Các mô hình dạy học trên thế giới

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC NƯỚC NGOÀI Một số mô hình giáo dục trực tuyến trên thế giới và đề xuất cho Việt Nam Phan Thị Bích Lợi1, Nguyễn Thị Kiều Oanh2 TÓM TẮT: Bài viết nghiên cứu về quan niệm và một số mô hình giáo dục trực 1 Email: tuyến trên thế giới để thấy được các thành tố đặc trưng, không thể thiếu khi triển 2 Email: khai giáo dục trực tuyến. Với mô hình TPAC, một mô hình thể hiện chức năng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam 52 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam của các thành tố, bao gồm Công nghệ, Con người, Đánh giá và Nội dung nằm trong hệ thống quản lí và chính sách. Khi triển khai giáo dục trực tuyến, bất kì nước nào, tổ chức nào cũng đều phải xem xét các yếu tố này và Việt Nam cũng vậy. Bên cạnh đó, Blended learning là mô hình triển khai giáo dục trực tuyến phù hợp. Việt Nam có thể vận dụng mô hình này vào thực tiễn để thấy được dạy học trực tuyến đóng vai trò như một hình thức bổ sung cho dạy học trực tiếp. TỪ KHÓA: Giáo dục trực tuyến; mô hình giáo dục trực tuyến. Nhận bài 05/10/2020 Nhận bài đã chỉnh sửa 29/10/2020 Duyệt đăng 25/11/2020. 1. Đặt vấn đề Tài liệu Hướng dẫn lập kế hoạch cho học tập kết hợp Giáo dục trực tuyến [GDTT] đang trở thành một xu thế và trực tuyến [3] của trường học ảo Michigan quan niệm tất yếu của thời đại 4.0, thời đại mà trí tuệ nhân tạo, điện đầy đủ hơn cả: Học trực tuyến là hình thức học tập với toán đám mây, môi trường ảo,…trở nên quen thuộc và có sự hướng dẫn của giáo viên [GV] chủ yếu thông qua mặt trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống. Việc nghiên internet, bao gồm các phần mềm để cung cấp môi trường cứu một số mô hình GDTT thành công trên thế giới để học tập có cấu trúc và ở đó, học sinh [HS] và GV tách học hỏi kinh nghiệm và vận dụng vào triển khai tại Việt biệt nhau về mặt địa lí. Nó có thể là đồng bộ hoặc không Nam là một việc làm cần thiết, nhất là trong giai đoạn đồng bộ, người dùng có thể truy cập từ nhiều không gian triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới hiện nay. khác nhau. Chúng tôi hoàn toàn nhất trí với quan niệm trong tài liệu của trường học ảo Michigan đưa ra. Quan 2. Nội dung nghiên cứu niệm này thể hiện một cách hiểu tương đối toàn diện 2.1. Quan niệm về giáo dục trực tuyến về GDTT, thể hiện vai trò của người dạy, người học, Có nhiều khái niệm liên quan và trong nhiều bối cảnh internet, phần mềm và phải nằm trong môi trường học có nghĩa tương đồng với GDTT như đào tạo trực tuyến, tập có cấu trúc, người dạy và người học có thể tương tác dạy học trực tuyến, học tập điện tử,… đồng bộ hoặc không đồng bộ. Theo báo cáo của Trung tâm Công nghệ giáo dục [GD] – Bộ GD Hoa Kì [1]: Học trực tuyến được quan niệm là 2.2. Một số mô hình giáo dục trực tuyến trên thế giới học diễn ra một phần hoặc toàn bộ khóa học thông qua Theo nghiên cứu của chúng tôi, có rất nhiều mô hình Internet. Quan niệm này loại trừ GD thông qua chương lí thuyết và mô hình triển khai GDTT được các nhà khoa trình phát sóng truyền hình hoặc đài phát thanh, hội nghị học trên thế giới đưa ra theo nhiều cách tiếp cận khác truyền hình, video truyền hình và phần mềm GD độc lập nhau. Có thể kể ra một số mô hình điển hình như sau: hoặc các chương trình không có thành phần giảng dạy - Mô hình Cộng đồng khám phá CoI [Community