Viết bài văn cảm nhận về bài thơ chiều tối năm 2024
Đánh giá bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh tuyển chọn 11 bài văn mẫu siêu hay và đạt điểm cao của các bạn học sinh giỏi. Thông qua việc đánh giá bài thơ Chiều tối, bạn sẽ có thêm nhiều gợi ý tham khảo, củng cố kiến thức và rèn kỹ năng viết văn ngày một tốt hơn. Show
Chiều tối là một bài thơ đặc biệt đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc với những hình ảnh về thiên nhiên và con người miền Sơn cước. Bài thơ đã làm cho độc giả cảm thấy xúc động trước tình cảm nhân ái, sâu lắng của nhà thơ cách mạng Hồ Chí Minh. Dưới đây là TOP 11 bài đánh giá Chiều tối hay nhất, mời bạn đọc tham khảo. Ngoài ra, bạn có thể tìm hiểu thêm nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 11. Dàn ý đánh giá bài Chiều tối
Giới thiệu về tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ Chiều tối từ Nhật ký trong tù II. Phần chính: Đánh giá bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 1. Hai dòng đầu: Bức tranh về thiên nhiên
2. Hai dòng thơ cuối: Bức tranh về cuộc sống
3. Nghệ thuật III. Tóm tắt: Tóm gọn cảm nhận của tôi về bài thơ một cách súc tích Cảm nhận bài thơ Chiều tối ngắn gọn nhất - Mẫu 1Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo vĩ đại của dân tộc Việt Nam, được biết đến với nhiều vai trò khác nhau từ một chiến sỹ cách mạng đến một nhà chính trị tài ba. Suốt cuộc đời, ông để lại cho thế hệ sau biết bao tác phẩm văn chương nổi bật. Ngay cả khi ở trong tù, ông vẫn sáng tạo ra một tập thơ nổi tiếng là 'Nhật ký trong tù'. Trong tập thơ này, bài 'Chiều tối' nổi bật như một viên ngọc quý. Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ không chỉ đẹp mà còn buồn, ẩn chứa tâm trạng sâu sắc của nhân vật. Hồ Chí Minh - người tù cô đơn, lạc lõng giữa xứ lạ đã vượt qua nỗi đau thể xác để hòa mình vào với tự nhiên và cuộc sống con người. Một cảnh thiên nhiên núi rừng được mở ra trong khoảnh khắc của một buổi chiều tối: 'Đàn chim rì rào dọc theo thung lũng Mây trắng phô bày dải không trung Dịch thơ: 'Chim mỏi quay về rừng, đêm dần buông xuống Mây nhẹ nhàng trôi giữa không trung' 'Chiều tối' chân thực tái hiện 'Thân thể ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao' ngay cả khi ở trong tù, Bác vẫn giữ tinh thần lạc quan và hòa mình với thiên nhiên xung quanh. Bức tranh thiên nhiên được vẽ lên bởi những nét chấm phá nghệ thuật độc đáo, mang đậm chất cổ điển. Cánh chim thường mang tính biểu tượng, ước lệ của thơ ca cổ, như thấy trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan: 'Nghìn mai gió cuốn chim mỏi về rừng Dặm liễu sương sa khách bước qua' Người xưa thường nói 'Chim về tổ khi buổi tối buông xuống', thể hiện sự kết thúc của một ngày lao động và trở về với cuộc sống bình dị, yên bình. Gần với phong trào thơ mới hơn, cánh chim trong thơ Huy Cận thường mang tia sáng của ánh chiều: 'Chim mảnh mai nghiêng cánh giữa chiều dần tà'. Tuy nhiên, hình ảnh cánh chim trong thơ của Hồ Chí Minh không chỉ diễn đạt về sự trôi chảy của thời gian mà còn gợi lên một không gian vô hạn, yên bình, thậm chí nặng trĩu cảm xúc của người tù, tạo nên một liên kết sâu sắc giữa con người và thiên nhiên. Từ 'mỏi' mang nhiều ý nghĩa, trước hết là để mô tả sự mệt mỏi của cánh chim sau một ngày lao động tìm kiếm thức ăn, giống như người tù sau một ngày dài bị giam cầm, tìm kiếm một nơi yên nghỉ. Mặc dù vậy, Bác vẫn tin rằng sống giữa thiên nhiên sẽ giúp tinh thần con người trở nên trong sáng hơn. Phần thứ hai của nghệ thuật chấm phá làm cho bức tranh thiên nhiên sống động hơn là hình ảnh 'chòm mây'. Hình ảnh này đã xuất hiện nhiều trong thơ ca cổ và hiện đại, như Thôi Hiệu đã dùng hình ảnh mây trắng để tôn vinh sự cổ kính, vĩnh hằng của lầu Hoàng Hạc 'Ngàn năm mây trắng còn bay'. Trong thơ của Bác, chòm mây trở nên thân thiện với cuộc sống con người. Tuy nhiên, bản dịch thơ chưa thể diễn đạt hết ý nghĩa của bản gốc khi dịch 'cô vân' thành 'chòm mây' dường như quá nhẹ, chưa thể hiện được cảm giác cô đơn, trống trải của chòm mây trôi trên bầu trời. 'Chòm mây' chứa đựng nhiều suy tư, cảm xúc như những trăn trở, suy tư của người tù. 