"Bìa của Smells Like Teen Spirit" | |||
"Drain You"/"Even in His Youth"/"Aneurysm" | |||
10 tháng 9 năm 1991 | |||
CD, cassette, 7", 12" | |||
Tháng 5 năm 1991 tại Sound City, Van Nuys, Los Angeles, California | |||
| |||
5:01 [bản album] 4:30 [bản đĩa đơn] | |||
DGC | |||
Kurt Cobain, Dave Grohl, Krist Novoselic | |||
Butch Vig | |||
| |||
Video âm nhạc trên YouTube |
"Smells Like Teen Spirit" là một bài hát của ban nhạc rock người Mỹ Nirvana. Đây là ca khúc mở đầu cũng như đĩa đơn chính trích từ album phòng thu thứ hai của nhóm có tựa đề Nevermind [1991], do hãng đĩa DGC Records phát hành. Thành công vượt ngoài mong đợi của bài hát đã đưa Nevermind vọt lên vị trí quán quân của một số bảng xếp hạng album vào đầu năm 1992. Sự kiện đó còn là mốc son biến thể loại grunge trở thành dòng nhạc phổ thông.[4]
"Smells Like Teen Spirit" là bài hit đình đám nhất của Nirvana ở nhiều quốc gia, đạt thứ hạng cao trên các bảng xếp hạng công nghiệp âm nhạc khắp thế giới vào năm 1991 và 1992, trong đó có thành tích đứng đầu bảng tại Bỉ, Pháp, New Zealand và Tây Ban Nha. Ca khúc đón nhận vô số lời tán dương từ giới phê bình và đứng ở vị trí số một trong cuộc bầu chọn Pazz & Jop do các cây viết của Village Voice tổ chức. Bài hát còn được ví như "bản nhạc hiệu dành cho những đứa trẻ bất cần" của thế hệ X, nhưng Nirvana thì tỏ ra khó chịu bởi hiệu ứng chú ý mà nó đem lại cho nhóm. Nhiều năm kể từ cái chết của Kurt Cobain, các thính giả và phê bình gia vẫn tiếp tục tôn vinh "Smells Like Teen Spirit" là một trong những ca khúc vĩ đại nhất trong lịch sử âm nhạc.
Video âm nhạc [MV] của "Smells Like Teen Spirit" dựa trên khái niệm về một buổi hòa nhạc học đường kết thúc trong tình trạng hỗn loạn và náo động, lấy cảm hứng từ phim Over the Edge của Jonathan Kaplan [1971] và bộ phim Rock 'n' Roll High School của Ramones. Ca khúc đã giành 2 giải Video âm nhạc của MTV và lên sóng truyền hình với tần suất dày đặc. Nhiều năm sau, Amy Finnerty – người từng công tác tại bộ phận phát sóng của MTV cho biết MV "đã thay đổi toàn bộ diện mạo của MTV" bằng cách đem lại cho kênh này "một thế hệ hoàn toàn mới". Năm 2000, Sách Kỷ lục Guinness vinh danh "Smells Like Teen Spirit" là bài hát được phát nhiều nhất trên sóng kênh MTV ở châu Âu.
"Smells Like Teen Spirit" nằm trong danh sách "những ca khúc định hình nên rock and roll" của Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll. Năm 2001, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ [RIAA] đã liệt tên ca khúc ở vị trí số 80 trong danh sách Songs of the Century của tổ chức này. Năm 2002, NME liệt bài hát ở vị trí thứ 2 trong danh sách "100 đĩa đơn hay nhất mọi thời đại" của ấn phẩm này, còn Kerrang! thì liệt tên ca khúc ở hạng nhất trong danh sách "100 đĩa đơn hay nhất mọi thời đại" của họ. Năm 2004, Rolling Stone xếp "Smells Like Teen Spirit" ở hạng 9 trong danh sách 500 bài hát hay nhất mọi thời đại. Năm 2017, nhạc phẩm được ghi danh tại Đại sảnh Danh vọng Grammy.
Sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]
Giọng ca của Nirvana, Kurt Cobain cho biết "Smells Like Teen Spirit" giống như một cách để anh thử sáng tác một ca khúc theo phong cách của Pixies – ban nhạc mà anh vô cùng hâm mộ:
“ | Tôi đang cố viết ra một ca khúc lấy nhạc pop làm chủ đạo. Về cơ bản là tôi đang cố đạo theo [nhạc của] Pixies. Tôi phải thừa nhận là thế. Khi tôi nghe Pixies lần đầu tiên, tôi đã kết nối với ban nhạc ấy sâu sắc đến mức lẽ ra tôi phải ở trong ban đó – hoặc chí ít là một ban hát lại nhạc của Pixies. Chúng tôi đã dùng cái cảm giác sôi nổi của họ, [từ] êm dịu và yên ắng sang ồn ào và gay gắt.[5] | ” |
Cobain nghĩ ra tên bài hát khi cô bạn Kathleen Hanna – giọng ca chính của ban nhạc riot grrrl Bikini Kill – viết trên tường của anh dòng chữ "Kurt smells like Teen Spirit".[6] Ý của Hanna là Kurt có mùi như lăn khử mùi Teen Spirit – thứ mà cô và Tobi Vail [bạn gái lúc đó của Cobain] phát hiện trong một lần tới hiệu thuốc.[7] Cobain nói rằng anh không hề hay biết lăn khử mùi kia lúc đặt tên bài hát, phải vài tháng sau khi phát hành đĩa đơn thì anh mới biết đến nó; trước đó anh còn tưởng cái tên đó ám chỉ đến cuộc trò chuyện của họ về chủ nghĩa vô chính phủ và punk rock.[8]
Cùng với "Come as You Are", "Smells Like Teen Spirit" là một trong số nhiều bài hát được sáng tác sau những buổi ghi nháp đầu tiên với nhà sản xuất Butch Vig vào năm 1990. Cobain bắt đầu sáng tác ca khúc vài tuần trước khi tiến hành thu âm album thứ 2 của Nirvana là Nevermind vào năm 1991. Khi anh đem bài hát giới thiệu với các đồng đội trong ban nhạc, nó chỉ có vỏn vẹn khúc guitar riff chính và giai điệu hát điệp khúc,[9] nên đã bị tay bass Krist Novoselic gạt đi vì cho là "lố bịch". Để đáp trả thái độ đó của Krist, Cobain bắt ban nhạc phải chơi câu riff kia trong một tiếng rưỡi.[5] Cuối cùng, Novoselic bắt đầu chơi câu riff chậm hơn, tạo cảm hứng cho tay trống Dave Grohl chế ra nhịp trống cho bài hát.[11] Do đó đây là ca khúc duy nhất trong album Nevermind ghi công cả 3 thành viên trong ban làm tác giả.[12]
Thu âm[sửa | sửa mã nguồn]
Trước khi thu âm album, Nirvana đã gửi cho Vig những đĩa demo của các bài hát, bao gồm cả "Teen Spirit". Khi âm thanh bị méo do ban nhạc chơi ở âm lượng lớn, Vig lại thấy bản nhạc thật hứa hẹn.[13] Vig và ban nhạc thu âm "Smells Like Teen Spirit" tại Sound City Studios ở Van Nuys, California vào tháng 5 năm 1991.[14] Vig đề xuất thay đổi phần cải biên, trong đó chuyển phần guitar ứng tác sang điệp khúc và rút ngắn điệp khúc.[15] Ban nhạc ghi đĩa cơ bản trong 3 lượt, cuối cùng chọn sử dụng lượt thứ hai. Vig chỉnh một vài lỗi giữ nhịp do Cobain chuyển các bàn đạp hiệu ứng guitar của anh. Cobain chỉ thu giọng có ba lần; theo Vig kể: "Tôi thật may mắn khi Kurt thực hiện có bốn lần."[16]
Cấu trúc[sửa | sửa mã nguồn]
"Smell Like Teen Spirit" được thu âm ở khóa Fa thứ đầu tiên, theo sau là chùm hợp âm Mi thứ–Si giáng–La giáng–Rê giáng [Fm-B♭–A♭–D♭][17] với câu guitar riff chính cấu thành từ 4 hợp âm 5 chơi theo điệu gảy nốt móc kép đảo phách của Cobain.[18] Những hợp âm guitar này bị ghi đè nhằm tạo ra tiếng nhạc "nặng đô hơn".[19] Đôi khi các hợp âm trên bị biến âm sắc thành những hợp âm treo là do Cobain đánh 4 dây ở đáy đàn để làm âm thành dày tiếng hơn.[18] Câu riff của bài hát có nét tương đồng với bài hit "More Than a Feeling" của ban nhạc Boston, dù cho thực chất chúng không giống ý hệt. Cobain cho hay: "Đó chẳng qua là một câu riff rập khuôn. Nó gần giống với câu riff của Boston hoặc bài 'Louie Louie' của The Kingsmen".[5] Trong các phiên khúc, Cobain sử dụng bàn đạp âm hiệu ứng Small Clone nhằm chế ra một hiệu ứng hợp âm.
"Smell Like Teen Spirit" sử dụng "cấu trúc hình thức phổ thông" gồm các quãng 4 nhịp, 8 nhịp và 12 nhịp, cụ thể là một phiên khúc 8 nhịp, một tiền điệp khúc 8 nhịp và một điệp khúc 12 nhịp. Chuyên gia âm nhạc Graeme Downes – thủ lĩnh ban nhạc The Verlaines cho rằng "Smells Like Teen Spirit" là minh họa cho sự phát triển biến thể.[20] Những nhạc tố trong cấu trúc của bài hát được ghi dấu bằng những thay đổi trong âm lượng và cường độ, chuyển từ yên tĩnh sang ồn ào nhiều lần. Cấu trúc này gồm có "những câu phiên khúc yên ắng với tiếng guitar làm người nghe lắc lư theo điệp khúc, kế đến là các điệp khúc lớn và ồn ào lấy cảm hứng từ hardcore" – trở thành hình mẫu của một bài nhạc alternative rock.[21]
Trong các phiên khúc, ban nhạc duy trì chùm hợp âm giống điệp khúc. Cobain đánh câu guitar nốt đôi trên câu bass nốt móc đơn của Novoselic, làm đệm cho phần chùm hợp âm. Khi đến gần điệp khúc, Cobain bắt đầu chơi nốt đôi giống nhau ở mỗi nhịp của bài hát và hát lặp lại từ "Hello".[17] Sau các điệp khúc đầu và thứ hai, Cobain cùng lúc hát từ "Yay" và nhíu dây đàn để hòa âm.[22] Sau điệp khúc thứ hai, Cobain đánh đoạn guitar solo dài 16 quãng rồi bắt đầu giọng hát từ phần phiên khúc và tiền điệp khúc.[23] Trong phần điệp khúc kết bài, Cobain liên tục hát "A denial"; giọng của anh trở nên căng vì sức ép của tiếng hét.[19]
Phát hành và đón nhận[sửa | sửa mã nguồn]
"Smells Like Teen Spirit" có mặt trên sóng phát thanh vào ngày 27 tháng 8 năm 1991. Ngày 10 tháng 9, bài hát được chọn làm đĩa đơn chính để phát hành từ Nevermind – sản phẩm đầu tay của Nirvana với hãng đĩa lớn DGC Records. Mặc dù lúc đầu không lọt vào các bảng xếp hạng âm nhạc, ca khúc vẫn bán chạy tại một số khu vực ở Mỹ có sẵn nhóm người hâm mộ [fanbase] Nirvana.[24] Ban nhạc dự định biến đĩa đơn thành một bản nhạc alternative rock nhằm xây dựng nhóm người hâm mộ mình chứ không hề kỳ vọng nó sẽ thành bài hit; đĩa đơn kế tiếp "Come as You Are" mới là bài mà Nirvana định dùng có thể gặt hái thành công trên thị trường nhạc quần chúng. Tuy nhiên, các trạm phát thanh nhạc rock đại học và modern rock lại chọn "Smells Like Teen Spirit" để lên sóng với tần suất dày đặc. Danny Goldberg thuộc hãng quản lý Gold Mountain của Nirvana cho hay: "Chẳng ai trong chúng tôi thấy nó là một ca khúc hướng tới thị hiếu số đông, nhưng khán giả lại nghe và [yêu thích] bài hát ngay lập tức... Họ nghe ca khúc phát trên radio rồi đổ xô nhau như chuột Lemming để mua bằng được nó".[25]
Video âm nhạc [MV] của "Smells Like Teen Spirit" có màn ra mắt toàn thế giới trên chương trình phát nhạc alternative rock đêm muộn của MTV có tên 120 Minutes; để rồi MV trở nên nổi tiếng đến mức nhà đài MTV bắt đầu cho phát ca khúc vào các khung giờ ban ngày.[26] MTV còn bổ sung MV vào chuyên mục "Buzz Bin" của kênh vào tháng 10 và giữ ca khúc tại chuyên mục này đến giữa tháng 12. Cuối năm đó, ca khúc, MV và cả album Nevermind đều trở thành những nhạc phẩm hit. "Smells Like Teen Spirit" – Nevermind trở thành hiện tượng hiếm hoi thành công trên nhiều nền tảng khi tiếp cận được tất cả các hình thức phát nhạc rock lớn như modern rock, hard rock, album rock và radio đại học [college radio].[27]
"Smells Like Teen Spirit" gặt hái thành công cả về mặt chuyên môn lẫn thương mại. Ca khúc đứng đầu cuộc bầu chọn "Pazz & Jop" của Village Voice và các cuộc bầu chọn cuối năm của Melody Maker, đồng thời giành vị trí số 2 trong danh sách những đĩa đơn bán chạy nhất năm của Rolling Stone. Nhạc phẩm vươn lên hạng 6 [vị trí cao nhất] trên bảng xếp hạng đĩa đơn Billboard Hot 100 ở cùng tuần mà Nevermind đoạt ngôi quán quân trên bảng xếp hạng album.[28] "Teen Spirit" chiếm ngôi đầu bảng xếp hạng Modern Rock Tracks và nhận được chứng chỉ bạch kim [tương đương cho một triệu bản được tiêu thụ] bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ [RIAA].[29] Tuy nhiên, nhiều nhà đài Top 40 của Mỹ bị miễn cưỡng phải phát ca khúc với mật độ dày đặc và hạn chế phát nó vào ban đêm.[30]
Đĩa đơn còn gặt hái thành công ở những quốc gia khác. Tại Liên hiệp Anh, "Smells Like Teen Spirit" đứng thứ 7 và trụ ở bảng xếp hạng trong 184 tuần.[31] Ca khúc nhận được hai đề cử giải Grammy: Trình diễn giọng hard rock xuất sắc và Bài hát rock hay nhất.[32] Về sau Entertainment Weekly liệt thất bại của Nirvana trước Eric Clapton ở hạng mục Bài hát rock hay nhất là một trong 10 kết quả bất ngờ lớn nhất lịch sử Grammy.[33] Ngoài nước Mỹ, bài hát đứng đầu bảng xếp hạng của Bỉ, Pháp, New Zealand và Tây Ban Nha. Bài hát nằm trong top 5 của nhiều bảng xếp hạng châu Âu và đạt hạng 5 ở Úc. Bản nhạc xuất hiện trong nhiều bảng xếp hạng cuối năm, trong đó phải kể đến vị trí số 10 tại New Zealand, số 17 tại Bỉ và Đức, và số 32 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 cuối năm.[34]
Nhờ thành công của Nirvana, Michael Azerrad viết lời bình trên một bài viết của Rolling Stone vào năm 1992: "'Smells Like Teen Spirit' là một bài thánh ca [hoặc chống lại?] của thế hệ 'Why Ask Why?'. Chỉ đừng gọi Cobain là người phát ngôn của một thế hệ."[35] Mặc dù vậy, báo giới âm nhạc đã trao tặng ca khúc danh hiệu "thánh-ca-của-một-thế-hệ", xếp Cobain là người phát ngôn miễn cưỡng của Thế hệ X.[36] The New York Times nhận định rằng "'Smells Like Teen Spirit' có thể là phiên bản của thế hệ như đĩa đơn năm 1976 'Anarchy in the U.K.' của Sex Pistols, nếu không phải vì sự mỉa mai chua cay tràn ngập trong tựa bài hát... vì Nirvana biết quá rõ, tinh thần thanh thiếu niên thông thường bị đóng chai, gói gém lại và đem bán."[37]
Nirvana trở nên khó chịu với thành công của bài hát và thường loại "Teen Spirit" khỏi danh sách tiết mục trong các buổi hòa nhạc sau đó.[38] Trước khi trình làng album kế tiếp In Utero vào năm 1993, Novoselic chia sẻ: "Nếu không có 'Teen Spirit', tôi chẳng biết Nevermind sẽ ra sao... Không có 'Teen Spirits' trong In Utero đâu."[39] Cobain phát biểu vào năm 1994: "Tôi vẫn thích biểu diễn 'Teen Spirit', nhưng thật sự rất là ngại khi làm vậy... Mọi người chú ý tới bài hát ấy quá nhiều."[5]
Dấu ấn[sửa | sửa mã nguồn]
Không chỉ được mệnh danh là một "thánh ca của những đứa trẻ lãnh đạm" thuộc Thế hệ X,[40][41] nhiều năm sau vụ tự sát của Cobain vào năm 1994 sự việc tan rã của Nirvana, "Smells Like Teen Spirit" tiếp tục nhận được lời khen từ giới phê bình và thường được xếp vào hãng ngũ những bài hát vĩ đại nhất mọi thời đại. Ca khúc đã được ghi tên vào danh sách "những bài hát định hình rock and roll" của Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll vào năm 1997.[42] Năm 2000, VH1 xếp ca khúc ở vị trí 41 trong danh sách "100 bài hát rock vĩ đại nhất",[43] còn MTV và Rolling Stone xếp bản nhạc đứng thứ bai trong các danh sách "100 bài hát pop vĩ đại nhất" của mỗi ấn phấm.[44] Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ thì liệt "Smells Like Teen Spirit" ở vị trí thứ 80 trong danh sách "Những bài hát của thế kỷ".[45] Năm 2002, NME trao cho bài hát hạng 2 trong danh sách "100 đĩa đơn vĩ đại nhất mọi thời đại",[46] còn Kerrang! liệt "Teen Spirit" ở hạng nhất trong danh sách "100 đĩa đơn vĩ đại nhất mọi thời đại" của riêng tạp chí.[47] VH1 chọn "Smells Like Teen Spirit" đứng số một trong danh sách "100 bài hát vĩ đại nhất trong 25 năm qua" vào năm 2003,[48] cùng năm ấy, ca khúc đứng thứ ba trong cuộc bầu chọn "1001 bài hát hay nhất từ trước đến nay" của tạp chí Q.[49] Năm 2021, Rolling Stone liệt "Smells Like Teen Spirit" ở hạng 5 trong danh sách "00 bài hát vĩ đại nhất mọi thời đại".[50] Nhạc phẩm đứng thứ 6 trong cuộc bầu chọn "Bài hát hay nhất toàn cầu từ trước đến nay" của NME vào năm 2005.[51]
Trong cuộc bầu chọn Ca từ yêu thích quốc dân của đài VH1 Anh, câu hát "I feel stupid and contagious / Here we are now, entertain us" được bầu chọn cao thứ ba bởi 13.000 lá phiếu.[52] VH1 chọn "Smells Like Teen Spirit" đứng số một trong danh sách "100 bài hát vĩ đại nhất của thập niên 90" vào năm 2007,[53] trong khi Rolling Stone điền tên ca khúc ở hạng 10 trong danh sách "100 bài hát soạn cho guitar vĩ đại nhất mọi thời đại".[54] Năm 2009, bài hát lại được bầu chọn ở hạng nhất lần thứ 3 liên tiếp trong danh sách Triple J Hottest 100 of All Time tại Úc[55] [trước đó từng xếp thứ nhất vào các năm 1991[56] và 1998].[57] Cũng năm ấy, VH1 chọn ca khúc đứng thứ 7 trong danh sách "100 bài hát hát hard rock vĩ đại nhất".[58] Despite previously proposing in its 2006 entry for Nevermind on "The All-TIME 100 Albums" that "'Smells Like Teen Spirit' ... may be the album's worst song,"[59] Time magazine later included it on its list of "The All-TIME 100 Songs" in 2011.[60] That same year, "Smells Like Teen Spirit" kept its number nine ranking on Rolling Stone's updated list of "The 500 Greatest Songs of All Time",[61] while in 2019, the magazine ranked it at number one in its list of "50 Best Songs of the Nineties".[62] NME placed the song at number two on its list of the "100 Best Tracks Of The '90s" in 2012,[63] and at number one on its list of "The 500 Greatest Songs of All Time" in 2014.[64] In 2015, the song was also named the most iconic song of all time according to a study by Goldsmith's College, which analysed various songs featured in numerous 'all-time best' lists, using analytical software to compare their key, BPM, chord variety, lyrical content, timbral variety, and sonic variance – the result of which designated the title to this song.[65] In 2017, it was inducted into the Grammy Hall of Fame.[66]
"Smells Like Teen Spirit" was rereleased as a limited edition 7-inch vinyl single in December 2011. In an attempt to emulate a successful 2009 Facebook campaign to promote Rage Against the Machine's song "Killing in the Name", an online campaign was launched to promote "Smells Like Teen Spirit" to 2011 Christmas number one in the UK Singles Chart in protest at the dealings of The X Factor television series with the children's charity Rhythmix.[67] A similar campaign was also launched in Ireland to get the track to 2011 Christmas number one in the Irish Singles Chart.[68] The campaign resulted in the song reaching number 11 on the UK Singles Chart, selling 30,000 copies.[69] According to Nielsen Music's year-end report for 2019, "Smells Like Teen Spirit" was the most-played song of the decade on mainstream rock radio with 145,000 spins. All of the songs in the top 10 were from the 1990s.[70] In June 2021, "Smells Like Teen Spirit" became only the second song from the 1990s to reach 1 billion streams on the Spotify platform.[71][72]
Ca từ và diễn giải[sửa | sửa mã nguồn]
Lời của bài "Smells Like Teen Spirit" thường làm cho khán thính giả khó giải mã, nguyên do xuất phát từ cả nội dung vô nghĩa của chúng và bởi giọng hát lè nhè lấy từ âm vực nơi yết hầu của Cobain. Vấn đề này càng trở nên phức tạp bởi sự thực là các dòng ghi chú của Nevermind không ghi bất bất cừ lời nào từ bài hát ngoại từ các khúc lời chọn lọc. Chính sự khó hiểu này đã góp phần gây nên bất đồng từ các nhà đài phát thanh lúc ban đầu khi lựa chọn đưa ca khúc vào danh sách phát nhạc của họ; một nhân viên chiêu thị của hãng đĩa Geffen từng kể rằng những người đến từ đài phát thanh đã bảo cô: "Chúng tôi không thể phát bài này! Tôi chẳng hiểu anh ta đang nói gì cả."[73] Đài MTV thì chấp nhận rủi ro và đi chuẩn bị một phiên bản MV ghi lời của ca khúc chạy qua ở dưới đáy màn hình rồi cho lên sóng MV sau khi đưa nó vào lịch chiếu dày đặc của kênh.[26] Ca từ trích từ album — và một số câu hát từ những phiên bản cũ hoặc thay thế của các bài hát — đều được phát hành sau với những dòng ghi chú cho đĩa đơn "Lithium" năm 1992. Phê bình gia nhạc rock người Mỹ Dave Marsh đã chú ý đến bình luận của các DJ cho rằng ca khúc là "'Louie Louie' của thập niên 1990", với lời bình: "Giống 'Louie' [nhưng] còn hơn thế, 'Teen Spirit' miễn cưỡng tiết lộ bí mật của [bài hát] để rồi thường bị thiếu mạch lạc."[74] Với mục tiêu cố giải mã lời của bài hát, Marsh thấy rằng sau khi đọc chính lời của bài hát từ bản phổ nhạc thì "những gì tôi tưởng tượng tốt hơn một chút [ít nhất là hài lòng hơn] so với những gì Nirvana thực sự đã hát." Ông nói thêm: "Điều tệ hơn tất thảy là tôi không chắc mình nắm rõ nhiều hơn về [ý nghĩa] của 'Smells Like Teen Spirit' bây giờ so với trước khi tôi ngồi xuống để nghe phiên bản chính thức của sự thực."[75]
Video âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]
Cây đàn guitar Fender Mustang mà Kurt Cobain chơi trong MV của bài "Smells Like Teen Spirit".
Video âm nhạc [MV] của "Smells Like Teen Spirit" là tác phẩm đầu tiên của đạo diễn Samuel Bayer. Bayer tin rằng ông được thuê chỉ đạo MV vì cuộn phim thử nghiệm của ông quá tệ, và ban nhạc đoán rằng sản phẩm của ông sẽ có chất "punk" và "không tiếp thị".[19] MV được xây dựng dựa trên khái niệm về một buổi hòa nhạc học đường kết thúc trong tình trạng hỗn loạn và náo động, lấy cảm hứng từ phim Over the Edge [1979] của Jonathan Kaplan và bộ phim Rock 'n' Roll High School của Ramones.[76] Kinh phí làm MV ước tính rơi vào khoảng 30.000 USD–50.000 USD.[77]
Giống như bản thân ca khúc, MV của "Smells Like Teen Spirit" đã nhận được những đánh giá tích cực. Cây bút David Fricke của Rolling Stone miêu tả MV là "buổi diễn tuyệt vời nhất bạn có thể tưởng tượng ra."[19] Ngoài vị trí quán quân ở các hạng mục dành cho đĩa đơn, "Teen Spirit" còn chiếm ngôi đầu hạng mục MV trong cuộc bầu chọn "Pazz & Jop" [1991] của Village Voice.[78] MV giúp cho Nirvana giành chiến thắng các giải Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất và Nhóm nhạc alternative xuất sắc nhất tại lễ trao giải Video âm nhạc của MTV 1992;[79] năm 2000 Sách Kỷ lục Guinness vinh danh "Teen Spirit" là bài hát có MV được phát nhiều nhất trên sóng MTV châu Âu.[80] Nhiều năm sau, Amy Finnerty – cựu nhân viên thuộc bộ phận chương trình của MTV cho rằng MV "đã thay đổi toàn bộ diện mạo của MTV" bằng cách đem lại cho họ "một thế hệ hoàn toàn mới".[19] Rolling Stone liệt MV của "Smells Like Teen Spirit" ở hạng 2 trong danh sách "Top 100 video âm nhạc" của họ trong năm 1993.[81] MTV thì xếp MV của ca khúc ở hạng hạng 3 trong danh sách "100 video âm nhạc xuất sắc nhất từng được làm ra" vào năm 1999.[82]
Trình diễn trực tiếp[sửa | sửa mã nguồn]
"Smells Like Teen Spirit" được biểu diễn trước công chúng lần đầu vào ngày 17 tháng 4 năm 1991 tại OK Hotel ở Seattle. Nhiều phần của buổi diễn này có thể được xem lại trong album Nevermind Classic Albums DVD, With the Lights Out và phim tài liệu Hype! Lời bài hát chưa được viết trọn vẹn cho nên có một chút khác biệt với phiên bản cuối cùng. Ví dụ, trong buổi trình diễn đầu tiên thì bài hát được bắt đầu với câu "Come out and play, make up the rules" còn trong buổi diễn cuối cùng là câu "Load up on guns, bring your friends".
Một buổi diễn đáng nhớ khác được phát trên chương trình Top of the Pops của đài BBC, trong chương trình này, người thủ lĩnh Kurt Cobain đã hát một cách chậm, khoan thai, âm điệu buồn thảm, một sự phản đối những đòi hỏi của buổi diễn rằng ban nhạc không được chơi nhạc sống và yêu cầu phải thay đổi hai dòng đầu tiên trong bài hát thành "Load up on drugs, kill your friends" [lời cũ là "Load up on guns, bring your friends"]. Sau đó anh đã nói rằng đó là một sự kính trọng tới Morrissey, người thủ lĩnh của ban nhạc The Smiths. Buổi diễn này có thể được xem lại trong cuốn băng video gia đình Live! Tonight! Sold Out!!.
Các bản hát lại và giễu nhại[sửa | sửa mã nguồn]
Bài hát đã được nhiều nghệ sĩ hát lại như Tori Amos trong đĩa Crucify EP, ban nhạc jazz The Bad Plus và ban nhạc nghệ thuật công nghiệp Xorcist. Vào năm 2005, bài hát đã được hát lại theo kiểu nhạc nhạc swing do ngôi sao nhạc thập kỷ 50 Paul Anka biểu diễn. Một phiên bản chơi bằng nhạc cụ đã được sản xuất bởi Cúp Vô địch thế giới về Đấu vật như là một bản nhạc khởi động cho đô vật Diamond Dallas Page. Bài hát cũng đã có trong cabaret ở bộ phim làm năm 2001 Moulin Rouge!.
Vào năm 1992, bài hát đã bị nhại lại và được viết bởi "Weird Al" Yankovic với cái tên "Smells Like Nirvana", một bài hát về chính ban nhạc Nirvana. Bản nhạc này của Weird Aldy viết về những khó khăn để có thể hiểu được lời của Cobain. Theo cả Cobain và Yankovic, khi được hỏi là anh có hài lòng với việc này của Yankovic với bài hát không, Cobain đã hỏi lại, "điều đó không phải là làm về các món ăn có phải không?" [câu hỏi này liên quan tới một vài bản nhạc chế nhạo trước đây của Yankovic mà phần lớn có từ "Eat It" [nghĩa là "hãy ăn đi"]]. Cobain đã thừa nhận trong một vài cuộc phỏng vấn là rất thích sự nhại lại này. Trong một quyển sổ nhật ký đã được xuất bản sau đó ở Journals, Cobain đã mô tả "Weird Al" như là một thứ gần nhất với nhạc punk rock. Thành viên Krist Novoselic sau đó đã nói ban nhạc nhận ra rằng họ đã trở thành những ngôi sao nhạc rock khi Weird Al chế nhạo lại họ.
Cũng như sự nhại lại của Weird Al đã được nhấn mạnh, lời bài hát mà Cobain hát thường làm người nghe khó giải nghĩa được, là do sự vô lý của nội dung bài hát và giọng hát luyến chữ và trong yết hầu của Cobain. Điều này được kết hợp bởi thực tế rằng trong album Nevermind không có lời của bài hát, bài hát chỉ là những đoạn lời dược ghép lại. Các lời bài hát của album [một vài có từ trước đây hoặc trong các phiên bản của bài hát] cuối cùng cũng đã có trong đĩa đơn Lithium.
Một sự nhầm lẫn đã bị bắt gặp khi MTV đã chuẩn bị một phiên bản của video bao gồm cả lời bài hát chạy ở phía dưới màn hình trong lúc bài hát được phát trên sóng truyền hình. Một vài phiên bản cover đã làm cho lời bài hát thực rõ ràng hơn, như là trong Tori Amost, piano-driven cover. Nirvana hay đổi lời bài hát và điều chỉnh tốc độ chơi nhạc khi biểu diễn trực tiếp. Phần lớn trong các buổi diễn này, câu "our little group has always been" đã bị đổi thành "our little tribe has always been", và có thể nghe thấy trong album From the Muddy Banks of the Wishkah.
Danh sách và định dạng bài hát[sửa | sửa mã nguồn]
UK 7" single [DGC 5]
UK 12" single [DGCT 5]
UK CD single [DGCTD 5]
UK picture disc 12" single [DGCTP 5]
| US 7" single [DGCS7-19050]
US CD single [DGCDS-21673]
US cassette single [DGCCS-19050]
|
Đội ngũ thực hiện[sửa | sửa mã nguồn]
Nirvana
- Kurt Cobain – guitar, hát
- Dave Grohl – trống
- Krist Novoselic – bass guitar
Kĩ thuật viên
- Butch Vig – thu âm và thiết kế hòa âm, nhà sản xuất
- Andy Wallace – hòa âm
Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]
Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Danaher, Michael [4 tháng 8 năm 2014]. “The 50 Best Grunge Songs” [50 bài hát thể loại grunge hay nhất]. Paste.
- ^ “Ranking Every Alternative Rock No. 1 Hit from Worst to Best” [Xếp hạng mọi bài hit quán quân alternative rock từ tệ nhất tới hay nhất]. Consequence of Sound. Truy cập 9 tháng 10 năm 2019.
- ^ “VH1's 100 Greatest Hard Rock Songs” [100 bài hát thể loại hard rock xuất sắc nhất của VH1]. Stereogum. Truy cập 15 tháng 10 năm 2019.
- ^ Erlewine, Stephen Thomas. “Nirvana – Biography” [Nirvana - Tiểu sử]. AllMusic.com. Truy cập 31 tháng 5 năm 2019.
- ^ a b c d Fricke, David [27 tháng 1 năm 1994]. “Kurt Cobain, The Rolling Stone Interview: Success Doesn't Suck”. Rolling Stone.
- ^ Karavoulias, Terry. “The Story Behind Smells Like Teen Spirit” [Câu chuyện đằng sau "Smells Like Teen Spirit"]. UpVenue. Truy cập 20 tháng 1 năm 2016.
- ^ “Kathleen Hanna on how she named 'Smells Like Teen Spirit'” [Kathleen Hanna nói về việc cô đặt tên cho "Smells Like Teen Spirit" ra sao]. ABC.net. 23 tháng 9 năm 2016.
- ^ Azerrad, tr. 211–12.
- ^ Azerrad, tr. 176.
- ^ Cross, Charles. "Requiem for a Dream". Guitar World. tháng 10 năm 2001.
- ^ Berkenstadt; Cross, tr. 66.
- ^ Azerrad, tr. 167.
- ^ Cross, Charles. "The Stories Behind the Songs". Rolling Stone. 14 tháng 11 năm 2002.
- ^ di Perna, Alan. "The Making of Nevermind". Guitar World. Mùa thu năm 1996.
- ^ Berkenstadt; Cross, tr. 67.
- ^ a b Rooksby, tr. 133.
- ^ a b Chappell, Jon. "Nirvana's Music". [Nhạc của Nirvana] Guitar. tháng 6 năm 1993.
- ^ a b c d e Classic Albums—Nirvana: Nevermind [DVD]. Isis Productions, 2004.
- ^ Lapriore, Elaine [2 tháng 9 năm 2001]. “'Teen Spirit' at 10: An Unshakable Scent” ['Teen Spirit' tròn 10 tuổi: Mùi hương chẳng thể đổi thay]. The Washington Post. Truy cập 19 tháng 11 năm 2018.
- ^ di Perna, Alan. "Brave Noise—The History of Alternative Rock Guitar". ["Tiếng ồn dũng cảm: Lịch sử của guitar nhạc alternative rock"] Guitar World, tháng 12 năm 1995.
- ^ Rooksby, tr. 134.
- ^ Starr; Waterman, pp. 434–5.
- ^ Berkenstadt; Cross, tr. 111.
- ^ Azerrad, tr. 227.
- ^ a b Azerrad, tr. 199.
- ^ Berkenstadt; Cross, tr. 124–25.
- ^ "Nirvana Achieves Chart Perfection!" [Nirvana đạt thành tích xếp hạng hoàn hảo] Billboard. 25 tháng 1 năm 1992.
- ^ Basham, David [20 tháng 12 năm 2001]. “Got Charts? No Doubt's Christmas Gift; Nirvana Ain't No Beatles” [Có bảng xếp hạng chăng? Quà Giáng sinh của No Doubt; Nirvana chẳng phải Beatles]. MTV. Truy cập 19 tháng 10 năm 2016.
- ^ Ross, Sean. "Nirvana Receiving Less-Than-Spirited Airplay". [Nirvana nhận được tần suất phát thanh ít hơn 'Spirrit'] Billboard. 1 tháng 2 năm 1992.
- ^ Nirvana and The Story of Grunge. Q. tr. 54. tháng 12 năm 2005.
- ^ "The 35th Grammy Awards Nominations General Categories" [Các đề cử hạng mục chung của giải Grammy lần thứ 35]. The Los Angeles Times. 8 tháng 11 năm 1993.
- ^ Endelman, Michael [2007]. “Grammy's 10 Biggest Upsets” [10 điều thất vọng nhất của Grammy]. EW.com. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2014. Truy cập 11 tháng 2 năm 2008.
- ^ a b “Billboard Top 100 – 1992”. longboredsurfer.com. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.
- ^ Azerrad, Michael. "Inside the Heart and Mind of Nirvana" [Bên trong trái tim và trí óc của Nirvana]. Rolling Stone. 16 tháng 4 năm 1992.
- ^ Garofalo, Reebee. Rockin' Out: Popular Music in the USA. Allyn & Bacon, 1997. ISBN 0-205-13703-2, tr. 447.
- ^ Reynolds, Simon. [24 tháng 11 năm 1991]. “Boredom + Claustrophobia + Sex = Punk Nirvana” [Chán nản+Sợ cuồng nhiệt+Tình dục = Nhạc punk của Nirvana]. The New York Times. Truy cập 8 tháng 4 năm 2007.
- ^ Crisafulli, tr. 38.
- ^ DeRogatis, Jim. Milk It!: Collected Musings on the Alternative Music Explosion of the 90's. Cambridge: Da Capo, 2003. ISBN 0-306-81271-1, tr. 14.
- ^ “Winners of 1991”. Time. ngày 6 tháng 1 năm 1992. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2007.
- ^ Sold On Song Top 100. “Smells Like Teen Spirit”. BBC. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2006.
- ^ “The Songs That Shaped Rock and Roll”. Rock and Roll Hall of Fame. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2013.
- ^ “VH1: '100 Greatest Rock Songs': 1-50” [VH1: '100 bài hát rock vĩ đại nhất': 1-50]. Rock On The Net. 2000. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2013.
- ^ Angulo, Sandra P. [ngày 17 tháng 11 năm 2000]. “News Summary: Lord Jim” [Tin vắn: Chúa tể Jim]. EW.com. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2007.
- ^ Allen, Jamie [ngày 7 tháng 3 năm 2001]. “New song list puts 'Rainbow' way up high” [Danh sách ca khúc mới đưa 'Rainbow' lên thứ hạng cao]. CNN. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2007.
- ^ “NME's 100 Greatest Singles of All Time Unveiled” [100 đĩa đơn vĩ đại nhất mọi thời đại của NME được tiết lộ]. NME. UK. ngày 24 tháng 4 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2006. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2007.
- ^ “100 Greatest Singles of All Time” [100 đĩa đơn vĩ đại nhất mọi thời đại]. Kerrang!. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2013.
- ^ “VH1's 100 Greatest Songs” [100 bài hát vĩ đại nhất của VH1]. CBSNews.com. ngày 10 tháng 6 năm 2003. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2006.
- ^ “U2's One named 'greatest record'” ['One' của U2 được vinh dang là 'bản nhạc vĩ đại nhất']. BBC. ngày 18 tháng 11 năm 2003. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2006.
- ^ “Rolling Stone: 500 Greatest Songs of All Time: 1-50” [Rolling Stone: 500 bài hát vĩ đại nhất mọi thời đại: 1-50]. Rolling Stone. ngày 15 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2021.
- ^ “Queen win 'best song ever' poll” [Queen chiến thắng cuộc bầu chọn 'ca khúc hay nhất từ trước đến nay']. NME. UK. ngày 29 tháng 9 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2013.
- ^ “U2 cop nation's favourite lyric”. itv.com. ngày 17 tháng 4 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 10 năm 2006.
- ^ “VH1′s 100 Greatest Songs Of The '90s: Not Enough Pavement”. Stereogum. ngày 12 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.
- ^ “The 100 Greatest Guitar Songs of All Time”. Rolling Stone. 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Triple J Hottest 100 of All Time,2009”. Triple J. 2009. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2011.
- ^ “Triple J Hottest 100 of All Time, 1991”. Triple J. 2009. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Triple J Hottest 100 of All Time, 1998”. Triple J. 2009. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2013.
- ^ “VH1′s 100 Greatest Hard Rock Songs”. Stereogum. ngày 5 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.
- ^ Tyrangiel, Josh [ngày 13 tháng 11 năm 2006]. “All-TIME 100 Albums: Nevermind”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2007.
- ^ Suddath, Claire [ngày 21 tháng 10 năm 2011]. “All-TIME 100 Songs: 'Smells Like Teen Spirit'”. Time. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2013.
- ^ “500 Greatest Songs of All Time: Nirvana, 'Smells Like Teen Spirit'”. Rolling Stone. 2011. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2013.
- ^ “50 Best Songs of the Nineties”. Rolling Stone. ngày 28 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2020.
- ^ “NME's 100 Best Tracks Of The '90s”. Stereogum. ngày 16 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2013.
- ^ “Pictures of The 500 Greatest Songs Of All Time: 100-1 - Photos”. NME. ngày 31 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2014.
- ^ Loudermilk, Lauren. “'Smells Like Teen Spirit' Named the Most Iconic Song Ever by Science”. Paste. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2015.
- ^ “Nirvana”. GRAMMY.com [bằng tiếng Anh]. ngày 19 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2020.
- ^ Michaels, Sean [ngày 7 tháng 12 năm 2011]. “Nirvana's Smells Like Teen Spirit to be re-released for Christmas”. The Guardian. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2011.
- ^ Murphy, Lauren [ngày 9 tháng 12 năm 2011]. “Push is on for Christmas No 1”. The Irish Times. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2011.
- ^ Sexton, Paul [ngày 27 tháng 12 năm 2011]. “Michael Buble, Military Wives Top U.K. Charts”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2012.
- ^ Trapp, Philip [ngày 14 tháng 1 năm 2020]. “Nirvana Were the Most-Played Band of the Decade on Rock Radio”. Loudwire. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2020.
- ^ Schaffner, Lauryn [ngày 28 tháng 6 năm 2021]. “Nirvana's Smells Like Teen Spirit Has Hit 1 Billion Streams On Spotify”. Loudwire. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
- ^ Rolli, Bryan [ngày 29 tháng 6 năm 2021]. “Nirvana's 'Smells Like Teen Spirit' Surpasses 1 Billion Spotify Streams”. Forbes. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2021.
- ^ Cross, tr. 204–05.
- ^ Marsh, tr. 204.
- ^ Marsh, tr. 206.
- ^ "The Making of the 'Smells Like Teen Spirit' Video". Classic Albums—Nirvana: Nevermind [DVD]. Isis Productions, 2004.
- ^ Ganz, Caryn [10 tháng 9 năm 2010]. “"Smells Like Teen Spirit" Smells Like It's 19 Today”. Yahoo.com. Bản gốc lưu trữ 17 tháng 9 năm 2010. Truy cập 11 tháng 1 năm 2011.
- ^ Christgau, Robert [3 tháng 3 năm 1992]. “The 1991 Pazz & Jop Critics Poll”. RobertChristgau.com. Bản gốc lưu trữ 7 tháng 5 năm 2006. Truy cập 19 tháng 5 năm 2017.
- ^ “Past Winners Database”. Los Angeles Times. 2006. Bản gốc lưu trữ 31 tháng 10 năm 2006. Truy cập 29 tháng 10 năm 2016.
- ^ “ABC News: Achieving Nirvana: Grunge Band's 'Teen Spirit' is Top Song of Past Two Decades”. ABC News. 27 tháng 11 năm 2006. Truy cập 1 tháng 12 năm 2016.
- ^ “Rolling Stone: "The 100 Top Music Videos"”. Rock On The Net. tháng 10 năm 1993. Truy cập 7 tháng 10 năm 2019.
- ^ “MTV: '100 Greatest Music Videos Ever Made'”. Rock On The Net. 1999. Truy cập 7 tháng 10 năm 2019.
- ^ "Australian-charts.com – Nirvana – Smells Like Teen Spirit". ARIA Top 50 Singles.
- ^ "Austriancharts.at – Nirvana – Smells Like Teen Spirit" [bằng tiếng Đức]. Ö3 Austria Top 40.
- ^ 1 tháng 2 năm 1992-OCR-Page-0034.pdf#search=%22nirvana%20smells%20like%20teen%20spirit%22 “Top Ten Sales in Europe” [PDF]. Music & Media: 18. ngày 1 tháng 2 năm 1992. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.[liên kết hỏng]
- ^ "Ultratop.be – Nirvana – Smells Like Teen Spirit" [bằng tiếng Hà Lan]. Ultratop 50.
- ^ "Top RPM Singles: Tài liệu số 2060." RPM. Library and Archives Canada. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2016.
- ^ “ANR-Hitlisten, artistside, Nirvana”. anrhitlisten.dk. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2019. Chart was then based on physical sales
- ^ 7 tháng 3 năm 1992-OCR-Page-0037.pdf#search=%22eurochart%20nirvana%20spirit%22 “Hits of the World” [PDF]. Billboard: 39. ngày 7 tháng 3 năm 1992. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2018.
- ^ 22 tháng 2 năm 1992-OCR-Page-0019.pdf#search=%22nirvana%20smells%20like%20teen%20spirit%20hot%20100%22 “Eurochart Hot 100 Singles” [PDF]. Music & Media: 19. ngày 22 tháng 2 năm 1992. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2018.[liên kết hỏng]
- ^ 29 tháng 2 năm 1992-OCR-Page-0043.pdf#search=%22nirvana%20smells%20like%20teen%20spirit%20ehr%20top%2040%22 “M & M Charts Airplay EHR Top 40” [PDF]. Music & Media: 39. ngày 29 tháng 2 năm 1992. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2019.[liên kết hỏng]
- ^ 21 tháng 3 năm 1992-OCR-Page-0026.pdf#search=%22nirvana%20smells%20like%20teen%20spirit%20top%2010%22 “Top Ten Sales in Europe” [PDF]. Music & Media: 26. ngày 21 tháng 3 năm 1992. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019.[liên kết hỏng]
- ^ 14 tháng 3 năm 1992-OCR-Page-0022.pdf#search=%22nirvana%20smells%20like%20teen%20spirit%20top%2010%22 “Top Ten Sales in Europe” [PDF]. Music & Media: 22. ngày 14 tháng 3 năm 1992. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019.[liên kết hỏng]
- ^ Pennanen, Timo [2006]. Sisältää hitin: levyt ja esittäjät Suomen musiikkilistoilla vuodesta 1972. Otava Publishing Company Ltd. ISBN 951-1-21053-X.
- ^ "Lescharts.com – Nirvana – Smells Like Teen Spirit" [bằng tiếng Pháp]. Les classement single.
- ^ "Offiziellecharts.de – Nirvana – Smells Like Teen Spirit". GfK Entertainment Charts. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2019.
- ^ "The Irish Charts – Search Results – Smells Like Teen Spirit". Irish Singles Chart.
- ^ 21 tháng 8 năm 1992-OCR-Page-0051.pdf#search=%22eurochart%20nirvana%20spirit%22 “Hits of the World” [PDF]. Billboard: 59. ngày 21 tháng 3 năm 1992. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2018.[liên kết hỏng]
- ^ "Nederlandse Top 40 – Nirvana" [bằng tiếng Hà Lan]. Dutch Top 40.
- ^ "Dutchcharts.nl – Nirvana – Smells Like Teen Spirit" [bằng tiếng Hà Lan]. Single Top 100. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2015.
- ^ "Charts.nz – Nirvana – Smells Like Teen Spirit". Top 40 Singles.
- ^ "Norwegiancharts.com – Nirvana – Smells Like Teen Spirit". VG-lista.
- ^ “Archiwum Listy Przebojow - Trojki - Nrivana”. www.lp3.pl. Polskie Radio. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2018.
- ^ 26 tháng 9 năm 1992-OCR-Page-0018.pdf#search=%22nirvana%20smells%20like%20teen%20spirit%20top%2010%20sales%22 “Top 10 Sales in Europe” [PDF]. Music & Media: 18. ngày 27 tháng 9 năm 1992. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.[liên kết hỏng]
- ^ 21 tháng 8 năm 1992-OCR-Page-0051.pdf#search=%22eurochart%20nirvana%20spirit%22 “Hits of the World - Spain” [PDF]. Billboard: 61. ngày 21 tháng 3 năm 1992. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
- ^ "Swedishcharts.com – Nirvana – Smells Like Teen Spirit". Singles Top 100.
- ^ "Swisscharts.com – Nirvana – Smells Like Teen Spirit". Swiss Singles Chart.
- ^ 14 tháng 12 năm 1991-OCR-Page-0033.pdf#search=%22nirvana%20mrib%22 “Top 10 Sales in Europe” [PDF]. Music & Media: 33. ngày 14 tháng 12 năm 1991. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
- ^ 21 tháng 12 năm 1991-OCR-Page-0039.pdf#search=%22nirvana%20mrib%22 “Top 10 Sales in Europe” [PDF]. Music & Media: 39. ngày 21 tháng 12 năm 1991. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2020.
- ^ "Nirvana: Artist Chart History". Official Charts Company.
- ^ "Nirvana Chart History [Hot 100]". Billboard.
- ^ "Nirvana Chart History [Mainstream Rock]". Billboard.
- ^ "Nirvana Chart History [Alternative Songs]". Billboard.
- ^ "Nirvana Chart History [Dance Club Songs]". Billboard.
- ^ "Nirvana Chart History [Hot Dance/Electronic Songs]". Billboard.
- ^ 15 tháng 2 năm 1992-OCR-Page-0004.pdf#search=%22pop%20singles%20nirvana%22 “Cash Box Charts - Top 100 Pop Singles” [PDF]. Cashbox: 4. ngày 15 tháng 2 năm 1992. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2019.
- ^ 11 tháng 12 năm 1992-OCR-Page-0046.pdf#search=%22nirvana%20teen%20spirit%22 “CHR - Songs Reaching Top 15 in 1992” [PDF]. Radio & Records. Radio & Records: 46. ngày 11 tháng 12 năm 1992. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2019.
- ^ 10 tháng 1 năm 1992-OCR-Page-0066.pdf#search=%22nirvana%20teen%20spirit%22 “AOR Tracks” [PDF]. Radio & Records. Radio & Records: 64. ngày 10 tháng 1 năm 1992. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2019.
- ^ 11 tháng 12 năm 1992-OCR-Page-0050.pdf#search=%22nirvana%20come%20as%20you%20are%22 “AOR Tracks - Songs Reaching Top 15 in 1992” [PDF]. Radio & Records. Radio & Records: 50. ngày 11 tháng 12 năm 1992. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2019.
- ^ 20 tháng 1 năm 1996-OCR-Page-0015.pdf#search=%22denmark%20nirvana%20single%20boxset%20january%201996%22 “Top National Sellers” [PDF]. Music & Media: 15. ngày 20 tháng 1 năm 1996. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2019.[liên kết hỏng]
- ^ “ARIA Charts – End of Year Charts – Top 50 Singles 1992”. The Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Jaaroverzichten 1992” [bằng tiếng Hà Lan]. Ultratop 50. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.
- ^ “The RPM Top 100 Hit Tracks of 1992” [PDF]. RPM. 56 [25]: 8. ngày 19 tháng 12 năm 1992. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019.
- ^ 19 tháng 12 năm 1992.pdf “1992 Year-End Sales Charts – Eurochart Hot 100 Singles 1992” [PDF]. Music & Media: 17. ngày 19 tháng 12 năm 1992. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2018.
- ^ “Top 100 Single–Jahrescharts 1992” [bằng tiếng Đức]. Media Control Charts. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Top 100–Jaaroverzicht van 1992”. Dutch Top 40. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Jaaroverzichten – Single 1992”. Single Top 100. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2015.
- ^ “Top Selling Singles of 1992”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2015.
- ^ 11 tháng 12 năm 1992-OCR-Page-0049.pdf#search=%22nirvana%20come%20as%20you%20are%22 “AOR Tracks – The Top 92 of 1992” [PDF]. Radio & Records. Radio & Records: 49. ngày 11 tháng 12 năm 1992. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2019.
- ^ “UK Charts Plus – End of Year Charts: 2011” [PDF]. ukchartsplus.co.uk. UKChartsPlus. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2018.
- ^ “Top AFP – Audiogest – Top 3000 Singles + EPs Digitais” [PDF] [bằng tiếng Bồ Đào Nha]. Associação Fonográfica Portuguesa. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2020.
- ^ “1992 ARIA Singles Chart”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2016.
- ^ “Gold-/Platin-Datenbank [Nirvana; 'Smells Like Teen Spirit']” [bằng tiếng Đức]. Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2018.
- ^ “Macao single certifications – Norvana – Smells Like Teen Spirit” [bằng tiếng Trung]. International Federation of the Phonographic Industry of Macao. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2019.
- ^ “New Zealand single certifications”. Recorded Music NZ.
- ^ “Swedish single certifications – Nirvana – Smells Like Teen Spirit” [bằng tiếng Thụy Điển]. Swedish Recording Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2015.
- ^ “Britain single certifications – Nirvana – Smells Like Teen Spirit” [bằng tiếng Anh]. British Phonographic Industry.
- ^ a b “American single certifications – Nirvana – Smells Like Teen Spirit” [bằng tiếng Anh]. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ. Nếu cần, nhấn Advanced Search, dưới mục Format chọn Single rồi nhấn Search
- ^ Nirvana Smells Like teen Spirit - Denmark IFPI Certification - Track
- ^ “Italy single certifications – Nirvana – Smells Like Teen Spirit” [bằng tiếng Ý]. Liên đoàn Công nghiệp âm nhạc Ý. Chọn lệnh "Tutti gli anni" trong bảng chọn "Anno". Nhập "Smells Like Teen Spirit" vào ô "Filtra". Chọn "Singoli online" dưới phần "Sezione".
- ^ “Nielsen SoundScan charts – Digital Songs – Week Ending: 09/28/2017” [PDF]. Nielsen SoundScan. Bản gốc [PDF] lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2017.
- ^ Nirvana Smells Like teen Spirit - Denmark IFPI Certification - Streaming.
Tài liệu đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Azerrad, Michael. Come as You Are: The Story of Nirvana. Doubleday, 1994. ISBN 0-385-47199-8
- Classic Albums—Nirvana: Nevermind [DVD]. Isis Productions, 2004.
- Berkenstadt, Jim; Cross, Charles. Classic Rock Albums: Nevermind. Schirmer, 1998. ISBN 0-02-864775-0
- Crisafulli, Chuck. Teen Spirit: The Stories Behind Every Nirvana Song. Carlton, 1996. ISBN 0-684-83356-5
- Cross, Charles R. Heavier Than Heaven. Hyperion, 2001. ISBN 0-7868-6505-9
- Marsh, Dave. Louie Louie. Hyperion, 1993. ISBN 1-56282-865-7
- Rooksby, Rikki. Inside Classic Rock Tracks. Backbeat, 2001. ISBN 0-87930-654-8
- Starr, Larry; Waterman, Christopher. American Popular Music: From Minstrelsy to MTV. New York: Oxford University Press, 2003. ISBN 0-19-510854-X
- Bradley, Adam [2017]. “Figurative Language”. The Poetry of Pop. Yale University Press. tr. 153-154. ISBN 978-0300165029. Phân tích cách dùng ngôn từ tượng trưng trong bài hát.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Video âm nhạc của "Smells Like Teen Spirit" trên Youtube
- Kurt Cobain: Cuộc phỏng vấn của Tạp chí Rolling Stone Lưu trữ 2006-02-11 tại Wayback Machine
- Nirvana Forums Lưu trữ 2009-01-22 tại Wayback Machine — A popular Nirvana discussion community.
- Smells Like Teen Spirit ở MusicBrainz
- Smells Like Teen Spirit lyrics
Không. Nghệ sĩ tiêu đề [s] 1 "[mọi thứ tôi làm] Tôi làm điều đó cho bạn" Bryan Adams 2 "I Wanna Sex You Up" Color Me Badd 3 "Gonna Make You Sweat [Mọi người nhảy ngay bây giờ]" C+C Music Factory 4 "Rush Rush" Paula Abdul 5 "Một lần nữa hãy thử" Timmy T 6 "không thể tin được" Emf 7 "nhiều hơn từ" Extreme 8 "Tôi thích cách [Trò chơi hôn]" Hi-Five 9 "Lần đầu tiên" Surface 10 "Baby Baby" Amy Grant 11 "Motownphilly" Boyz II Men 12 "vì I Love You [Bài hát Postman]" Stevie B 13 "Someday" Mariah Carey 14 "đủ cao" Damn Yankees 15 "từ một khoảng cách" Bette Midler 16 " Tất cả người đàn ông mà tôi cần "Whitney Houston 17" ngay tại đây, ngay bây giờ "Jesus Jones 18" Tôi ngưỡng mộ Mi Amor "Color Me Badd 19" Tình yêu sẽ không bao giờ làm [không có bạn] "Janet Jackson 20" Rung động tốt "Marky Mark và The Funky Bunch có Loleatta Holloway 21 "Justify My Love" Madonna 22 "Emotions" Mariah Carey 23 "Joyride" Roxette 24 "lãng mạn" Karyn White 25 "giữ bạn chặt chẽ" Tara Kemp 26 "Tôi không muốn khóc" Mariah Carey 27 "Bạn đang yêu" Wilson Phillips 28 "Mỗi nhịp tim" Amy Grant 29 "Độ nhạy" Ralph Tresvant 30 "Touch Me [cả đêm]" Cathy Dennis 31 "Tôi đã nghĩ về bạn" Londonbeat 32 "làm bất cứ điều gì" chọn lọc tự nhiên 33 "mất tôn giáo của tôi" R.E.M. 34 "Ra khỏi bóng tối" Gloria Estefan 35 "Nó không vượt qua 'nó đã qua" Lenny Kravitz 36 "ở đây chúng tôi đi" C+C Music Factory 37 "nơi trái tim tôi đập bây giờ" Celine Dion 38 "Summertime" DJ Jazzy Jeff & The Fresh Prince 39 "Wind of Change" Scorpions 40 "P.A.S.SI.O.N." Rythm Syndicate 41 "Lời hứa của một ngày mới" Paula Abdul 42 "Tôi là em bé của bạn tối nay" Whitney Houston 43 "Tình yêu của một cuộc đời" Firehouse 44 "Fading Like a Flower [mỗi khi bạn rời đi]" Roxette 45 "Ngôi nhà này Tracie Spencer 46 "Hole Hearted" Extreme 47 "Power of Love/Love Power" Luther Vandross 48 "bốc đồng" Wilson Phillips 49 "Tình yêu là một điều tuyệt vời" Michael Bolton 50 "nhịp điệu của trái tim tôi" You Go Hmmm ... "C+C Music Factory 52" Tôi chạm vào mình "Divinyls 53" Tom's Diner "DNA có Suzanne Vega 54" Iesha "Một sáng tạo xấu khác Nelson 57 "Chơi âm nhạc vui nhộn" Vanilla Ice 58 "Temptation" Corina 59 "Không thể ngăn chặn điều này, chúng tôi đã bắt đầu" Bryan Adams 60 "Tôi không thể đợi một phút nữa" Hi-Five 61 "3 giờ sáng "Thời gian, tình yêu và sự dịu dàng" Michael Bolton 63 "Sadness [Phần I]" Enigma 64 "xung quanh Girl" LL Cool J 65 "Tôi sẽ ở đó" The Escape Club 66 "Cream" Prince và The New Power Thế hệ 67 "Bây giờ chúng tôi đã tìm thấy tình yêu" Heavy D & the Boyz 68 "Show Me the Way" Styx 69 "Love Make Time" Mariah Carey 70 "Cry for Help" Rick Astley 71 "Cách bạn làm những việc bạn làm" UB40 72 "Tôi ở đây [đến và lấy tôi]" UB40 73 "Dấu hiệu" Tesla 74 "Quá nhiều bức tường" Cathy Dennis 75 "Crazy" Seal 76 "Tôi sẽ dành tất cả tình yêu của tôi cho bạn" Keith Sweat 77 " Thế giới "Michael W. Smith 78" Something to tin vào "Poison 79" Wicky Game "Chris Isaak 80" Get Here "Oleta Adams 81" Round và Round "Tevin Campbell 82" Silent SChuity "Queensrÿche 83" Tôi không yêu "Will to Power 84" Piece of My Heart "Tara Kemp 85" Real Real Real "Jesus Jones 86" Mọi người đóng vai kẻ ngốc "Aaron Neville 87" Just Another Dream "Cathy Dennis 88" Strike It Up "Black Box 89" Rico Suave "Gerardo 90" biến mất "Inxs 91" Groove ở trong trái tim "Deee-Lite 92" Tất cả thời gian này "Sting 93" The One và Only "Chesney Hawkes 94" O.P.P. " Naughty by Nature 95 "Freedom! '90" George Michael 96 "Tôi đã thấy Red" Fircess 97 "Miles Away" Winger 98 "Do You Want Me" Salt-N-Pepa 99 "The Motown Song" Rod Stewart 100 "Shiny Happy People "R.E.M.
Biểu đồ của Hoa Kỳ và Vương quốc Anh | & nbsp; & amp; nbsp; & amp; nbsp; & amp; ]].đẩy[{}]; |
- Nghệ sĩ Top 50
- Singles / Song Top 100
- Bài hát ac top 100
- Bài hát đồng quê Top 100
- Bài hát khiêu vũ top 100
- Bài hát R & B Top 100
- Bài hát rock top 100
Danh sách phát video
U nói
peak
USACPEAK
AC
peak
USCountrypeak
country
peak
USDANCEPEAK
dance
peak
Usrockpeak
rock
peak
USalt.peak
alt.
peak
UKPeak
peak
1.
06/1991
330
✫1us
US
✫1ac
AC
10rock
rock
✫1UK
UK
2.
03/1991
300
✫1us
US
2AC
AC
12rock
rock
2UK
UK
3.
07/1991
294
✫1us
US
4dance
dance
28alt.
alt.
2UK
UK
4.
10/1991
270
✫1us
US
11AC
AC
19rock
rock
3UK
UK
5.
04/1991
248
4US
US
43AC
AC
2rock
rock
2UK
UK
6.
03/1991
224
5US
US
2AC
AC
13rock
rock
3UK
UK
7.
09/1991
216
3US
US
15rock
rock
4UK
UK
8.
12/1991
203
11US
US
2dance
dance
21alt.
alt.
2UK
UK
9.
09/1991
202
2US
US
40AC
AC
2rock
rock
12UK
UK
10.
09/1991
198
6US
US
14dance
dance
7rock
rock
✫1ac
alt.
7UK
UK
11.
10/1991
191
61US
US
2rock
rock
✫1ac
alt.
✫1UK
UK
12.
03/1991
186
4US
US
28AC
AC
✫1alt.
rock
✫1ac
alt.
19UK
UK
13.
02/1991
180
4US
US
35rock
rock
2alt.
alt.
10UK
UK
14.
06/1991
175
4US
US
32AC
AC
2rock
rock
12UK
UK
15.
01/1991
174
5US
US
9AC
AC
✫1alt.
rock
✫1ac
alt.
22UK
UK
✫1UK
written by Sting
16.
✫1alt.
174
7US
US
26AC
AC
2rock
rock
7UK
UK
17.
05/1991
168
10US
US
48AC
AC
8rock
rock
3alt.
alt.
6UK
UK
18.
11/1991
159
12US
US
8AC
AC
3rock
rock
6UK
UK
19.
11/1991
157
9US
US
42dance
dance
✫1alt.
rock
✫1ac
alt.
13UK
UK
20.
01/1991
149
17rock
rock
✫1UK
UK
21.
07/1991
149
38US
US
✫1alt.
dance
4alt.
alt.
4UK
UK
22.
06/1991
143
29US
US
3rock
rock
3UK
UK
23.
09/1991
143
10US
US
3rock
rock
8UK
UK
24.
08/1991
141
16US
US
10rock
rock
5UK
UK
25.
03/1991
133
9alt.
alt.
2UK
UK
26.
06/1991
131
83US
US
14dance
dance
4alt.
alt.
3UK
UK
27.
01/1991
123
9US
US
✫1alt.
rock
18UK
UK
28.
06/1991
115
5US
US
5AC
AC
12rock
rock
29.
09/1991
115
17dance
dance
6alt.
alt.
4UK
UK
30.
09/1991
113
33US
US
20rock
rock
5UK
UK
31.
✫1rock
103
21rock
rock
4UK
UK
32.
04/1991
97
8dance
dance
✫1ac
alt.
8UK
UK
33.
04/1991
91
82US
US
15dance
dance
5alt.
alt.
8UK
UK
34.
12/1991
90
9rock
rock
6UK
UK
35.
02/1991
89
10alt.
alt.
6UK
UK
36.
07/1991
86
11dance
dance
19alt.
alt.
7UK
UK
37.
01/1991
85
6alt.
alt.
7UK
UK
38.
05/1991
81
23US
US
8dance
dance
✫1ac
alt.
32UK
UK
39.
08/1991
79
18US
US
6dance
dance
27alt.
alt.
28UK
UK
40.
03/1991
78
40US
US
10rock
rock
✫1ac
alt.
20UK
UK
41.
03/1991
77
13US
US
12AC
AC
74country
country
7rock
rock
66UK
UK
42.
10/1991
75
28rock
rock
2alt.
alt.
11UK
UK
43.
12/1991
74
23US
US
27AC
AC
24rock
rock
20UK
UK
44.
03/1991
73
9dance
dance
10alt.
alt.
10UK
UK
45.
10/1991
73
79US
US
29AC
AC
3alt.
alt.
13UK
UK
46.
04/1991
71
11US
US
3rock
rock
47.
11/1991
71
35US
US
10rock
rock
15UK
UK
48.
10/1991
69
14US
US
✫1alt.
rock
49.
06/1991
64
42rock
rock
4alt.
alt.
13UK
UK
50.
02/1991
64
28rock
rock
8alt.
alt.
12UK
UK
✫1rock
written by Vernon Reid
51.
01/1991
61
3rock
rock
14UK
UK
52.
06/1991
60
28US
US
36AC
AC
✫1alt.
rock
46UK
UK
53.
02/1991
59
46US
US
4rock
rock
6alt.
alt.
30UK
UK
54.
11/1991
59
11alt.
alt.
12UK
UK
55.
08/1991
58
24US
US
4AC
AC
4rock
rock
56.
01/1991
58
17dance
dance
11alt.
alt.
15UK
UK
57.
03/1991
57
78US
US
30rock
rock
13UK
UK
58.
03/1991
56
57US
US
✫1alt.
rock
28alt.
alt.
29UK
UK
59.
07/1991
56
27US
US
✫1alt.
rock
63UK
UK
60.
07/1991
56
74US
US
8alt.
alt.
17UK
UK
61.
11/1991
55
28US
US
2rock
rock
46UK
UK
62.
11/1991
52
31US
US
6rock
rock
32UK
UK
63.
08/1991
51
3rock
rock
25alt.
alt.
21UK
UK
64.
✫1rock
50
14US
US
44rock
rock
65.
03/1991
50
11alt.
alt.
16UK
UK
66.
05/1991
49
18dance
dance
4alt.
alt.
23UK
UK
67.
08/1991
48
44US
US
8rock
rock
27UK
UK
68.
05/1991
47
8alt.
alt.
18UK
UK
69.
08/1991
47
12alt.
alt.
17UK
UK
70.
06/1991
46
78US
US
13rock
rock
21UK
UK
71.
07/1991
46
32US
US
36dance
dance
40rock
rock
✫1ac
alt.
72.
01/1991
45
19US
US
16rock
rock
73.
11/1991
45
14rock
rock
4alt.
alt.
27UK
UK
74.
02/1991
44
2alt.
alt.
26UK
UK
75.
10/1991
44
40rock
rock
16UK
UK
76.
06/1991
44
13rock
rock
19UK
UK
77.
01/1991
43
30US
US
✫1alt.
rock
78.
03/1991
43
19alt.
alt.
18UK
UK
79.
07/1991
42
2alt.
alt.
27UK
UK
80.
11/1991
42
88US
US
30rock
rock
20UK
UK
81.
08/1991
42
5alt.
alt.
24UK
UK
82.
04/1991
40
26alt.
alt.
19UK
UK
83.
09/1991
40
26US
US
6rock
rock
84.
06/1991
39
34rock
rock
19UK
UK
85.
06/1991
37
33US
US
2rock
rock
86.
01/1991
37
23US
US
24rock
rock
87.
02/1991
35
31rock
rock
21UK
UK
88.
05/1991
35
40rock
rock
✫1ac
alt.
43UK
UK
89.
09/1991
35
12rock
rock
4alt.
alt.
40UK
UK
90.
09/1991
35
✫1alt.
rock
22alt.
alt.
55UK
UK
91.
✫1rock
35
37US
US
41rock
rock
37UK
UK
92.
09/1991
34
71US
US
10rock
rock
32UK
UK
93.
08/1991
34
56US
US
7rock
rock
40UK
UK
94.
[A & M 1541] Được viết bởi Sting
34
3rock
rock
32UK
UK
95.
02/1991
34
35US
US
11rock
rock
10alt.
alt.
96.
✫1rock
34
14dance
dance
15alt.
alt.
30UK
UK
97.
06/1991
33
35dance
dance
28alt.
alt.
25UK
UK
98.
06/1991
33
29alt.
alt.
23UK
UK
99.
02/1991
33
4alt.
alt.
32UK
UK
100.
09/1991
32
63US
US
21rock
rock
32UK
UK