of dựa trên Internet. Inquiry] của Garrison, Anderson & Archer [2000] [4] Theo tài liệu nghiên cứu về GDTT tại Hoa Kì của dựa trên khái niệm về ba “sự hiện diện” riêng biệt gồm Elaine Allen [2] thống nhất cách hiểu về GDTT dựa vào nhận thức, xã hội và giảng dạy. tỉ lệ phần trăm nội dung giảng dạy trực tuyến. Cụ thể, - Mô hình kết nối [Connection model] của George các khóa học trực tuyến là những khóa học trong đó ít Siemens đề xuất năm 2004 [5], nói về sự kết nối thông nhất 80% nội dung khóa học được giảng dạy trực tuyến. tin trong học tập. Quan niệm này đồng nhất với quan niệm về GDTT được - Mô hình học tập hợp tác trực tuyến OCL [Online nêu trong trang web của Cục Quản lí kĩ năng Úc thuộc Collaborative Learning] do Linda Harasim đề xuất vào Chính phủ Úc [//www.asqa.gov.au/]. Còn những năm 2012 [6], tập trung vào các phương tiện của Internet khóa học có nội dung dạy học trực tuyến nằm trong để cung cấp môi trường học tập thúc đẩy sự cộng tác và khoảng từ 30% đến 79% được gọi là học tập kết hợp xây dựng kiến ​​thức. [Blended learning]. - Mô hình Đa phương thức của Picciano [2017] [7] 60 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
  2. Phan Thị Bích Lợi, Nguyễn Thị Kiều Oanh nói về mối liên hệ và vai trò của các thành tố trong dạy học trực tuyến gồm: [Content- Nội dung, Collaborative Learning – Học tập hợp tác, Dialectics/Questioning – Thảo luận/đặt câu hỏi, Reflection- Phản ánh, Social Emotional – Cảm xúc xã hội, Evaluation/Assessment – Kiểm tra/Đánh giá]. Ngoài các mô hình kể trên, còn một số mô hình khác về GDTT, về dạy học trực tuyến. Tuy nhiên, trong phạm vi bài báo này, chúng tôi phân tích sâu 2 mô hình gồm Blended learning và mô hình TPAC. Mô hình thứ nhất có ý nghĩa thể hiện cách thức triển khai, mô hình thứ hai thể hiện các điều kiện đảm bảo triển khai GDTT. Dựa trên hai mô hình này, chúng tôi đưa ra những bài học vận Hình 1: Sơ đồ phân loại mô hình học tập kết hợp dụng cho việc triển khai GDTT trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam. Luân chuyển trạm [Station Rotation]: HS phải luân Mô hình Blended learning [mô hình cách thức triển chuyển qua tất cả các trạm [các trạm trực tuyến và trực khai] tiếp] theo lịch trình cố định, không chỉ những trạm tự Nghiên cứu kinh nghiệm triển khai GDTT của một số chọn theo sở thích của HS. nước trên thế giới [như Mĩ, Úc, Sing, Hồng Kông, Hàn Luân chuyển phòng thí nghiệm [Lab Rotation]: HS luân Quốc,…] chúng tôi nhận thấy đa số các nước lựa chọn chuyển đến phòng máy tính cho trạm học tập trực tuyến. triển khai theo mô hình Blended learning [học tập kết Lớp học đảo ngược [Flipped classroom]: HS tham gia hợp]. Mô hình này kết hợp giữa dạy học trực tiếp và trực học trực tuyến trước khi đến lớp và sau đó tham gia vào tuyến, học sinh [HS] vừa được trải nghiệm học tập trực lớp học trực tiếp để thực hành hoặc thực hiện dự án trực tuyến, vừa được tham gia lớp học trực tiếp, tận dụng được tiếp do GV hướng dẫn. ưu thế của cả hai phương thức thức học tập này, đồng thời Luân chuyển cá nhân [Individual Rotation]: Mỗi HS hạn chế được nhược điểm của cả hai. Mô hình này được có một lộ trình học tập được cá nhân hóa và không nhất trình bày trong các văn bản chính thức của Bộ GD các thiết phải luân chuyển theo tất cả các trạm theo phương nước về hướng dẫn dạy học trực tuyến. thức có sẵn. Một thuật toán hoặc GV đặt lộ trình cho