'Cô vân' trong thơ Hồ Chí Minh đơn độc giữa hoàng hôn, mong muốn được cảm giác sum vầy, nhưng Bác không dừng lại ở đó, mà lắng nghe từng nhịp đập của cỏ cây, hoa lá. Bức tranh thiên nhiên cũng phản ánh một nỗi buồn, nhưng là một nỗi buồn đẹp. Bức tranh này như được vẽ từ những giọt lệ tâm hồn của con người trong hoàn cảnh tù đày. Mặc dù bức tranh thiên nhiên có vẻ buồn bã, nhưng không ảnh hưởng đến tinh thần của người tù. Ngược lại, hai câu thơ cuối cùng là biểu hiện của sức mạnh, sự sống động của một con người đầy ý chí, nghị lực khi hòa mình vào cuộc sống lao động ấm áp, với hình ảnh thiếu nữ say sưa bên bếp lửa ấm: 'Trong thôn thiếu nữ xay ngô suốt đêm Xay hết lò than đã đỏ lửa hồng' Dịch thơ: 'Cô gái ở làng núi xay ngô suốt đêm Xay đến khi lò than rực hồng' Trong thơ Hồ Chí Minh, mạch cảm xúc luôn mạnh mẽ và phong phú, nó bắt nguồn từ trái tim đầy yêu đời và ham muốn sống. Ở hai câu thơ này, thời gian được diễn đạt qua hình ảnh chiếc cối xay ngô với những vòng quay đều đặn. Sự lặp lại của dòng 'xay ngô suốt đêm - xay đến khi đỏ lửa hồng' mô tả mỗi vòng quay là nhịp đập của thời gian, khi vòng quay cuối cùng là lúc công việc kết thúc cũng là lúc lò than sáng lên. Sự liên kết này khiến cho bức tranh cuộc sống lao động của con người trở nên mạnh mẽ. Không chỉ thời gian, không gian cũng chuyển động từ rộng lớn, hoang sơ đến xóm núi nơi có cô gái xay ngô. Con người trở thành trung tâm tạo nên linh hồn của bức tranh chiều tối. Dưới bóng mát của người tù, cô gái làng núi miệt mài lao động, trẻ trung, đầy sức sống. Bác nhìn những người lao động với ánh mắt trân trọng, chia sẻ. Đó là sản phẩm của tình yêu lao động, tình yêu cuộc sống, biểu hiện của lòng nhân ái. Bác không chỉ yêu đất nước Việt Nam mà còn yêu tất cả những người lao động trên thế giới, dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào. Bác luôn hướng tới cuộc sống, con người, và tin vào tương lai. Cùng với sự di chuyển của không gian, hình ảnh trong thơ cũng di chuyển từ bóng tối đến ánh sáng, vì vậy, dù là chiều tối nhưng không bao giờ tối vì bài thơ kết thúc với chữ 'hồng'. Điều này làm cho không gian sáng sủa hơn, xua đi bóng tối, xua tan sương mù lạnh lẽo, đồng thời làm ấm lòng, làm giảm cảm giác cô đơn trống trải. Đặc biệt, màu hồng làm cho người lao động trở nên đẹp hơn, hình ảnh của cô gái làng núi như được tắm dưới ánh lửa hồng, hiện lên đẹp như thiên thần trong sử thi. Có vẻ như mệt mỏi và uể oải đã biến mất. Ánh lửa hồng là biểu tượng của cuộc sống ấm áp, hạnh phúc gia đình, sự lạc quan, sự sống mãi không ngừng. Như vậy, thông qua thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, với niêm luật chặt chẽ, ngôn ngữ cô đọng, ngắn gọn, hình ảnh tượng trưng sâu sắc, kết hợp với nghệ thuật chấm phá, mạch thơ vận động khỏe khoắn, nhân vật trữ tình và tự do, với giọng điệu từ buồn đến trữ tình, đầm thắm,... đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời trong khoảnh khắc cuối ngày đầy đẹp đẽ. Điều đáng chú ý là vẻ đẹp tâm hồn của chiến sỹ cộng sản Hồ Chí Minh đã được khắc họa rõ nét. Quan điểm của anh chị về bài thơ Chiều tối - Mẫu 2Bên cạnh sự nghiệp chính trị to lớn, Hồ Chí Minh còn là một nhà văn với tác phẩm vô cùng quý giá và phong phú. Trong suốt quá trình cách mạng, việc viết thơ đã trở thành một phần không thể thiếu, luôn đồng hành với hành trình giải phóng dân tộc của Bác. Với văn phong trữ tình chính trị đặc trưng, tác phẩm của Hồ Chí Minh không chỉ khích lệ tinh thần yêu nước, chỉ trích kẻ thù, mà còn thể hiện những giá trị tâm hồn cao quý của vị lãnh tụ vĩ đại. Bài thơ Chiều tối (Mẫu 2) là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn chương của Hồ Chí Minh, không chỉ thể hiện những gian khổ mà Người đã trải qua trong cuộc đời cách mạng mà còn là minh chứng cho vẻ đẹp tâm hồn cao quý của người thi sĩ, chiến sĩ Hồ Chí Minh. Sau nhiều năm lưu vong ở nước ngoài, sau khi về nước không lâu, Hồ Chí Minh lại rời Việt Nam để tìm kiếm sự giúp đỡ quốc tế cho cách mạng Việt Nam ở Trung Quốc. Sau một cuộc hành trình dài hơn nửa tháng bộ đi, vượt qua rừng già, khi chân Người chạm vào biên giới bên kia, Người đã bị chính quyền của Tưởng Giới Thạch bắt giữ, và Bác đã phải sống trong cảnh tù đày suốt 13 tháng. Cuộc sống trong nhà tù, với những khó khăn đầy gian truân, đã được Người ghi lại qua 134 bài thơ trong tập Ngục trung nhật ký. Nhà thơ Tố Hữu đã viết những dòng cảm động về tập thơ này: “Lại thương nỗi đắng cay thân Bác Mười bốn trăng tê tái gông