếu tố của Cách mạng công nghiệp 4.0, từ phát triển tri thức, tiến bộ kỹ thuật, năng suất lao động, lượng của cải tạo ra, đến các biến đổi về cấu trúc của nền hành chính - thể chế, quản lý - quản trị đều có sự phát triển với tốc độ theo cấp số nhân. Theo đó, một quốc gia muốn phát triển nhanh, theo kịp tốc độ của các nước tiên tiến thì phải xây dựng được chiến lược thực hiện Cách mạng công nghiệp 4.0.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là sự gắn kết giữa các nền công nghệ, làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh học. Đó là các công nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ sinh học… Đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ khác nhau với nền tảng là các đột phá của công nghệ số. Trung tâm của cuộc cách mạng 4.0 là công nghệ thông tin và internet kết nối vạn vật (IoT), không chỉ giúp con người giao tiếp với nhau, mà còn là con người giao tiếp với máy, với đồ vật; và đồ vật giao tiếp với nhau. Nó tác động mạnh mẽ đến tất cả các ngành công nghiệp, tạo ra các sản phẩm và dịch vụ cho phép xã hội loài người có cuộc sống ngày càng đầy đủ, phồn vinh hơn. Đồng thời, nó cũng tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến bất bình đẳng, thất nghiệp khi công nghệ mới sẽ dần thay thế sức lao động của con người. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra sự phát triển với tốc độ theo cấp số nhân, từ các yếu tố, như tri thức, tiến bộ kỹ thuật, năng suất lao động, lượng của cải tạo ra, cho đến các biến đổi về cấu trúc của nền hành chính - thể chế, quản lý - quản trị.

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ về phân bố nguồn lực sản xuất, cách thức sản xuất và tiêu dùng nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Nền sản xuất “tự động” đặc trưng của cách mạng công nghiệp lần thứ 3 sẽ sớm chuyển sang nền sản xuất “thông minh”, trong đó các máy móc được kết nối internet và liên kết với nhau qua một hệ thống có thể tự vận hành toàn bộ quá trình sản xuất theo một kế hoạch đã được xác lập từ trước. Làn sóng công nghệ mới với sản xuất thông minh sẽ giúp công nghệ phát triển và kéo theo năng suất tăng cao. Nhưng để có thể áp dụng được “sản xuất thông minh” vào thực tiễn thì không thể thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Vì vậy, một quốc gia muốn phát triển nhanh và bền vững thì phải xây dựng chiến lược để thực hiện, đặc biệt là giáo dục và đào tạo. Nhiệm vụ đặt ra đối với ngành giáo dục nước ta là phải có định hướng cụ thể để thích ứng với thời đại mới, để đào tạo ra nguồn nhân lực tốt, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thị trường lao động hiện đại.

2. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tới giáo dục đại học của Việt Nam

Sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tới giáo dục đại học là rất lớn, vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức.

Thứ nhất,cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra nhu cầu đào tạo rất lớn cho các trường đại học. Trước hết, cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng và phẩm chất, vốn liên tục thay đổi trong môi trường lao động mới. Đây là yêu cầu cấp bách đặt ra cho nền giáo dục, nhất là giáo dục đại học. Do đó, ngành giáo dục phải chuyển nhanh từ giáo dục nặng về trang bị kiến thức sang một nền giáo dục giúp phát triển năng lực, thúc đẩy đổi mới và sáng tạo cho người học. Như thế, ở các trường đại học sẽ ra đời các mô hình học tập mới cùng sự phát triển của khoa học - công nghệ, thay thế dần các phương pháp dạy- học truyền thống.

Trong mọi lĩnh vực ngành nghề, những bước đi có tính đột phá về công nghệ mới như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ còn tác động mạnh mẽ hơn tới đời sống xã hội. Hệ thống giáo dục đại học sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục ngành nghề đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Theo đó, sẽ là sự liên kết giữa các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử - sinh, từ đó hàng loạt ngành, chuyên ngành cũ sẽ mất đi và thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những ngành, chuyên ngành đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy móc. Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ có sự phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có trình độ thấp và nhóm lao động có trình độ cao. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đe dọa tới việc làm của những lao động trình độ thấp, mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không được trang bị kiến thức mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0. Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ tạo ra cơ hội đào tạo lần đầu cho giới trẻ, mà còn đòi hỏi những người đã đi làm, từ công nhân đến kỹ sư phải thay đổi, cập nhật kiến thức, kỹ năng ở mức độ cao hơn. Theo các nhà phân tích, năm 2020, nước ta sẽ cần một triệu cán bộ công nghệ thông tin, tuy nhiên hiện nay chúng ta mới có 300.000. Chỉ riêng nhu cầu đào tạo mới của ngành này đã là cơ hội lớn cho các trường đại học.