của Có nhiều cách trình bày khác nhau nhưng quan niệm từng HS, dựa trên đặc điểm cá nhân hóa. về học tập kết của Heather Staker và Michael B.Horn Mô hình 2 - Mô hình linh hoạt [Flex model]: Học [2012] [8] được coi là đầy đủ nhất: “Học tập kết hợp là trực tuyến là xương sống của việc học tập của HS. HS một hình thức giáo dục chính qui trong đó người học di chuyển theo một lịch trình tùy chỉnh riêng, tùy chỉnh nhận được một phần sự phân phối nội dung và hướng giữa các phương thức học tập. GV và HS tương tác theo dẫn trực tuyến [dưới sự kiểm soát về thời gian, địa điểm, thời gian thực và HS chủ yếu học trong khuôn viên con đường và tốc độ học tập của HS] và một phần là trải trường học. nghiệm học tập theo lớp học trực tiếp”. Quan niệm này Mô hình 3 - Mô hình hỗn hợp cá nhân [Self-blend cũng được sử dụng trong các văn bản chính thức hướng model]: HS chọn thực hiện một hoặc nhiều khóa học dẫn về dạy học trực tuyến của Bộ GD Mĩ. hoàn toàn trực tuyến để bổ sung cho các khóa học trực Phân loại các mô hình học tập kết hợp tiếp truyền thống của họ. HS tự kết hợp một số khóa học Học tập kết hợp được phân loại thành 4 mô hình [xem trực tuyến theo nhu cầu cá nhân và tham gia các khóa Hình 1]. Trong đó, mô hình Rotation lại được chia nhỏ học trực tiếp khác tại lớp học với các GV trực tiếp. thành 4 mô hình con [theo Heather Staker và Michael B. Mô hình 4 - Mô hình ảo [Enriched Virtual model]: Một Horn, 2012]. Sự phân chia này mang ý nghĩa tương đối, khóa học trực tuyến toàn trường, HS tham gia cả một lớp vì thực tế, một số tác giả có những cách chia khác cho học truyền thống và lớp học trực tuyến. Nhiều chương Blended learning. trình học tập ảo bắt đầu bằng trường học trực tuyến toàn Mô hình 1 - Mô hình luân chuyển [Rotation model]: thời gian và sau đó phát triển các chương trình kết hợp để Một khóa học/môn học trong đó HS luân chuyển theo cung cấp cho HS trải nghiệm trường học truyền thống. lịch trình đã định sẵn hoặc theo quyết định của GV giữa Việc học diễn ra chủ yếu bên ngoài trường học truyền các phương thức học tập, ít nhất một trong số đó là học thống. HS không phải tham gia lớp học truyền thống trực tuyến, học trực tiếp theo phương thức truyền thống hàng ngày trong tuần. vẫn là chủ đạo. HS chủ yếu học trong khuôn viên trường Các mô hình con này được phân chia một cách tương học, ngoại trừ bài tập về nhà. Trong mô hình luân chuyển đối, chúng không loại trừ nhau. Khi triển khai dạy học, các lại được chia nhỏ thành bốn mô hình con bao gồm: trường học, các GV có thể sử dụng kết hợp các mô hình Số 35 tháng 11/2020 61
  3. NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC NƯỚC NGOÀI này với nhau tùy theo điều kiện của từng cơ sở đào tạo. hạ tầng đường truyền internet. Đây là yếu tố không thể Mô hình chức năng TPAC [mô hình điều kiện triển thiếu khi nói đến GDTT. khai] “P” - People, Professional development, and Pedagogical: Tài liệu do Matthew Wicks và cộng sự viết trong báo Con người, phát triển chuyên môn, và phương pháp sư cáo được xuất bản bởi Hiệp hội Quốc tế về dạy học trực phạm, dạy học lấy HS làm trung tâm. Trong đó sử dụng tuyến cho K-12 của Mĩ [9] có trình bày về mô hình TPAC công nghệ, dữ liệu để hướng dẫn và truyền tải nội dung cho GDTT. Mô hình TPAC được gọi tên theo chữ cái kĩ thuật số hấp dẫn. GV cần có các kĩ năng mới để dạy đầu của các thành tố cốt lõi, không thể thiếu