xiềng Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc Mà thơ bay… như cánh hạc ung dung” Chiều tối là một trong những bài thơ nổi bật nhất trong 134 bài thơ của tập Ngục trung nhật ký, được viết ra trong tình huống đặc biệt, vào một buổi chiều cuối thu năm 1942, khi Bác bị áp giải từ nhà tù Tĩnh Tây đến nhà tù Thiên Bảo (Trung Quốc). Dù phải đối mặt với gông xiềng trói buộc, đứng trên mảnh đất xa lạ, nhưng với tâm hồn lạc quan, yêu thiên nhiên, Hồ Chủ tịch vẫn viết ra những dòng thơ ấm áp, xua đi bóng tối, cô đơn ở nơi rừng sơn hoang dã. Phong cách thơ cổ điển kết hợp với ý thơ hiện đại đã tạo nên nét đặc sắc cho bài thơ Chiều tối, không chỉ là biểu hiện của cảm xúc ngẫu hứng mà còn chứa đựng trong đó vẻ đẹp tâm hồn lớn lao, những khát vọng, những ước mơ về lý tưởng cách mạng đang phát triển mạnh mẽ. 'Hòa chim vào rừng, tìm vùng ngủ Chòm mây lả lướt giữa trời không' Phiên dịch: 'Chim mệt về rừng, tìm chốn nghỉ ngơi Đám mây trôi nhẹ giữa không trung' Bức tranh của chiều tối được Hồ Chí Minh tả qua hai hình ảnh quen thuộc: cánh chim và đám mây. Đây là những yếu tố thường gặp trong thơ cổ điển, thường dùng để miêu tả bầu không khí buổi hoàng hôn. Tuy nhiên, đằng sau hình ảnh ấy là một người bị giam cầm với còng sống, chân bị buộc chặt. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Hồ Chí Minh vẫn có thể nhìn ngắm mây, thể hiện tinh thần lạc quan không ngờ. Hai câu thơ đầu của bài Chiều tối là ví dụ điển hình cho phong cách 'thi trung hữu họa' trong văn học cổ điển. Chúng chỉ cần hai câu thơ ngắn gọn nhưng đã đủ để vẽ nên một bức tranh thiên nhiên phong phú. Cánh chim trời thường biểu hiện sự cô đơn và mất phương hướng, nhưng trong thơ của Hồ Chí Minh, chúng tượng trưng cho sự trở về an nghỉ sau một ngày làm việc vất vả. Người thơ cũng tinh tế cảm nhận được sự mệt mỏi trong từng vỗ cánh của chim, do cùng chung số phận với chúng. Bác cũng vừa trải qua một ngày dài và mệt mỏi, nhưng chưa thể tìm được chốn nghỉ ngơi, điều đó làm nảy sinh những cảm xúc buồn trong lòng ông. Tuy nhiên, trên hết, mọi người vẫn thấy được lòng lạc quan, yêu đời của Bác, luôn nhìn về những điều tích cực. Khi Bác tìm cho cánh chim nơi để về, Người vẫn nhìn thấy niềm hạnh phúc nhỏ bé trong cảnh sắc thiên nhiên này. Hình ảnh tiếp theo là chòm mây trôi lơ lửng trên bầu trời xanh vào buổi hoàng hôn, cũng là chất liệu quen thuộc trong thơ cổ điển. Trong tình cảnh giam cầm khó khăn, Bác vẫn giữ được tinh thần lạc quan, tích cực. Văn học thường thể hiện nhân học, nhưng trong thơ của Bác, cánh chim và chòm mây không chỉ biểu hiện cảnh buồn, hiu quạnh mà còn đầy nhân văn. Cánh chim tượng trưng cho hạnh phúc, tổ ấm, trong khi chòm mây là biểu tượng của tinh thần lạc quan, quyết tâm chiến thắng sự cô đơn, lạc lõng. 'Trên núi thiếu nữ xay ngô Ma túc bao vô thường nhân hoà' Trong hai câu thơ tiếp theo, Bác tập trung vào cuộc sống của nhân dân vùng núi. Hình ảnh cô gái xay ngô thể hiện sức sống mạnh mẽ, vẻ đẹp giản dị nhưng rất ấn tượng. Bác khẳng định vai trò của con người trước thiên nhiên, sống hòa hợp với tự nhiên. Ngoài ra, trong hình ảnh cô gái xay ngô tối, ta thấy khao khát và mong ước của tác giả về cuộc sống của người lao động, về một tương lai tốt đẹp hơn. Trong câu thơ cuối “Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”, sau khi cô gái kết thúc việc xay ngô, lò than đã sáng rực hồng, đánh dấu sự chuyển đổi từ chiều tối sang đêm. Từ “hồng” trở thành điểm nhấn của bài thơ. Thông thường, khi buổi chiều dần qua, bài thơ thường kết thúc với hình ảnh đêm tối đen kịt bao phủ mọi vật, để lại nỗi cô đơn, lạnh lẽo. Nhưng trong Chiều tối, bóng tối lại bắt đầu bằng hình ảnh lò than rực hồng, như một khởi đầu mới ấm áp, biểu hiện cho cuộc sống ban ngày mới thực sự bắt đầu. Điều này khiến không gian không còn tối tăm mà thay vào đó là ấm áp, một cảnh mới với bữa cơm nóng bên gia đình. Từ “hồng” làm sáng bài thơ, xua đi không khí tối tăm, hiu quạnh của rừng núi, và biến khung cảnh rộng lớn thành một lò than, một mái ấm với những người lao động nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa. Thơ của Hồ Chí Minh luôn tích cực và sáng sủa, luôn hướng về ánh sáng, sự sống. Chiều tối là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Hồ Chí Minh, vừa cổ điển vừa hiện đại, thể hiện sự sâu sắc và tinh tế. Trong bài thơ này, chúng ta thấy sự lạc