Thứ hai,cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi mọi hoạt động trong các trường đại học. Để đáp ứng đủ nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, từ đổi mới chương trình, phương pháp giảng dạy, quản lý sinh viên, phương pháp kiểm tra, đánh giá chuẩn đầu ra, với sự ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin. Theo đó, các phương thức giảng dạy cũ không còn phù hợp với nhu cầu của xã hội. Với sự vận dụng những thành tựu của công nghệ, người học ở bất cứ đâu đều có thể truy cập vào thư viện của nhà trường để tự học, tự nghiên cứu. Như vậy, không thể chỉ tồn tại mô hình thư viện truyền thống, mà các trường phải xây dựng được thư viện điện tử. Các trường phải thay đổi mô hình giảng dạy, như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giảng viên đứng lớp, người học sẽ được hướng dẫn học qua mạng internet. Những lớp học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo có tính mô phỏng, bài giảng được số hóa và chia sẻ qua những nền tảng như Facebook, YouTube, Grab, Uber... sẽ trở thành xu thế phát triển trong hoạt động đào tạo đại học trong thời gian tới. Khi đó, kiến thức không thể bó hẹp và độc quyền bởi một người hay trong một phạm vi tổ chức nào đó. Sinh viên có nhiều cơ hội để tiếp cận, tích lũy, chắt lọc cái mới, cái hay để trở thành công dân toàn cầu - người lao động tương lai có khả năng làm việc trong môi trường sáng tạo và có tính cạnh tranh. Phần thưởng đối với sinh viên không còn là bằng cấp trên giấy tờ nữa, mà là bằng cấp theo nghĩa mở rộng, là trao đổi tri thức, sáng tạo, những giá trị đóng góp cho xã hội. Khi đó, tổ chức, doanh nghiệp tuyển dụng là cần người làm được việc chứ không cần người có văn bằng cao. Như vậy, các trường đại học sẽ phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần”, những nội dung của các môn học cơ bản sẽ phải được rút ngắn và thay thế vào đó là những nội dung cần thiết để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động và giúp người học thực hiện được phương châm “học tập suốt đời”. Theo mô hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở đào tạo với tổ chức, doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu để bổ sung cho nhau, đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để phân chia các nguồn lực chung, làm cho các nguồn lực được sử dụng với hiệu quả cao nhất. Điều này sẽ tác động đến việc bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giảng viên của các trường đại học. Khi đó, tất cả các dữ liệu của người học từ mã số, điểm số, thông tin cá nhân... đều được số hóa tại một nơi lưu trữ. Trong nhiều trường hợp, người dạy chỉ cần đưa tài liệu lên “mây” (cloud), tất cả mọi người tranh luận trên “mây” mà vẫn đảm bảo được sự riêng tư, hiệu quả và tính đồng bộ. Trước thực tế này, nếu các trường không thay đổi mô hình đào tạo thì sẽ bị lạc hậu, sẽ không có người học. Doanh nghiệp nói riêng và thị trường nói chung có nhu cầu như thế nào, thì người học sẽ càng hướng tới tìm học những nơi đáp ứng được nhu cầu đó. Đây thực sự là một thách thức vì hầu như các trường hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức độ giảng viên giảng dạy bằng máy chiếu, video, chia sẻ tài liệu trên mạng. Kinh phí eo hẹp cũng là một trong những điểm chính khiến các ứng dụng khoa học - công nghệ chưa phát triển mạnh trong các trường đại học.

Trong môi trường cách mạng công nghiệp 4.0, mỗi sinh viên có nhu cầu và năng lực học tập khác nhau sẽ được thiết kế tiến độ học tập riêng biệt, phù hợp với từng người. Các phần mềm đào tạo sẽ thay thế từng phần hoặc toàn bộ lượng kiến thức của giáo trình khi học trên lớp. Thay vì tập trung cung cấp cho người học các kiến thức, kỹ năng, mô hình giảng dạy mới chủ yếu hướng dẫn sinh viên cách tự học, cách tư duy và xử lý các tình huống trong cuộc sống, qua đó hình thành năng lực tiếp cận và giải quyết vấn đề.

Đối với đội ngũ giảng viên, hệ thống quản lý nhà trường có sự hỗ trợ của công nghệ sẽ cung cấp hệ thống dữ liệu giúp họ theo dõi diễn biến, sự tiến bộ của mỗi lớp học, kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập của sinh viên. Do đó, giảng viên cần phải nỗ lực học tập, nghiên cứu để có thể tận dụng và làm chủ công nghệ, để những công cụ này hỗ trợ và tạo ra sự tự do, sáng tạo trong công tác đào tạo.