của mô hình học trực tuyến; Quản trị viên cũng cần có các kĩ năng [xem Hình 2]. Tham khảo mô hình này để chúng ta thấy mới để quản lí dạy học trực tuyến. Phát triển chuyên được các điều kiện đảm bảo cần cho triển khai GDTT. môn được hiểu là quá trình đào tạo, bồi dưỡng dành cho Mô hình này gồm 3 vòng tròn thể hiện 3 tầng điều kiện GV cũng được thực hiện tối đa qua hình thức trực tuyến. để triển khai GDTT: “A” – Assessment and Adaptive: Đánh giá điện tử, Tầng thứ nhất liên quan đến chính sách: Bao gồm các đánh giá dựa trên dữ liệu. Các phương pháp đánh giá quy định chung nhất để đảm bảo GDTT có thể triển khai. Ở cấp quốc gia, các chính sách, thông tư ban hành nhằm chứng minh sự hoàn thành khóa học, bao gồm đánh giá hướng dẫn cũng như quy định các điều kiện triển khai dựa trên hiệu suất, đánh giá quá trình và đánh giá thích GDTT. Cụ thể, với một khóa học trực tuyến thì đó là các ứng theo dữ liệu, để cải thiện và cá nhân hóa quá trình quy định về điều kiện ghi danh của HS, quy định học dạy học. Thích ứng được hiểu là sự điều chỉnh cho phù phí, tài trợ,… hợp giữa trình độ và hứng thú của người học với nội Tầng thứ hai liên quan đến vấn đề quản lí và dịch vụ dung và đánh giá điện tử. Yếu tố này đáp ứng cá nhân hỗ trợ HS: Gồm các yếu tố quản lí và hỗ trợ HS học tập hóa quá trình học tập. trên môi trường trực tuyến, hỗ trợ công nghệ, gia sư trực “C” – Content and Curriculum: Gồm chương trình tuyến, tư vấn, giải đáp các thắc mắc của HS sao cho HS giảng dạy và nội dung kĩ thuật số. Chương trình giảng không gặp bất cứ khó khăn gì với công nghệ để học tập dạy được số hóa và điều chỉnh cho phù hợp với môi trực tuyến đạt hiệu quả cao nhất. trường công nghệ. Nội dung dạy học đa dạng từ các Tầng thứ ba liên quan đến các thành tố cốt lõi của mô nguồn khác nhau như video, bài giảng trực tuyến, tài liệu hình gồm Công nghệ, Con người, Đánh giá và Nội dung. tham khảo có sẵn các đường link,… Trung tâm của mô hình là người học thể hiện quan niệm Mô hình TPAC là một cách tiếp cận tổng thể gồm chức dạy học trực tuyến lấy người học là trung tâm, mọi quyết năng của các tầng chính sách, tầng quản lí và tầng các định sư phạm, nội dung dạy học, kiểm tra đánh giá,…đều yếu tố cốt lõi [gồm công nghệ, con người, nội dung, đánh hướng đến sự phù hợp và thích ứng với cá nhân người giá]. Để chuẩn bị triển khai dạy học trực tuyến, ta cần học. Cụ thể các thành tố của mô hình bao gồm: xem xét tất cả các yếu tố đó, phân tích tình trạng hiện có “T”- Technology and Platforms: Nền tảng công nghệ và đưa ra giải pháp cho những thành tố chưa đảm bảm. và các công cụ để dạy học, kết nối, cộng tác và giao tiếp; Nếu thiếu bất kì một yếu tố nào thì khó có thể triển khai Hệ thống quản lí học tập, môi trường học tập ảo; Cơ sở thành công GDTT. Hình 2: Mô hình TPAC cho GDTT – Mô hình theo chức năng 62 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM
  4. Phan Thị Bích Lợi, Nguyễn Thị Kiều Oanh 2.3. Đề xuất cho triển khai giáo dục trực tuyến tại Việt Nam trang bị thiết bị thông minh, máy tính đầy đủ hơn và HS Qua nghiên cứu mô hình cách thức triển khai và điều có cơ hội sử dụng máy tính/thiết bị thông minh ở nhà để kiện triển khai GDTT ở trên, chúng tôi nhận thấy rằng học tập. Một số nội dung và hoạt động học tập trực tiếp mô hình Blended learning hoàn toàn phù hợp với bối được thay thế bằng học trực tuyến. Ví dụ, hoạt động hình cảnh Việt Nam hiện nay, tuy nhiên về mức độ vận dụng thành kiến thức, HS có thể xem các bài giảng trực tuyến, còn tùy thuộc vào điều kiện từng địa phương, từng cơ sở còn hoạt động thực hành, vận dụng được tổ chức trực giáo dục. Bên cạnh đó, để triển khai GDTT không thể tiếp dưới sự hướng dẫn của GV trên lớp. không xét đến các điều kiện đảm bảo, chúng tôi vận dụng Mức 3 - thay thế phần lớn: Mức này phù hợp với mô hình TPAC trong việc đề xuất các giải pháp để chuẩn vùng kinh tế phát triển. Ngoài các điều kiện như mức bị các điều kiện triển khai GDTT. 2 thì nhà trường cần phát triển hệ thống quản lí học tập Chúng tôi dựa theo ba căn cứ chính sau để đưa ra đề LMS hiệu quả, trình độ GV và HS cũng phải được bồi xuất, đó là: dự thảo thông tư “Quy định quản lí tổ chức dưỡng để có các năng lực cần thiết đáp ứng mức độ thay dạy học trực tuyến đối với các cơ sở giáo dục phổ thông” thế của dạy học trực tuyến cho dạy học trực tiếp. Ở mức của BGD&ĐT; Chương trình giáo dục phổ thông 2018; độ này, GV có thể vận dụng mô hình lớp học đảo ngược, Điều kiện thực tế của Việt Nam [điều kiện kinh tế - xã HS sẽ học lí thuyết trước khi đến lớp, thời gian trên lớp hội, hạ tầng CNTT, thiết bị, trình độ GV, HS]. chủ yếu dành cho tương tác trực tiếp giữa GV-HS, HS- Từ các mô hình và căn cứ như trên, chúng tôi đề xuất HS và thảo luận, giải đáp,… triển khai GDTT trong trường phổ thông Việt Nam theo Tuy nhiên, việc vận dụng mức độ nào trong các mức các điểm trọng tâm gồm: Vận dụng mô hình Blended độ trên còn tùy thuộc rất nhiều vào năng lực GV, HS, nội Learning; Vận dụng trong tổ chức dạy học tự chọn ở dung, tài nguyên, đánh giá trực tuyến,…chứ không chỉ là THPT; Vận dụng mô hình chức năng TPAC trong việc các điều kiện về vật chất và công nghệ. chuẩn bị các điều kiện triển khai GDTT. Cụ thể như sau: b. Vận dụng trong tổ chức dạy học tự chọn ở THPT a. Vận dụng mô hình Blended Learning Nội dung giáo dục cấp THPT gồm các môn học bắt Đầu tiên cần khẳng định rằng mô hình lớp học truyền buộc, các môn học tự chọn, các chủ đề tự chọn. Việc lựa thống vẫn là chủ đạo, dạy học trực tuyến không thể thay chọn các chủ đề, các môn học phụ thuộc vào sở thích và thế dạy học trực tiếp trong hệ thống giáo dục phổ thông định hướng nghề nghiệp của HS, còn việc tổ chức dạy học Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vì bên cạnh những các môn/chủ đề lại phụ thuộc vào điều kiện từng trường. lợi ích mà dạy học trực tuyến mang lại thì còn những Theo kết quả nghiên cứu năm 2019 của đề tài “Nghiên hạn chế, thách thức không thể phủ nhận như yêu cầu về cứu mô hình tổ chức dạy học phát triển năng lực học sinh chi phí, nền tảng công nghệ cao, hạn chế ở mặt giao tiếp THPT thực hiện Chương trình GDPT mới [thực hiện xã hội, không hiệu quả đối với những HS thiếu động việc tự chọn môn học theo định hướng nghề nghiệp]” lực và tự giác,…Ở đây, việc vận dụng mô hình Blended của nhóm nghiên cứu thuộc TTPTBVCLGDPT Quốc learning có ý nghĩa “tận dụng” lợi thế của cả hai phương gia, đã liệt kê ra được 108 tổ hợp tự chọn mà HS có thể thức dạy học trực tiếp và trực tuyến. Tuy nhiên, việc lựa lựa chọn. Với số lượng lớn các tổ hợp như vậy, có thể chọn một số mô hình con trong Blended learning để triển xảy ra trường hợp có những chuyên đề/môn học chỉ có khai lại tùy thuộc điều kiện thực tế của từng địa phương, một vài HS lựa chọn. Vậy việc tổ chức triển khai như thế từng trường cũng như năng lực của GV và HS. Ngoài ra, nào cho thuận tiện và hiệu quả là một bài toán khó mà việc vận dụng Bleded learning có thể chia ra thành các chưa có giải pháp thỏa đáng. mức độ dựa trên điều kiện thực tế của từng vùng: Cũng theo kết quả nghiên cứu của đề tài trên thì việc Mức 1 – mức bổ sung: Với vùng nông thôn, miền núi, triển khai dạy học tự chọn cho những môn ít HS lựa chọn vùng khó khăn, để triển khai dạy học trực tuyến thì tối thì phương án ứng dụng CNTT/dạy học trực tuyến là thiểu phải có 1 phòng thực hành máy tính hoặc thiết bị khả thi hơn cả. Nhà trường sẽ quản lí HS tham gia các thông minh [điện thoại thông minh, máy tính bảng đủ để khóa học trực tuyến này bằng hệ thống quản lí học tập phục vụ cho một lớp học đồng thời] có kết nối internet. của toàn trường. HS chọn các môn học/chủ đề tự chọn GV có thể vận dụng mô hình Luân chuyển phòng thí theo sở thích và nguyện vọng của mình mà không ảnh nghiệm, tức là các giờ học trực tiếp vẫn diễn ra bình hưởng đến lịch học các môn học bắt buộc theo thời khóa thường, chỉ khi tiết học trực tuyến thì HS di chuyển đến biểu chung toàn trường. HS có thể học thêm các khóa phòng thực hành máy tính hoặc sử dụng thiết bị thông học khác nằm ngoài các khóa học tự chọn tối thiểu mà minh để học trực tuyến. Hình thức này phù hợp với các HS cần hoàn thành, hoặc HS cũng có thể học vượt cấp giờ học ngoại ngữ [thực hành nghe, nói] hoặc thực hành để hoàn thành trước thời hạn các khóa tự chọn và nhận với các phần mềm mô phỏng ảo trong các tiết thực hành chứng chỉ hoàn thành. Miễn sao sau khi học xong THPT, trong các môn Khoa học tự nhiên. HS phải hoàn thành tối thiểu số lượng các môn học/chủ Mức 2 – mức thay thế một phần: Mức này phù hợp đề tự chọn được yêu cầu. với vùng có điều kiện hạ tầng công nghệ tốt hơn, được Bên cạnh đó, một khó khăn có thể xảy ra trong dạy Số 35 tháng 11/2020 63
  5. NGHIÊN CỨU GIÁO DỤC NƯỚC NGOÀI học tự chọn là tình trạng thiếu GV ở một số môn học có có về chính sách, quản lí, cơ sở vật chất, năng lực GV và số lượng HS chọn quá đông. Dạy học trực tuyến cũng là HS,…Từ đó làm căn cứ nghiên cứu đưa ra các giải pháp một giải pháp phù hợp cho vấn đề này. chi tiết và theo lộ trình cụ thể cho việc triển khai GDTT c. Vận dụng mô hình chức năng TPAC trong việc chuẩn trong hệ thống giáo dục phổ thông. bị các điều kiện triển khai GDTT Để triển khai GDTT, chúng ta cần chuẩn bị các điều 3. Kết luận kiện đảm bảo dựa trên mô hình TPAC, cụ thể là chuẩn bị GDTT thể hiện những ưu điểm và bước tiến vượt bậc các điều kiện theo ba tầng, gồm: về một hình thức dạy và học trong thời đại của công Chính sách: các chính sách, quy định của nhà nước cũng nghệ. Tuy nhiên, các nước còn gặp rất nhiều thách thức như của BGD, của các bên liên quan về công nhận kết quả khi triển khai GDTT, điển hình là những thách thức về dạy học trực tuyến, các chính sách đối với GV, HS,… điều kiện hạ tầng công nghệ, chi phí, trình độ giáo viên, Quản lí: Quản lí về dạy và học trực tuyến, quản lí hệ thống đảm bảo chất lượng nội dung, sự tương tác xã hội bị dạy học LMS, quản lí chất lượng dạy học trực tuyến… giảm sút, đạo đức và văn hóa trong môi trường mạng,… Tầng cốt lõi gồm: công nghệ, cơ sở vật chất, nhân lực Để triển khai thành công GDTT tại Việt Nam thì chúng [GV, HS, đội ngũ hỗ trợ kĩ thuật, quản lí hệ thống], nội ta cần có những nghiên