quan, yêu đời của Bác và tâm hồn lớn của một lãnh tụ vĩ đại. Cảm nhận về bài thơ Chiều tối - Mẫu 3Nhận xét về tập thơ 'Nhật kí trong tù' của Hồ Chí Minh, Nguyễn Đăng Mạnh đã nói: 'Sự kết hợp giữa cách mạng và thơ ca đã khiến Bác Hồ trở thành một nhà thơ lớn'. Tập thơ này ra đời khi Bác bị bắt giam và bài thơ Chiều tối là một trong những tiêu biểu. Khi bị giải đi từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào cuối mùa thu năm 1942, Hồ Chí Minh sáng tác bài thơ 'Chiều tối'. Dù gặp nhiều khó khăn, thử thách, nhưng Người vẫn không chùn bước. Bài thơ không chỉ là cách Người giải tỏa mệt mỏi mà còn là nguồn động viên cho ngày mai tự do. Sử dụng bút pháp của Đường thi, Hồ Chí Minh vẽ lại bức tranh thiên nhiên trên con đường chuyển lao: Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không) Buổi chiều tối là lúc các chim bay về tổ để nghỉ ngơi sau một ngày lao động. Hình ảnh này thường được thấy trong thơ ca truyền thống, và Hồ Chí Minh cũng đã tái hiện lại nó trong 'Chiều tối'. Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi Dặm liễu sương sa khách bước dồn Buổi chiều tà là thời điểm kết thúc một ngày dài để nhường chỗ cho bóng tối. Cảnh này không chỉ là lúc để nghỉ ngơi mà còn gợi lên nỗi buồn. Mặc dù các chú chim đã tìm được nơi dừng chân, nhưng người tù vẫn cảm thấy cô đơn. Bác Hồ mong muốn có một nơi để nghỉ ngơi, nhưng dù mệt mỏi và cô đơn, Người vẫn đối mặt với hoàn cảnh một cách thản nhiên, bằng ý chí và nghị lực phi thường. Giữa không gian rộng lớn đó, có những đám mây cô đơn, lẻ loi trôi lững. Chính Bác Hồ, một người yêu thiên nhiên và cuộc sống, mới có thể hiểu rõ được sự cô đơn của những đám mây như thế. Bức tranh thiên nhiên trên núi rừng buổi chiều tà đã làm hiện lên tâm hồn thi sĩ. Một tâm hồn giao hoà với vạn vật, bởi sự tương đồng giữa vạn vật và bản thân người thi sĩ. Dù bị gò ép bởi xiềng xích, nhưng Bác Hồ vẫn giữ phong thái ung dung, đĩnh đạc. Nếu không có tinh thần thép và sự lạc quan, có lẽ Người sẽ không thể chiêm ngưỡng và cảm nhận thế giới bên ngoài. Những hình ảnh trong thơ Đường như buổi chiều tà, cánh chim, chòm mây đều gợi lên một nỗi buồn nhưng cũng cho thấy sự vận động của thời gian và cảnh vật. Nếu hai câu thơ đầu đã mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên, thì hai câu thơ sau miêu tả cuộc sống hàng ngày của con người: Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng (Cô em ở làng núi xay ngô tối Xay xong lò than đã rực hồng) Hình ảnh cuộc sống con người hiện lên như làm tan biến nỗi buồn của người tù. Con người trở thành trung tâm của bức tranh sinh hoạt này. Bác Hồ đã nhìn nhận tổng quan và chi tiết, từ xa đến gần, từ bầu trời xuống đất để miêu tả cuộc sống của những người dân làng núi. Sự lặp lại của cánh quạt xay ngô qua cụm từ 'ma bao túc', 'bao túc ma hoàn' thể hiện một cuộc sống lao động cực nhọc. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật điệp liên hoàn để thể hiện sự tuần hoàn của thời gian và vũ trụ. Thiếu nữ ở làng sơn cước, người đang xay ngô, là chủ thể mà Bác hướng đến. Hình ảnh của cô gái đang làm việc bên lò lửa chuẩn bị bữa tối cho gia đình là một hình ảnh đẹp, thể hiện sự khoẻ mạnh của con người. Cuộc sống lao động, mưu sinh, mặc dù vất vả nhưng rất đáng quý. Khi này, thời gian đã chuyển sang tối. Mặc dù từ gốc không có từ 'tối' nhưng hình ảnh lò than 'rực hồng' là dấu hiệu của buổi tối. Từ 'hồng' là điểm sáng của bài thơ, diễn tả sự chuyển đổi từ bóng tối sang ánh sáng, từ nỗi buồn sang niềm vui. Hình ảnh lò than, mặc dù giản dị, nhưng mang ý nghĩa sâu xa. Nó tạo ra sự ấm áp, loại bỏ nỗi lạnh lẽo của núi rừng và cảm giác cô đơn trong lòng người. Lò than cũng là ngọn lửa niềm tin vào một tương lai sáng sủa. Nhà tù Tưởng Giới Thạch chỉ có thể giam giữ thân thể của Bác Hồ nhưng không thể kìm kẹp tinh thần của Người. Ngay cả khi bị giam cầm, Bác vẫn hướng tâm hồn ra bên ngoài để kết nối với thiên nhiên và con người. Người quên đi những khó khăn để hưởng thụ niềm vui của người lao động. Bài thơ 'Chiều tối' thể hiện sự lạc quan cách mạng, với những hình ảnh và mạch thơ luôn hướng về sự sống và ánh sáng. Sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển và hiện đại tạo nên thành công cho tác phẩm. 'Chiều tối' đã là bức tranh thể hiện sự hòa quyện giữa tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng và tâm hồn của một nhà thơ. Mỗi dòng thơ của Bác đều chứa đựng chất thép, tỏa sáng từ tư tưởng của một người chiến sĩ vĩ đại. Cảm nhận tốt nhất về Chiều tối - Mẫu 4Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, cũng là một nhà thơ và danh nhân văn hóa thế giới. Trong cuộc hành trình cứu nước của mình, Người đã đối mặt với vô vàn khó khăn, thử thách. Điều đáng quý nhất là dù gặp bất kỳ khó khăn nào, Hồ Chí Minh vẫn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và có nghị lực phi thường để vượt qua. Bài thơ Chiều tối là biểu tượng cho phong cách thơ trữ tình và tâm hồn của Người. Tiêu đề của bài thơ đã mở ra không gian và thời gian của cả bài, 'Chiều tối' là thời khắc cuối cùng của một ngày. Đối với người tù chính trị, đây cũng là chặng đường cuối cùng sau một ngày lao động mệt nhọc. Thế nhưng, với tinh thần lạc quan của Bác, không thấy khó khăn mà chỉ thấy cảnh thiên nhiên thanh bình, êm đềm nơi núi rừng xa xôi. 'Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không.' Dịch thơ: 'Con chim mệt mỏi trở về rừng tìm chốn nghỉ ngơi, Đám mây trôi nhẹ giữa bầu trời cao xanh.' Quên đi những cảm giác mệt mỏi của thân xác, Bác vừa bước vừa ngước nhìn lên bầu trời và bắt gặp một con chim trở về rừng tìm nơi nghỉ ngơi và một đám mây trôi lững lờ. Chỉ qua vài nét chấm phá cổ điển, cảnh sắc thiên nhiên hiện ra thanh bình, lặng lẽ nhưng lại u buồn, hiu quạnh, không tiếng ồn, không màu sắc. 'Con chim mệt mỏi' cũng thể hiện sự nhạy cảm của nhà thơ, con chim đã mệt mỏi sau một ngày dài tìm kiếm thức ăn, giống như đôi chân của người tù mệt mỏi sau một ngày dài lê bước trên đường. Ta cảm nhận được sự đồng cảm giữa tâm hồn nhà thơ và thiên nhiên, mà nguồn gốc của sự đồng cảm ấy bắt nguồn từ tình yêu sâu đậm của Bác dành cho mọi sự sống trên trái đất. Hình ảnh 'đám mây' cũng mang lại cảm giác về tâm trạng, trạng thái ung dung thư thái của người tù. Đám mây cùng với tâm trạng của Bác, mang trong mình tâm hồn cô đơn của người tù. Bác thực sự là một người chiến sĩ kiên cường, nếu không có ý chí và nghị lực sắt đá trong hoàn cảnh tù đày, sẽ không thể có những câu thơ cảm nhận về thiên nhiên sâu sắc và tinh tế như vậy. 'Người con gái xứ núi mệt mỏi về, Đớp nỗi đau cô đơn, bừng một lời ca.' Dịch thơ: 'Cô gái xóm núi xay ngô đến tối, Xay đến khi lò than phát sáng rực rỡ.' Bức tranh về đời sống lao động chân thực, sinh động, dù chỉ được phác thảo một cách nhẹ nhàng, đã tái hiện ra vẻ đẹp của người phụ nữ lao động và tinh thần lao động của nhân dân. Trong khoảnh khắc đó, Bác đã quên đi nỗi đau của mình để hiểu được cuộc sống của nhân dân. Hình ảnh của 'cô gái xay ngô đến tối' đã tạo ra sự sống, sự sinh động trong cuộc sống lao động bình dị ở vùng núi hoang vu, mang lại cho người tù một chút ấm áp của cuộc sống tự do, một chút niềm vui và hạnh phúc của lao động. Hình ảnh lò than rực sáng cũng là dấu hiệu của việc kết thúc buổi chiều, bước vào đêm tối, nhưng không phải là đêm tối u tối mịt mù mà có ánh sáng và ấm áp. Lò than như một ngọn lửa sáng mà họa sĩ đã thêm vào bức tranh, tăng thêm sức mạnh cho người tù tiếp tục cuộc hành trình dài. Cảm giác như người chiến sĩ, lạc nơi đất xa xôi, đang mơ về mái ấm gia đình, quê hương của mình. Cô gái, công việc xay ngô và bếp lửa tạo ra không gian ấm áp, nơi nghỉ ngơi và hạnh phúc, tất cả những hình ảnh đó thúc đẩy người tù phải kiên trì và mạnh mẽ hơn để sớm trở về quê hương. Bài thơ Chiều tối có thể xem là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ trữ tình của Hồ Chí Minh. Tâm trạng, suy tư sâu thẳm bên trong tâm hồn người tù không được bày tỏ một cách trực tiếp mà thông qua cách hiểu biết về hình ảnh, cảnh vật một cách khách quan. Mỗi chi tiết, mỗi hình ảnh đều có mối liên hệ với nhau, mang theo giá trị tư tưởng, nghệ thuật riêng. Tinh thần lạc quan của Bác trong hoàn cảnh khó khăn là điều nổi bật nhất. Cảm xúc về Chiều tối - Mẫu 5'Tháp mười nở đẹp nhất sen vườn Việt Nam tươi đẹp với tên gọi Hồ Chí Minh' Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người lãnh đạo được mến mộ của dân tộc Việt Nam, mà còn là một nhà lãnh đạo tài ba, một con người tràn đầy trách nhiệm và lòng nhân ái. Những bài thơ của Bác luôn chứa đựng những cảm xúc và tâm trạng của một người con người yêu nước, yêu dân. Một trong những bài thơ mà tinh thần và phong cách của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nhất, đó chính là bài thơ Chiều tối (Mộ). Chiều tối là bài thơ thứ 31 trong tập thơ nổi tiếng Nhật ký trong tù. Bài thơ được viết vào năm 1942 trong một kỳ chuyển lao của Bác. 'Chim mệt mỏi về rừng tìm nơi nghỉ ngơi Chòm mây trôi nhẹ nhàng giữa bầu trời cao' Bức tranh thiên nhiên hiện lên mang chút buồn thương. Sau một ngày dài cất cánh, cánh chim trời mệt mỏi trở về rừng sâu để nghỉ ngơi. Giữa bầu trời bao la, dù mỏi mệt, nhưng cánh chim vẫn cố gắng bay về nơi yên bình. Cảm giác buồn rầu không rời khi cánh chim chiều về. Chúng như đôi chân miệt mài của người tù, luôn bước tiếp để giải phóng quê hương, khao khát tự do. Dù mệt mỏi, nhưng người tù không bao giờ ngừng khát khao tự do, muốn bay cao giữa bầu trời rộng lớn như cánh chim chiều. 'Tầng mây trôi nhẹ giữa bầu trời cao' Lúc hoàng hôn buông xuống, biết bao nỗi buồn khó diễn đạt, đặc biệt với những người xa quê. Cảnh vật trước mắt gợi lên nỗi buồn, kỷ niệm. Cánh chim mỏi mệt, đám mây lẻ loi, trôi nhẹ giữa bầu trời. Một cảnh đẹp nhưng buồn thay. Phải chăng lòng người mang nặng gánh sầu thương, vì: 'Cảnh nào cảnh cũng gắn với nỗi buồn Người buồn không thể tìm thấy niềm vui' Dù mạnh mẽ và lý trí đến đâu, con người cũng có những lúc mệt mỏi. Bác cũng thế, chiều về là lúc mọi người sum họp gia đình, nhưng Bác lại cô đơn ở địa cảnh xa lạ, khao khát về nhà, quê hương. Nỗi nhớ về quê nhà đang đầy trong lòng thi nhân. 'Cô gái xóm núi xay ngô đến tối Ngô xay xong, lò than đã đỏ lửa' Từ cảnh thiên nhiên lạnh lẽo, Bác chú ý đến cuộc sống bình dị và ấm áp ở vùng sơn cước. Hình ảnh người thiếu nữ xay ngô không chỉ gợi ra những nhịp vận động khỏe khoắn mà còn khắc họa vẻ đẹp của con người trong công việc lao động bình dị. Bức tranh chiều tối nhìn từ xa đến gần, từ không gian rừng núi rộng lớn đến không gian làng bản nhỏ bé nhưng ấm áp. Hơi ấm của cuộc sống bình dị thắp sáng niềm tin vào tương lai trong tim người thi sĩ. Bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngắn gọn mà sâu sắc, giàu giá trị biểu cảm. Giá trị của bài thơ không chỉ từ nội dung giàu tính nhân văn mà còn từ nghệ thuật biểu hiện. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, tả cảnh ngữ tình. Chiều tối thể hiện tình yêu cuộc sống và niềm tin vào tương lai của người thi sĩ. Cảm nhận bài thơ Chiều tối - Mẫu 6Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong bài viết về Hồ Chủ tịch nói: Hồ Chủ tịch là Người giàu tình cảm, và vì tình cảm ấy mà Người tham gia cách mạng. Trong thế giới tình cảm rộng lớn của Người dành cho nhân dân, cho mọi người, hẳn có một chỗ dành cho tình cảm gia đình. Bài thơ Chiều tối có thể mở ra cho ta một cơ hội nhìn thấy ước mơ về một mái ấm, một nơi dừng chân trên con đường dài. Chiều tối là bài thơ thứ 31 trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại cảm xúc của nhà thơ trên đường đi từ nhà lao này đến nhà lao khác. Trên con đường khổ ải đó, một chiều nọ, Người bắt gặp cánh chim chiều. 'Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ' Câu thơ không chỉ tái hiện cảnh vật mà còn thể hiện cảm xúc của nhà thơ. Không ai biết chắc chắn liệu chim đó mỏi không, và cũng không thể biết chắc chim đó đang đi tìm chỗ nghỉ ngơi ở rừng hay không. Câu thơ chỉ là dấu hiệu cho biết là chiều đã tới, mọi vật đã mệt mỏi và cần tìm chốn nghỉ ngơi. Câu thơ tương phản với hình ảnh của chòm mây cô đơn ở dưới: 'Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không' Mặc dù câu thơ dịch đẹp nhưng ý thơ có phần nhẹ nhàng hơn so với nguyên tác Hán. Nó bỏ chữ 'cô' trong 'cô vân', nghĩa là chòm mây cô đơn, trơ trọi rất có ý nghĩa. Hai từ 'trôi nhẹ' cũng không diễn đạt đầy đủ ý của 'mạn mạn độ'. Vì 'độ' là sự di chuyển từ bờ này sang bờ kia, như thuyền độ từ bến này sang bến khác, mặt trời độ qua một ngày, bầu trời độ là sự dịch chuyển từ một chân trời sang chân trời khác, con đường của mây mới dài và vô tận đến bao giờ! Còn 'mạn mạn' là dấu hiệu của sự trì hoãn, chậm chạp. Chòm mây cô đơn di chuyển từ chân trời này sang chân trời khác, nhưng lại chậm rãi, trì hoãn, không biết khi nào mới đến nơi? Và hiển nhiên khi trời tối, nó vẫn lửng lơ bay giữa không trung, là biểu tượng ẩn dụ về người tù đang bị giải đi trên đường xa vạn dặm, chưa biết điểm dừng! Trong hình ảnh ấy hẳn còn gửi gắm tình