Trước những đòi hỏi của thị trường lao động ngày càng cao, để phù hợp với môi trường sản xuất mới, các hoạt động đào tạo của các trường đại học càng phải được gắn kết với tổ chức, doanh nghiệp nhằm rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo, nghiên cứu và triển khai. Đẩy mạnh phát triển đào tạo tại doanh nghiệp, phát triển các trường trong doanh nghiệp để đào tạo nhân lực phù hợp với công nghệ và tổ chức của doanh nghiệp. Tăng cường việc gắn kết giữa trường đại học và doanh nghiệp trên cơ sở trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, hướng tới doanh nghiệp thực sự là “cánh tay nối dài” trong hoạt động đào tạo của trường đại học nhằm sử dụng có hiệu quả trang thiết bị và công nghệ của doanh nghiệp phục vụ cho công tác đào tạo, thông qua đó hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học trong quá trình đào tạo và thực tập tại doanh nghiệp.

3. Một số định hướng đối với giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Xác định rõ những thách thức đang đặt ra đối với ngành giáo dục và đào tạo, Đảng ta nhấn mạnh quan điểm: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội”[1]. Thực hiện chủ trương đó, các trường đại học cần phải đổi mới thực sự và nhanh chóng, trước hết là đổi mới hoạt động quản lý của nhà trường và đội ngũ giảng viên.

3.1. Định hướng đối với Nhà trường

Các trường đại học cần chuyển mô hình đào tạo từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát triển năng lực người học; từ đào tạo chủ yếu theo số lượng sang nâng cao cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; từ chỉ chú trọng truyền đạt kiến thức sang kết hợp ba mục tiêu: kiến thức, kỹ năng và thái độ để phát huy tốt nhất tiềm năng cá nhân. Đối với sinh viên, cần chuyển từ học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng, thích nghi, giải quyết vấn đề, xử lý tình huống, rèn luyện tư duy. Không chỉ học trong giáo trình, sách vở, mà phải học qua thực hành, thực tế kinh tế- xã hội, qua trò chơi, liên hệ tương tác, qua dự án, và phải xác định học là công việc thường xuyên, liên tục và học cả đời.

Chương trình đào tạo cần xác định cụ thể các chuẩn đầu ra, phẩm chất chung và năng lực chuyên môn; phải nhanh chóng đổi mới từ khâu tuyển sinh đến khâu đánh giá, kiểm định chất lượng giáo dục, nhất là đánh giá sinh viên tốt nghiệp. Mục tiêu đào tạo phải hướng tới sinh viên ra trường có năng lực tư duy và sáng tạo, đổi mới, có kỹ năng phân tích và tổng hợp thông tin, có khả năng làm việc độc lập và ra quyết định dựa trên cơ sở phân tích các dữ liệu. Trường đại học phải là nơi dẫn dắt tư duy và tạo động lực cho sinh viên khởi nghiệp, kết nối với thị trường và doanh nghiệp.

Như vậy, hệ thống giáo dục đại học phải tập trung vào phát triển phẩm chất và năng lực của người học thông qua việc định hướng các con đường phù hợp nhất cho các nhóm sinh viên khác nhau để giúp họ phát huy được tiềm năng của mỗi cá nhân. Thương hiệu của một trường đại học không chỉ được đánh giá thông qua tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm, nhất là đúng ngành, vị trí trên bảng xếp hạng quốc gia, quốc tế, mà còn là sự phát triển bền vững của sinh viên, khả năng thích ứng với môi trường làm việc mới, năng lực đổi mới và sáng tạo trong quá trình hoạt động chuyên môn. Để đáp ứng yêu cầu đó, các trường đại học cần có nhiều chương trình, cả đào tạo và bồi dưỡng dành cho các đối tượng khác nhau, nhất là cựu sinh viên, giúp họ cập nhật tri thức mới để tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chính mình. Nghĩa là các trường phải là nơi hỗ trợ sinh viên học tập suốt đời; phải thường xuyên đổi mới. Cụ thể:

Một là, thường xuyên rà soát, đổi mới chương trình đào tạo, gắn lý thuyết với thực tiễn. Công tác đào tạo đại học trước hết cung cấp hệ thống lý luận cơ bản, như là nền tảng vững chắc để sinh viên có “vốn” để tiếp cận những vấn đề thực tiễn đang biến đổi không ngừng. Tạo điều kiện tối đa cho sinh viên thực hành, thực tập, làm quen và nắm bắt được những tiến bộ của khoa học - công nghệ trên lĩnh vực được đào tạo.

Hai là, đa dạng hóa các chương trình, phục vụ mọi nhu cầu học tập của sinh viên. Mỗi sinh viên có nhu cầu và khả năng học tập khác nhau. Nhà trường xây dựng cơ chế để phát hiện, nuôi dưỡng và tạo động lực để sinh viên xác định và theo đuổi sự quan tâm, niềm đam mê của mình. Điều này đòi hỏi trường đại học xây dựng các chương trình, lộ trình đào tạo khác nhau để phục vụ cho những nhu cầu và phong cách học tập khác nhau. Có người có nhu cầu học nhanh, tốt nghiệp sớm; hoặc học tập trung vào một số môn trọng tâm trước, sau khi đi làm sẽ quay trở lại hoàn thiện chương trình.

Ba là, đẩy mạnh học ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình dạy-học và quản trị nhà trường. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng như hiện nay, ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh là chìa khóa để mở rộng, cập nhật tri thức nhân loại. Không giỏi ngoại ngữ, không thể đạt thành tựu về khoa học công nghệ. Nên ứng dụng công nghệ tiên tiến trong giảng dạy ngoại ngữ, với hệ thống học liệu điện tử phù hợp mọi đối tượng để người học có thể học ngoại ngữ mọi lúc, mọi nơi, bằng mọi phương tiện, đặc biệt trong phát triển kỹ năng nghe và kỹ năng nói. Kiến tạo môi trường học ngoại ngữ trong nhà trường, gia đình và xã hội để mọi người cùng nhau học ngoại ngữ. Tạo điều kiện cho người học tiếp cận kỹ thuật số và công nghệ để dễ dàng tiếp thu thành tựu mới về khoa học - công nghệ của thế giới.

Bốn là, phải xây dựng các trường đại học thành các trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. Các trường đại học cần thể hiện vai trò tiên phong của mình trong việc thực hiện sứ mệnh nghiên cứu khoa học- công nghệ; là bệ đỡ thúc đẩy sáng tạo, cung cấp một bệ phóng cho giới trẻ và các công ty khởi nghiệp, giữ nhịp phát triển cho các ngành công nghiệp. Các trường đại học cũng cần đón đầu xu hướng là thời gian đào tạo người lao động trình độ cao sẽ không chỉ giới hạn trong thời gian ngắn, mà là trong suốt cuộc đời lao động của họ, khi người học tiếp tục quay trở lại để có thêm kiến thức và kỹ năng sau khi tốt nghiệp.

3.2. Định hướng đối với đội ngũ giảng viên

Theo phương pháp giáo dục truyền thống, người thầy truyền tải tri thức, thông tin cho sinh viên, hiện nay các trang mạng trên In ternet đang dần thay thế vai trò đó, cung cấp thông tin một cách nhanh chóng, tiện lợi và miễn phí. Sinh viên không còn bị giới hạn trong bốn bức tường phòng học mà có điều kiện học mọi lúc mọi nơi, mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Vấn đề đặt ra là, khi công nghệ hỗ trợ tối đa mục tiêu kiến thức và kỹ năng, nhưng không thể thay thế người thầy chuyền tải, truyền cảm hứng cho sinh viên về thái độ sống và làm việc, thích ứng với mọi thay đổi, về tính hợp tác và năng lực sáng tạo. Hiện nay, năng lực và thái độ có vai trò quyết định trong mục tiêu đào tạo của các Nhà trường. Kiến thức không chỉ được tiếp nhận thông qua giáo trình, tài liệu tham khảo, trên lớp, mà được bổ sung, đổi mới và nhân lên từng giờ từng phút, sinh viên có thể dễ dàng học tập, nhưng phải qua đối thoại, làm việc nhóm, phản biện vấn đề, người thầy sẽ kích thích năng lực tư duy, niềm đam mê nghiên cứu và khám phá cái mới trong sinh viên.

Các hình thức học online, học trực tuyến đòi hỏi người thầy không phải truyền thụ kiến thức nữa, mà phải là người hướng dẫn, điều phối tạo ra môi trường học tập cho sinh viên; không phải giảng bài mà tập trung giúp sinh viên định hướng việc học. Người giảng viên không chỉ phải giỏi về chuyên môn, sẵn sàng giải đáp câu hỏi của sinh viên, mà còn phải có bản lĩnh, thường xuyên nâng cao năng lực thích ứng với hoàn cảnh mới, nhất là kịp thời đổi mới phương pháp dạy học, tối đa hóa ứng dụng công nghệ thông tin, phương tiện trực quan vào quá trình dạy học.

Vì vậy, vai trò của giảng viên thay đổi mạnh mẽ. Để đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0, đội ngũ giảng viên cần phải được bồi dưỡng, nâng cao trình độ năng lực bằng những biện pháp như tập huấn sử dụng công nghệ phục vụ dạy học, ứng dụng các hình thức tiên tiến, mô hình trực tuyến vào công tác bồi dưỡng giảng viên, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng theo hướng nghiên cứu và nâng cao trình độ ngoại ngữ. Cụ thể:

Một là, nâng cao năng lực chuyên môn. Phải bồi dưỡng cho giảng viên nắm bắt được và tham gia các hình thức đào tạo tiên tiến, đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa để vừa nâng cao trình độ chuyên môn, vừa tiếp cận các mô hình dạy học mới, qua đó giúp họ bổ sung kiến thức chuyên môn, đa dạng hóa các hình thức giảng dạy. Trong thời gian tới, các mô hình giảng dạy trực tuyến sẽ được ứng dụng trong đào tạo đại học, như E-learning (mô hình hệ thống quản lý qua mạng); B-learning (mô hình dạy học kết hợp học tập trên lớp và học hợp tác qua mạng và tự học); hội thảo truyền hình (nhiều người hội thảo từ xa, thông qua truyền hình trao đổi, giao tiếp với nhau). Trong thời đại hiện nay, cần nhân rộng mô hình liên kết giữa nhà trường - nhà quản lý - nhà doanh nghiệp, tạo điều kiện cho giảng viên, sinh viên đổi mới, sáng tạo, gắn lý luận với thực tiễn.

Hai là, nâng cao năng lực sử dụng các thiết bị, phương tiện hiện đại trong giảng dạy. Đó là năng lực quản lý tài nguyên, dữ liệu trên internet, sử dụng thành thạo các phương tiện công nghệ mới phục vụ quá trình dạy học. Vì vậy, đội ngũ giảng viên phải thường xuyên được học tập, bồi dưỡng về tin học, phương pháp sử dụng công nghệ thông tin, để chủ động hướng dẫn sinh viên cập nhật kiến thức và công nghệ.

Ba là, đẩy mạnh công tác bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học. Kết quả nghiên cứu khoa học được áp dụng đầu tiên và trước hết vào công tác giảng dạy. Khi đó, nội dung bài giảng mới có chiều sâu, tạo điều kiện để giảng viên ứng dụng các phương pháp giảng dạy hiện đại. Thông qua nghiên cứu khoa học, năng lực tư duy của giảng viên được rèn luyện và tăng cường.

Bốn là, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ngoại ngữ. Hiện nay, tiếng Anh là ngôn ngữ mang tính toàn cầu. Hầu hết các thành tựu khoa học- công nghệ được chuyển tải bằng tiếng Anh. Vì vậy, để kế thừa và tiếp thu những tinh hoa tri thức của thế giới, giảng viên đại học phải thông thạo ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh. Đây cũng là yêu cầu bắt buộc của các đại học tiên tiến trên thế giới.

Như vậy, trường đại học trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ là nơi đào tạo, nghiên cứu khoa học, mà còn là trung tâm đổi mới sáng tạo, thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong sinh viên, nâng cao năng suất lao động nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Hiện nay, số lượng sinh viên Việt Nam ra nước ngoài học tập ngày càng tăng, đang đặt ra thách thức lớn đối với các trường đại học trong nước. Vì vậy, các trường phải xây dựng chiến lược phát triển thích ứng với thời kỳ mới, mạnh dạn đổi mới công tác đào tạo, từ đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy đến xây dựng đội ngũ giảng viên, đổi mới công tác quản trị nhà nước theo những tiêu chí mới- khoa học và hiện đại. Có như vậy, các trường đại học nước ta mới theo kịp các trường tiên tiến trên thế giới và khu vực, và đáp ứng được những yêu cầu của thời đại cách mạng công nghiệp 4.0./.

PGS.TS Lưu Văn An

Học viện Báo chí và Tuyên truyền




[1] Ban chấp hành Trung ương khóa XI: Nghị quyết số 29-NQ/TWVề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, 2013.

PGS TS Lê Phước Minh: Cách mạng Công nghiệp 4.0 là cơ hội đặc biệt đối với mọi sinh viên (kỳ 2)

VietTimes – Xung quanh sự phát triển của giáo dục đại học tại Việt Nam, còn có rất nhiều vấn đề cần bàn. Đặc biệt phải nói đến những thách thức của Cách mạng Công nghiệp 4.0. PV VietTimes xin tiếp tục cuộc trao đổi với PGS TS Lê Phước Minh.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Máy tính kết nối Internet là môi trường giúp sinh viên nắm bắt nhiều kiến thức mới mà nhà trường chưa cung cấp. Ảnh: VnExpress

PV: Mặc dù giáo dục đại học ngày nay là theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, có một số ngành Nhà nước vẫn phải đầu tư. Ông nghĩ gì về thực tế này?

PGS TS Lê Phước Minh: Trước hết, phải nhận thức rõ giáo dục đại học là dịch vụ công. Sản phẩm đầu ra của các trường đại học là phục vụ nhu cầu của cả nhà nước và thị trường. Trong một trường đại học cụ thể, có những ngành đào tạo mà đầu ra chủ yếu nhằm phục vụ khu vực dịch vụ công của Nhà nước, thì các trường đại học có đào tạo các ngành đó có tính công lập cao. Còn với các ngành học mà có thể làm việc cả cho Nhà nước, tư nhân hay nước ngoài thì thiên hơn về thị trường.

Do vậy, trong giáo dục đại học cũng chia ra những trường, những ngành học có tính công cao hơn, hay ngược có tính tư nhân hơn. Việt Nam chủ trương phát triển giáo dục đại học theo cơ chế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết có thể ví dụ như với hệ thống các trường đại học sư phạm hay trường đại học có ngành đào tạo sư phạm, nơi mà sinh viên ra trường phần lớn làm việc cho khu vực giáo dục công lập. Tất nhiên, cũng có những sinh viên đi dạy cho trường tư nhưng kể cả như thế thì vẫn nghiêng về lĩnh vực phục vụ cho cộng đồng.

Không chỉ đối với đào tạo giáo viên phổ thông, còn rất nhiều ngành mà Nhà nước có nhu cầu, Cụ thể như khí tượng thuỷ văn, bảo vệ rừng, môi trường, quy hoạch đô thị, thuỷ lợi, an toàn thực phẩm… Đó là những ngành mà Nhà nước nên đào tạo sinh viên thành công chức và nuôi họ để sau này trở thành công bộc của sự nghiệp bảo vệ quyền lợi người dân. Sinh viên theo học những ngành này cần được cấp học bổng và tuyển dụng rất khắt khe với khu vực Nhà nước. Còn đương nhiên, nếu học ra mà không phục vụ cho sự nghiệp Nhà nước thì phải hoàn trả toàn bộ học phí và chi phí liên quan khác.

Mặt khác, những ngành như ngoại ngữ, công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông, xây dựng, kinh tế - thương mại, quản trị kinh doanh, … thì mang tính thị trường cao hơn. Do vậy, Dự án Giáo dục Đại học ngay từ đầu đã phân tách những ngành học mang tính công và mang tính tư. Dự án đã đề xuất nên áp dụng học phí phân biệt, phải có những mức học phí khác biệt giữa các ngành học khác nhau. Với hệ thống sư phạm, sinh viên không những được miễn học phí mà còn được cấp học bổng để yên tâm học tập và rèn luyện. Còn với các ngành học mang tính thị trường như đã nói thì đương nhiên phải đóng học phí 100%, thậm chí mức học phí là rất cao. Với cơ chế này, chúng ta có thể phân luồng để sinh viên theo cơ chế thị trường, để sinh viên được quyền chọn lựa ngành học một cách linh hoạt hơn và phù hợp hơn về nhu cầu và khả năng đáp ứng.

PV: Ông nghĩ gì về các đại học do nước ngoài đầu tư ở Việt Nam?

PGS TS Lê Phước Minh: Trong quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế, không phải quốc gia nào cũng mở cửa thực sự với đầu tư nước ngoài trong giáo dục. Theo tôi được biết RMIT là trường được thành lập theo Luật Đầu tư Nước ngoài, sau này các trường ra đời sau phải thực hiện theo Luật Giáo dục Đại học, hoạt động theo điều lệ trường đại học. Hợp tác quốc tế trong giáo dục có rất đa dạng, nhiều mô hình, tuy nhiên hầu hết các quốc gia đều rất cẩn trọng với các mô hình đầu tư 100% vốn từ nước ngoài. Thị trường giáo dục không nên là thị trường đóng nhưng phải có sự giám sát của nhà nước cao hơn so với các lĩnh vực đầu tư nước ngoài khác, bởi vì nó liên quan đến con người. Mô hình liên doanh, liên kết, như các mô hình trường đại học như Việt – Pháp, Việt – Nhật, Việt – Đức được ưu tiên, khuyến khích.

Theo tôi, mô hình hợp tác quốc tế trong giáo dục đại học là rất cần vì chúng ta cần mô hình quản trị và chất lượng giáo dục đại học của các nước tiên tiến. Nhưng chúng ta không thể nhường hẳn sân chơi này cho phía nước ngoài. Vì các trường đại học có yếu tố nước ngoài được quyền thu học phí theo mức riêng của họ. Trong khi các trường của chúng ta chưa có cơ chế cho phép tiếp cận mức học phí cao với chất lượng cao để xã hội chấp nhận được. Nếu để có quá nhiều đại học do nước ngoài đầu tư sẽ dẫn đến sự cạnh tranh không công bằng.

PV: Ông nghĩ gì về thực tế ở Mỹ khi những người không có bằng cấp như Thomas Edison và Bill Gates vẫn được các trường đại học trân trọng mời đến thuyết trình?

PGS TS Lê Phước Minh: Chúng ta đều thừa nhận trong xã hội có những người là thiên tài. Và khi đã là thiên tài thì thậm chí họ không cần đào tạo qua trường lớp, không lấy một bằng cấp cụ thể nào cả, nhưng các thiên tài có khả năng đặc biệt nên trí tuệ của họ có được là do có sự tự học hỏi với khả năng bẩm sinh đặc biệt, thậm chí hơn hẳn những gì mà các chương trình dạy học có thể đem lại. Cho nên, vấn đề với họ không còn là bằng cấp nữa. Như vậy, việc các trường đại học và xã hội phải thừa nhận họ cũng là thực tế. Khi giá trị của các thành quả do họ đem lại đã được xã hội công nhận thì vấn đề bằng cấp trở thành rất mờ nhạt.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

Nhà tỷ phú công nghệ thành đạt Bill Gates nói chuyện tại ĐH Bách khoa Hà Nội trong chuyến thăm Việt Nam năm 2006. Ảnh: VnExpress.

Ngoài những nhà khoa học không bằng cấp như Bill Gates và Thomas Edison, phải kể đến những người thành đạt trong kinh doanh mặc dù không có bằng cấp. Rất nhiều người tự gây dựng cơ nghiệp chứ không phải là thừa hưởng gia tài. Các trường đại học đương nhiên mong muốn sinh viên của họ cơ cơ hội tiếp xúc với những người thành đạt. Tuy nhiên, những người này có thể thuyết trình cho sinh viên nhưng không phải về khoa học mà là để hun đúc tinh thần khởi nghiệp, dám nghĩ, dám làm, kinh nghiệm kinh doanh… mà không phải là giảng dạy một phần hay một học phần trong chương trình đào tạo chính khoá.

Theo tôi, ngay cả Việt Nam nên chăng cũng cần như vậy. Chúng ta nên tạo nhiều hơn cơ hội cho những người thành đạt đến chia sẻ kiến thức cho sinh viên. Thậm chí, một bác nông dân dám chế tạo máy bay trực thăng, tàu ngầm hay đơn giản hơn là máy nông nghiệp… cũng hoàn toàn có thể chia sẻ với sinh viên.

Song cần phải nhớ rằng điều này không có nghĩa là thay thế cho một giảng viên của một học phần nào đó. Vì đại học luôn có nguyên tắc và khuôn phép, thậm chí ít nhiều mang tính bảo thủ nhất định, trong đó giảng viên đại học phải có bằng tiến sĩ, ít nhất là thạc sĩ, phải có chứng chỉ nghiệp vụ như là giấy phép hành nghề giảng dạy, kèm thoe nhiều điều kiện về nghiên cứu khoa học và bài viết khác. Nhưng diễn thuyết cho sinh viên về tinh thần, ý chí dám nghĩ, dám làm, tinh thần khởi nghiệp… thì với những người không có bằng cấp là hoàn toàn chấp nhận được. Nhưng những hoạt động ngoại khoá đó không thể thay thế cho một học phần nào và những người như vậy không thể làm thầy chính thức được.

PV: Qua tìm hiểu thực tế với không ít du học sinh Việt Nam, điều dễ nhận thấy là nhiều người được phía nước ngoài tạo điều kiện về nước lấy số liệu cho đề tài tốt nghiệp. Ông nghĩ gì về thực tế đó?

PGS TS Lê Phước Minh: Cá nhân tôi chưa có đủ thông tin để đánh giá về thực tế này. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hoá hội nhập thì có rất nhiều vấn đề chúng ta nên công khai, tạo cơ hội tiếp cận, chia sẻ và học hỏi lẫn nhau. Ngoại trừ những vấn đề liên quan đến an ninh, quốc phòng, bí quyết công nghệ… thì chúng ta cần phải giữ theo luật và các quy định khác. Còn lại các số liệu về các lĩnh vực khác, với mức độ chi tiết, công khai theo quy định, thì các du học sinh khi về nước hoàn toàn có thể khai thác theo căn cứ của Luật Tiếp cận Thông tin.

Khi đã hội nhập quốc tế, nếu chúng ta muốn tìm hiểu, học hỏi nước ngoài thì cũng phải để nước ngoài biết về chúng ta. Vì thế, không nên quá quan ngại thực tế này mà nên tranh thủ để có lợi cho đất nước với những nghiên cứu đó của các du học sinh. Đương nhiên, chúng ta phải tin vào tinh thần trách nhiệm của các du học sinh với đất nước. Còn những ai cố tình tiếp cận các nguồn thông tin mật hoặc không được phép thì sẽ phải chịu trách nhiệm theo luật định.

PV: Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang là thách thức rất lớn với giáo dục đại học Việt Nam. Ông nghĩ gì về điều này?

PGS TS Lê Phước Minh: Trước khi nói về giáo dục đại học, tôi muốn nói rộng ra tới giáo dục phổ thông. Mới đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cho phép học sinh trung học được sử dụng điện thoại thông minh trong giờ học. Và giáo viên đương nhiên cũng được dùng để tra mạng trong quá trình giảng dạy. Như thế, học sinh hoàn toàn có thể tra cứu để kiểm chứng các kiến các kiến thức được học ngay trong giờ lên lớp. Rõ ràng, đây là thực tế không đơn giản cho giáo viên hiện nay và đúng là thách thức khiến họ phải đào sâu các kiến thức không chỉ có trong sách giáo khoa.

Với giáo dục đại học, sinh viên có thể vào Internet để tự học với các học liệu mở của các đại học danh tiếng trên thế giới và tiếp cận các nguồn kiến thức vô hạn. Đó là thách thức cho chính các giảng viên đại học và các chương trình đào tạo ở các trường đại học. Nếu như các bậc thầy không quyết tâm học hỏi liên tục và suốt đời, mà chỉ giảng dạy các kiến thức không cập nhật thì sinh viên nếu lịch sự sẽ không nghe nữa. Mà không lịch sự thì thậm chí có thể nói thẳng rằng đó là những kiến thức đã lạc hậu. Trong điều kiện của thời đại Cách mạng 4.0, nếu sinh viên có ý chí tự học thì có thể tự đi xa lắm, ra ngoài khuôn khổ của chính trường đại học cấp bằng cho họ. Cách mạng Công nghiệp 4.0 là cơ hội đặc biệt với mọi sinh viên.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đối với sinh viên

PGS TS Lê Phước Minh: "Trong điều kiện của thời đại Cách mạng 4.0, nếu sinh viên có ý chí tự học thì có thể tự đi xa lắm"

Do vậy, sẽ có một số trường đại học mới thành lập, nhưng sẽ có cơ hội cất cánh nếu chủ động với tận dụng mọi cơ hội của cuộc cách mạng 4.0. Trong khi đó, sẽ có một số trường đại học tên tuổi và có bề dày sẽ dần vị thế, khó tuyển sinh nếu bỏ lỡ thời cơ của cuộc Cách mạng 4.0.

PV: Cuối cùng, với tư cách là người đứng đầu Hội Trí thức Khoa học và Công nghệ Trẻ Việt Nam, xin ông cho biết Hội đã và sẽ làm gì để thúc đẩy sự phát triển của giáo dục đại học?

PGS TS Lê Phước Minh: Trong những năm gần đây, chúng tôi đã nỗ lực tiếp cận với các đại học, viện nghiên cứu cả trong và ngoài nước. Mục tiêu đặt ra là làm sao nâng cao suy nghĩ, tầm nhìn và khích lệ thế hệ trẻ Việt Nam. Chúng tôi đã tổ chức những hoạt động để các chuyên gia có uy tín trong nước, quốc tế chia sẻ những kiến thức mới để khơi dậy khát vọng học tập, nghiên cứu cho trí thức trẻ và sinh viên. Vấn đề là làm sao trí thức trẻ và sinh viên phải thay đổi suy nghĩ để thấy rõ được thời cơ và thách thức, nếu không có ý chí vươn lên thì rất có thể trong tương lai sẽ không làm chủ được vận mệnh của chính bản thân mình.

PV: Xin cám ơn ông!