cứu sâu hơn để vận dụng cho phù dung chương trình, tài nguyên dạy học trực tuyến, kiểm hợp vì trong giai đoạn hiện nay, GDTT không thể thay tra đánh giá. Đây là những thành tố cốt lõi không thể thế hoàn toàn giáo dục truyền thống mà nó chỉ được coi thiếu khi tổ chức dạy học trực tuyến. là một hình thức dạy học mới, bổ sung cho giáo dục nhà Đi vào thực tế triển khai GDTT diện rộng, chúng ta cần trường truyền thống. đánh giá thật chính xác các điều kiện và tình trạng hiện Tài liệu tham khảo [1] U.S. Department of Education, Office of Educational technologies. New York: Routledge/Taylor&Francis. Technology [2010]. Understanding the Implications of [7] Picciano, A. G. [2017]. Theories and frameworks for Online Learning for Educational Productivity. online education: Seeking an integrated model. Online [2] Elaine Allen, [2011], Going the Distance Online Learning, 21[3], 166-190. doi: 10.24059/olj.v21i3.1225 Education in the United States. [8] Heather Staker, Michael B. Horn [2012]. Classifying [3] Michigan virtual school, Planning Guide for Online and K–12 Blended Learning. Innosight Inistute. Blended Learning. [9] Matthew Wicks [2010], A National Primer on K-12 [4] Garrison, D. R., Anderson, T., & Archer, W. [2000]. Online Learning. International Association for K-12 Critical inquiry in a text-based environment: Computer online learning conferencing in higher education model. The Internet and [10] BGD&ĐT [2018], Chương trình Giáo dục phổ thông - Higher Education, 2[2-3], 87-105. chương trình tổng thể. [5] Siemens, G. [2004]. Connectivism: A learning theory [11] Dự thảo thông tư BGD&ĐT [2020], Quy định quản lí tổ for the digital age. Paper retrieved from: //www. chức dạy học trực tuyến đối với các cơ sở giáo dục phổ elearnspace.org/Articles/connectivism.htm thông và cơ sở giáo dục thường xuyên. [6] Harasim, L. [2012]. Learning theory and online SOME MODELS OF ONLINE EDUCATION IN THE WORLD AND RECOMMENDATIONS FOR VIETNAM Phan Thi Bich Loi1, Nguyen Thi Kieu Oanh2 ABSTRACT: The article researches concepts and some models of online 1 Email: education in the world to discover distinctive and indispensable elements 2 Email: in implementing online education. Teacher Performance Assessment The Vietnam National Institute of Educational Sciences Consortium [TPAC] is known as a model which demonstrates functions of 52 Lieu Giai, Ba Dinh, Hanoi, Vietnam the elements, including Technology, People, Evaluation and Content within policy and management system. When implementing online education, these elements need to be taken into consideration in any country or any institution, and Vietnam should not be an exception. In addition, blended learning is a model of online education suitable for Vietnam to apply in practice to prove that online education can serve as a complementary type to face-to-face learning. KEYWORDS: Online education; online educational models. 64 TẠP CHÍ KHOA HỌC GIÁO DỤC VIỆT NAM

Page 2

YOMEDIA

Bài viết nghiên cứu về quan niệm và một số mô hình giáo dục trực tuyến trên thế giới để thấy được các thành tố đặc trưng, không thể thiếu khi triển khai giáo dục trực tuyến. Với mô hình TPAC, một mô hình thể hiện chức năng của các thành tố, bao gồm Công nghệ, Con người, Đánh giá và Nội dung nằm trong hệ thống quản lí và chính sách.

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề