Bò sát biển đầu tiên được phát hiện ở đâu

Theo thông tin từ Trường đại học Lâm nghiệp, từ năm 2011 đến 2018, TS Lưu Quang Vinh, một giảng viên của trường, cùng với các cộng sự ở nhiều đơn vị đào tạo, nghiên cứu trong và ngoài nước đã phát hiện 15 loài bò sát mới ở khu vực Đông Dương. Trong đó, phát hiện tại Lào 13 loài, tại việt Nam 2 loài.

Trao đổi với Thanh Niên, TS Lưu Quang Vinh cho biết, công cuộc tìm kiếm các loài bò sát mới ở khu vực Đông Dương của ông và các cộng sự được thực hiện bắt đầu từ năm 2011, với kết quả đầu tiên thu được là loài bò sát mà ông đặt tên là Thằn lằn chân ngón hương sơn (Cyrtodactylus huongsonensis), được phát hiện ở vùng núi đá vôi khu vực chùa Hương, huyện Mỹ Đức, Hà Nội.

Từ bấy đến nay, ông cùng với các cộng sự ở Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật Đại học Quốc gia Hà Nội, Quỹ quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF), Đại học Quốc gia Lào, Đại học Tổng hợp Cologne, Vườn thú Cologne (Đức) tiếp tục phát hiện thêm 14 loài nữa. Tất cả các phát hiện đều có sinh cảnh chung là vùng núi đá vôi, chủ yếu tập trung ở khu bảo tồn thiên nhiên Hin Nậm Nô, tỉnh Khăm Muộn, Lào.

\n

Những phát hiện trên đã được công bố rải rác trên các tạp chí quốc tế uy tín về động vật học (Zootaxa) từ năm 2011 đến nay. Mới đây nhất là bài viết về loài rắn khuyết banksi (Lycodon banksi) đăng tải trên Tạp chí Revue suisse de Zoologie do Bảo tàng Geneva Museum và Hiệp hội động vật học Thụy Sĩ xuất bản. Đây là một tạp chí nằm trong danh mục tạp chí SCI (là những tạp chí hàng đầu thế giới về khoa học và công nghệ vì quá trình chọn lọc tạp chí vào danh mục này là rất nghiêm ngặt).

Theo TS Lưu Quang Vinh, trong 2 loài mà ông và cộng sự được phát hiện ở Việt Nam có 1 loài vừa phát hiện xong thì được đưa ngay vào danh mục Danh lục đỏ thế giới IUCN 2018 (diện động vật phải thực hiện các giải pháp bảo tồn khẩn cấp). Đó là loài được TS Vinh đặt tên là Thằn lằn chân ngón gia lai (Cyrtodactylus gialaiensis). 

Tin liên quan

Bò sát biển đầu tiên được phát hiện ở đâu

Hình minh họa: Loài bò sát đầu tiên xuất hiện lúc nào. Bách Khoa Tri Thức

(Nguồn ảnh: Internet)


Cách đây 300 triệu năm, loài bò sát đi bộ trên Trái đất. Vào thời ấy, sinh vật lớn nhất trên đất vừa sống ở dưới nước vừa sống trên cạn và đẻ trứng trên cạn.

Loài bò sát đầu tiên giống như sinh vật lưỡng cư, nhưng khác một điều là trứng nở trên cạn. Con của chúng có chân và hai lá phổi, hít thở khí trời. Chúng đi bộ trên đất ẩm trong rừng và sống bằng côn trùng.

Về sau loài bò sát ngày càng lớn hơn và mạnh hơn. Một số giống như tắc kè, một số giống như rùa. Có loại bò sát đuôi ngắn, chân lớn, đầu to.

Thế hệ sau của loài bò sát thời tiền sử có vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển của loài này. Chúng giống như tắc kè dài 1 mét và đi trên hai chân sau.

Từ những sinh vật này, những loại bò sát mới phát triển. Có loại có cánh, loại này có lông và máu nóng, đấy là tổ tiên của loài chim. Một loại khác biến thành cá sấu và những con khủng long đầu tiên.

Có một thời, tất cả các loại bò sát đã ngự trị đời sống trên mặt đất. Nhưng sau hằng triệu năm, vô số loại bò sát cổ sơ bị diệt chủng. Có nhiều lý thuyết giải thích cho sự kiện này. Lý luận chính được chấp nhận là những sự thay đổi của trái đất và khí hậu làm cho loại bò sát này không sống được. Đầm lầy trở nên khô cạn mà chúng thì không thể sống trên mặt đất khô cằn. Thực phẩm không đủ. Khí hậu thay đổi theo mùa, từ cái nóng thiêu đốt của mùa hè sang cái lạnh băng giá của mùa đông. Hầu hết loài bò sát không kịp ứng phó với những thay đổi này; vì thế, chúng bị tuyệt chủng.

Từ Khóa:

Loài bò sát đầu tiên xuất hiện lúc nào || Bách Khoa Tri Thức || Khám phá thế giới

Bò sát biển đầu tiên được phát hiện ở đâu

Động vật có vú là gì

Động vật có vú là loại cao cấp nhất trong tất cả các loài vật khác nhau của đời sống sinh vật. Đó là những loại mà ta biết rõ nhất như chó, mèo, thỏ, ngựa, bò, heo, voi, gấu, chuột và loài người. Ngoài ra còn có hàng trăm ngàn loài có vú khác.

Bò sát biển đầu tiên được phát hiện ở đâu

Nhấn để phóng to ảnh

Đây là quả trứng có vỏ mềm hóa thạch đầu tiên được biết đến còn sót lại ở Nam Cực và có lẽ nó là sản phẩm của một loài bò sát biển khổng lồ cổ đại, đã tuyệt chủng được gọi là mosasaur.

"Đó là sinh vật có kích thước của một con khủng long lớn, nhưng nó hoàn toàn không giống trứng khủng long. Nó giống với trứng của thằn lằn và rắn hơn cả”, Lucas Legendre, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Trường Khoa học Địa chất Jackson của Đại học Texas-Austin, cho biết.

Trước đây người ta tin rằng các loài bò sát biển khổng lồ từ kỷ Phấn trắng không đẻ trứng, nhưng thực tế có thể khác.

Các nhà khoa học Chile lần đầu tiên bắt gặp hóa thạch gần một thập kỷ trước, sau đó nó được đưa vào bộ sưu tập tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia. Hóa thạch này có kích thước 28 x 18 cm.

Để tìm hiểu rõ hơn, các nhà nghiên cứu đã thực hiện nghiên cứu xuyên qua nhiều lớp của màng trứng bằng kính hiển vi để xác định rằng hóa thạch là một quả trứng thực sự.

Quả trứng hóa thạch đã nở hàng chục triệu năm trước, có nghĩa là bất cứ thứ gì đã từng được bọc trong nó đều biến mất từ ​​lâu. Mặc dù không rõ loài nào đã đẻ quả trứng này, nhưng sau đó các nhà nghiên cứu đã tổng hợp dữ liệu của 259 loài bò sát sống để so sánh trứng với kích thước cơ thể, cho thấy con vật sẽ dài hơn 6 mét từ đầu đến cuối, không bao gồm một cái đuôi.

Nó có thể là một loài bò sát biển khổng lồ được gọi là mosasaur hoặc là một loài khủng long chưa được xác định có thể đại diện cho một đơn vị phân loại mới gọi là Antarcticoolithus bradyi.

Nơi quả trứng được tìm thấy trong quá trình hình thành hóa thạch cũng nói lên môi trường nơi nó nở ra. Gần đó, bộ xương của cả mosasaur và plesiosaur đã được tìm thấy, cho thấy khu vực này có thể là một khu vực vườn ươm đặc trưng. Tuy nhiên, các nhà khoa học hiện vẫn chưa biết làm thế nào con vật nở ra.

Trang Phạm/Dân trí

Theo IFL Science

Bò sát biển là các loài động vật bò sát đã có sự thích ứng thứ cấp cho đời sống thủy sinh hoặc bán thủy sinh trong môi trường biển. Các loài bò sát biển sớm nhất đã phát sinh trong kỷ Permi trong thời đại Đại Cổ sinh (Paleozoi) và rất nhiều loài bò sát biển tiền sử đã tuyệt chủng. Hiện tại, trong số khoảng 12.000 loài bò sát còn sót lại và các loài phụ, chỉ có khoảng 100 loài được xếp loại là loài bò sát biển gồm các loài bò sát biển bao gồm cự đà biển, rắn biển, rùa biển và cá sấu nước mặn.

Bò sát biển đầu tiên được phát hiện ở đâu

Trong thời kỳ Mesozoi, nhiều nhóm bò sát đã thích nghi với cuộc sống trên biển, bao gồm cả các loài quen thuộc như Ichthyosaurs (ngư long), Plesiosaurs (hai loại này từng được cho là kết hợp trong nhóm "Enaliosauria", một phân loại bây giờ đã trở nên lạc hậu), các nhóm mosasaurs (thương long), nothosaurs, placodonts, rùa biển, thalattosaurs và thalattosuchian. Sau khi tuyệt chủng hàng loạt vào cuối kỷ Phấn trắng (66 triệu năm trước), các loài bò sát biển ít hơn nhiều.

Nhưng dù sao vẫn còn có nhiều loài chẳng hạn như "rùa biển" thật sự, cả hai loài Bothremydidae, rắn Palaeophiidae, một số ít choristoderes như Simoedosaurus và cá sấu Dyrosaurid là còn sót lại từ kỷ Mesozoi là còn tồn tại đến nay. Các loại cá sấu biển đốm khác vẫn còn phổ biến gần đây như Miocen muộn. Một số loài bò sát biển, như ichthyosaurs, plesiosaurs, thalattosuchians metrihynchid và mosasaurs đã trở nên thích nghi tốt với lối sống biển mà chúng không thể mạo hiểm lên mặt đất và sinh trong nước. Những loài khác, chẳng hạn như rùa biển và cá sấu nước mặn, quay trở lại bờ để đẻ trứng. Một số loài bò sát biển cũng thường xuyên nghỉ ngơi và đụn cát trên mặt đất.

  • Rùa biển: Có bảy loài rùa biển tồn tại, sống chủ yếu dọc theo bờ biển nhiệt đới của Trung và Nam Mỹ và Caribê, mặc dù một số di chuyển xa và đã được biết đến để đi xa về phía bắc như Scandinavia. Rùa biển chủ yếu là động vật sống đơn độc, mặc dù một số loài tạo thành những nhóm lớn kết nối lỏng lẻo trong suốt mùa làm tổ. Mặc dù chỉ có bảy loài rùa biển thực sự, nhiều loài sống trong vùng nước lợ
  • Rắn biển: là nhóm loài bò sát biển phong phú nhất, có hơn 60 loài rắn biển khác nhau. Chúng sống ở vùng nước nhiệt đới và cận nhiệt đới của Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, mặc dù các báo cáo về giới hạn cho thấy chúng có thể mở rộng ra biển Đại Tây Dương. Rắn biển độc và vết cắn của chúng được biết đến là gây tử vong, mặc dù nhìn chung chúng chỉ cắn khi bị kích thích và thường chỉ tiêm một lượng độc rất nhỏ, không gây tử vong. Những con rắn biển được phân biệt với những con rắn trên mặt đất bằng một cái đuôi vát thẳng đứng.
  • Cự đà biển: Chúng chỉ sống trên quần đảo Galapagos và không thích nghi hoàn toàn với sinh vật biển. Mặc dù chúng ăn các loài thực vật biển và dành rất nhiều thời gian cho nước, chúng làm tổ trên mặt đất và cần nến dưới ánh mặt trời để đạt được nhiệt độ cơ thể lý tưởng của chúng; chúng cũng phải chống chịu những kẻ thù trên cạn.
  • Cá sấu nước mặn và cá sấu Mỹ: không có loài cá sấu nào trong số 23 loài bò sát ở biển thực sự; cá sấu nước mặn (Crocodylus porosus) thể hiện sự thích nghi với nguồn nước mặn và sống trong vùng nước lợ của Đông Nam Á và Úc. Cá sấu nước mặn xử lý muối dư thừa trong cơ thể của chúng thông qua các tuyến muối chuyên biệt. Những loài động vật này là những loài cá sấu lớn nhất, cũng là loài bò sát lớn nhất - chúng có thể dài đến 6 mét. Cá sấu Mỹ (Crocodylus acutus) cũng thích nước lợ trên môi trường nước ngọt.
      Crocodylus acutus (Cá sấu Mỹ)Crocodylus porosus (Cá sấu cửa sông)

Bò sát biển đầu tiên được phát hiện ở đâu
 

Bò sát biển đầu tiên được phát hiện ở đâu
 

    • Các loài rùa khác không thích nghi được với môi trường biển, dù các loại rùa sông, hồ đầm biết bơi
    • Williston SW (1914) Water Reptiles of the Past and Present University of Chicago Press (reprint 2002). ISBN 1-4021-4677-9
    • Anny Rafaela de Araújo Carvalho; Aline Marcele Ghilardi; Alcina Magnólia Franca Barreto (2016). "A new side-neck turtle (Pelomedusoides: Bothremydidae) from the Early Paleocene (Danian) Maria Farinha Formation, Paraíba Basin, Brazil". Zootaxa 4126 (4): 491–513. doi:10.11646/zootaxa.4126.4.3.
    • Langston, W. and Gasparini, Z. (1997). Crocodilians, Gryposuchus, and the South American gavials. In: Kay, R. F., Madden, R. H., Cifelli, R. L. and Flynn, J. J., eds., Vertebrate Paleontology in the Neotropics: The Miocene fauna of La Venta, Colombia. Washington, D.C. Smithsonian Institution Press, pp. 113–154.