cảm thương mình cô đơn và khát khao có một mái nhà. Chỉ hai câu thơ mà vừa tả cảnh vật, vừa tả tình người. Đó là sức mạnh, sự dư dả của thơ cổ điển. Nếu hai dòng đầu đã nói về chim mỏi trở về rừng tìm chốn nghỉ ngơi và chòm mây cô đơn không biết dừng lại ở đâu, thì hai câu thơ sau của bài thơ hiện ra một bức tranh của sự nghỉ ngơi của con người: 'Cô em xóm núi xay ngô tối Xay xong lò than, bếp đã hồng.' Trong bản dịch, người dịch đã thêm chữ 'tối' một cách không cần thiết trong khi thi pháp thơ cổ chỉ muốn người đọc tự cảm nhận chiều tối phủ xuống mà không cần một sự thông báo trực tiếp nào. Điều đó làm lộ ra sự vô dụng của bốn câu thơ. Nhưng đó là thách thức của người dịch. Điều đáng chú ý là một cảnh lao động gia đình, rất bình thường, dân dã: Cô em xóm núi xay ngô hạt, ngô hạt xay xong, bếp đã ửng hồng. Cô em, bếp lửa, tượng trưng cho không gian gia đình. Ngô hạt xay xong, bếp đỏ hồng lại tượng trưng cho sự làm việc và nghỉ ngơi. Một không khí ấm áp dành cho người trở về nhà. Điều chú ý thứ hai là trong nguyên tác, từ 'hồng' mang nghĩa là ấm, nồng hơn là đỏ, cho thấy nhà thơ muốn nhấn mạnh sự ấm áp, nồng nhiệt hơn là sự hồng hào. Bếp lạnh, than tàn là biểu tượng cho sự cô đơn, trống trải. Điều chú ý thứ ba là nhà thơ đứng ở núi như thể đang đứng gần gũi bên cạnh. Hơn nữa, nhà thơ cần phải đứng mãi mới thấy được sự trôi chảy của thời gian trong câu: Cô em xóm núi xay ngô hạt - Ngô hạt xay xong, bếp đã ửng hồng? Đây chỉ là một bài thơ trên đường. Vì vậy, đó chỉ là một hình ảnh tưởng tượng trong trí tưởng tượng, trước xóm núi bên đường xuất hiện như là biểu trưng của mái nhà gia đình, nơi đoàn tụ của những người thân. Mặc dù kết thúc này không rực rỡ màu hồng lạc quan của cách mạng như tác giả nghĩ, nhưng nó vẫn ấm áp, tình người làm cho nỗi lòng người vơi bớt nỗi cô đơn. Cùng với hình ảnh ấy, một ước mơ thầm kín về mái nhà gia đình thoáng qua. Nếu chú ý tới bài thơ trước đó là bài Đi đường. 'Đi đường mới biết gian nan Núi cao rồi lại núi cao trùng phùng.' Một con đường không có điểm dừng, và sau đó là bài thơ Đêm Ngủ ở Long Tuyền: Đôi ngựa ngày đi không nghỉ chân. Món Gà năm vị: tối thường ăn, dư thừa rét, rệp xâm phạm, oanh sớm, mừng nghe tiếng hót xóm gần. Khi đó, chúng ta có thể dễ dàng hiểu thấy khung cảnh gia đình xuất hiện là điều gần gũi. Điều đó thể hiện trái tim của nhà cách mạng vẫn đập theo nhịp của con người thông thường, gần gũi với mọi người. Nghệ thuật của bài thơ là một nghệ thuật gián tiếp cổ điển, sử dụng cảnh để diễn tả tình cảm. Hình ảnh trong thơ cũng là hình ảnh tâm trạng. Nếu chỉ đơn giản phân tích như một bức tranh hiện thực, chúng ta chắc chắn sẽ bỏ lỡ thế giới tâm linh phong phú của nhà thơ. Cảm nhận về bài thơ Chiều Tối - Mẫu 7Chiều tối là một trong những bài thơ sinh động và giản dị nhất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại trong Nhật ký trong tù. Thơ của Bác thường mang những đặc điểm như vậy, dường như không có gì mới mẻ, nhưng lại là những hình ảnh dễ thương và quen thuộc trong lối viết thơ: 'Chim mệt mỏi trở về rừng tìm nơi ngủ Cho mây trôi nhẹ giữa không trung' Thực tế, đó là hình ảnh tích cực nhìn nhận của nhà thơ khi hoàng hôn buông xuống trên núi rừng. Chiều tối là thời điểm khi ánh sáng ban ngày vẫn còn chiếu sáng một chút. Lúc đó, giữa không gian núi rừng không có chân trời, ánh sáng cuối ngày chỉ còn mờ nhạt trên đỉnh trời. Tự nhiên, ánh mắt của nhà thơ nhìn lên cao và nhận ra cánh chim mệt mỏi đang tìm kiếm nơi nghỉ ngơi dưới gốc cây. Cảnh vật vẫn tiếp tục buồn bã, u ám khi hoàng hôn đến. Đây là khoảnh khắc của sự hội họp, mọi người sau một ngày làm việc mệt mỏi quay về bên gia đình, nhưng Bác lại không thể cảm nhận được sự ấm áp đó. Mang trong lòng nỗi đau về tội lỗi, bị giam cầm lạc trôi trên đất địa phương xa lạ, chắc chắn nỗi nhớ quê hương đang đeo đuổi tâm hồn. Trong tâm trí Người, không bao giờ có thời điểm nào làm phai mờ đi nỗi nhớ quê nhà… Tuy nhiên, thơ của Hồ Chí Minh vẫn có một đặc điểm rất riêng: dòng thơ, hình ảnh thơ và tư tưởng thơ không bao giờ im lặng mà luôn chuyển động mạnh mẽ và bất ngờ, hướng tới sự sống và ánh sáng: 'Cô em xóm núi xay ngô mịt mờDưới ánh lò hồng đã rực sáng' Khi nói về cảnh, sự chuyển động trong Câu thơ này cũng tự nhiên đến lạ. Đêm buông xuống, tấm màn đen đã phủ lên mọi vật, khiến nhà thơ chỉ có thể nhìn vào phía ánh sáng. Đó là ánh sáng soi rõ hình ảnh một cô gái thôn nữ xay ngô chuẩn bị bữa cơm chiều. Trong câu thứ ba, người dịch đã thêm từ “mịt mờ” không có trong bản gốc. Mặc dù không sai, nhưng điều này làm mất đi chút tinh tế của bài thơ. Nó không chỉ làm lộ ý thơ mà còn làm cho nội dung trở nên kém phần mở cửa. Lê Chí Viễn phát hiện ra một điểm tinh vi khác trong câu thứ ba. Đảo ngữ “ma bao túc”, “bao túc ma hoàn” làm cho câu thơ trở nên hấp dẫn và đặc biệt. Thời gian trôi theo cánh chim và đám mây, theo những vòng quay cuối của cô gái, xoay mãi, xoay mãi cho đến khi cô ấy dừng lại, lò than đã rực sáng, tạo ra một ánh sáng tuyệt đẹp. Ánh sáng đó không chỉ là điểm sáng trong đêm tối u ám mà còn là tia hy vọng, niềm tin mà Bác luôn gửi gắm. Đọc thơ của Bác, dù buồn nhưng vẫn tràn ngập niềm tin và hy vọng, có lẽ vì vậy. Hai câu thơ đầu tiên tả cảnh buồn, cảnh chiều muộn với hình ảnh cánh chim và con người mệt mỏi trước khi đêm tối buông xuống, nhưng hai câu thơ sau lại là một niềm vui, một niềm tin hăng hái, mong chờ qua hình ảnh sáng rực của lò hồng. Chỉ một hình ảnh nhỏ nhưng lại có thể cân chỉnh cả bài thơ, khiến cho bài thơ toả sáng lên sự ấm áp. Sự sống, ánh sáng và niềm vui của con người hiện lên ở trung tâm của bức tranh mà nhà thơ vẽ ra, tỏa sáng, xua tan cảm giác cô đơn và mệt mỏi của cảnh chiều trên núi rừng. Nguyễn Du đã nói rằng: “Ai buồn cảnh mà có niềm vui đâu”. Sự thật này phản ánh rất rõ trong hai câu thơ đầu. Tuy nhiên, trong hai câu sau, niềm vui trở lại. Sự hi vọng, niềm tin qua hình ảnh của ngọn lửa hồng đã làm cho bài thơ trở nên tươi sáng và phấn khích hơn nhiều… Điều này cho thấy mọi niềm vui và nỗi buồn của Bác Hồ đều liên quan chặt chẽ đến niềm vui và nỗi buồn của đất nước. Dù đối diện với nỗi đau, khổ đau của tù cải, Bác vẫn lo lắng cho quốc gia của mình… Cảm nhận bài thơ Chiều tối - Mẫu 8Một tác phẩm tốt là tác phẩm chứa đựng những giá trị tư tưởng sâu sắc. Ở đó, chúng ta không chỉ thấy được tài năng của tác giả mà còn phản ánh được tâm hồn, phẩm chất của nhà thơ. Bài thơ Chiều tối là một minh chứng cho điều này, Hồ Chí Minh - người lãnh đạo được mến mộ của dân tộc, một nhà thơ của dân tộc với tình yêu lớn lao dành cho Tổ Quốc, đã sáng tác những dòng thơ chạm đến tận cõi lòng của con người. Có thể nói, bài thơ này còn mang giá trị vĩnh cửu qua các thời kỳ. 'Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ, Chòm mây nhẹ giữa không trung' Sau một ngày dài làm việc, từng đàn chim lần lượt trở về rừng để tìm nơi nghỉ ngơi. Cánh chim mệt mỏi nhẹ nhàng di chuyển giữa không gian chiều tàn. Một đám mây đơn độc trôi nhẹ nhàng giữa không trung bao la, cảnh vật dường như nhẹ nhàng nhưng mang một nỗi buồn sâu thẳm. Có lẽ, cảnh buồn không chỉ ẩn chứa trong cảnh vật mà còn trong tâm hồn của người tù xa quê hương. Khi màn đêm buông xuống, mọi người tạm gác lại công việc để quay về nhà sum họp bên bữa cơm gia đình. Có lẽ, vào thời khắc đó, Bác cũng mong muốn được đứng trên đất nước của mình, cùng với nhân dân, hòa mình vào không khí gia đình. Nhưng thực tế đầy gian truân, vì vậy cảnh vật cũng đeo bóng buồn, đám mây đơn độc, cánh chim mệt mỏi đều là biểu tượng cho những lúc tâm trạng yếu đuối, cô đơn và lẻ loi của Người ở đất khách quê người. Nỗi nhớ quê hương sâu sắc trong lòng nhà thơ, càng cô đơn bấy nhiêu thì nỗi nhớ càng lớn bấy nhiêu. Thông qua việc miêu tả cảnh vật, tình cảm của Bác được thể hiện một cách rõ ràng. Cảnh vật và tâm trạng tương đương nhau - người mang nỗi buồn, cảnh vật cũng không có gì vui. 'Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã đỏ lửa' Không gian sinh hoạt mở ra vô cùng giản dị. Người con gái xóm núi xay ngô giữa bầu trời đêm yên bình đến kỳ diệu. Trong bao nhiêu cảnh đẹp kỳ vĩ khác, Bác lại chọn nhìn vào cảnh lao động - xay ngô vào buổi tối. Có lẽ, Bác đã trân trọng khoảnh khắc này, trân trọng sức lao động của con người ở mỗi khoảnh khắc của thời gian. Chỉ có tâm hồn tinh tế mới có thể nhận ra vẻ đẹp đơn giản nhưng rất ý nghĩa trong cuộc sống. Đó là vẻ đẹp của con người giữa cuộc sống thiếu thốn, mặc dù vất vả nhưng rất ấm áp, đáng quý và đáng yêu. Hình ảnh con người lao động hòa hợp với vẻ đẹp tự nhiên khiến bức tranh chiều tối trở nên ấm áp hơn, sinh động hơn. Nó mang lại sức sống cho cảnh núi rừng, dù buồn nhưng tràn đầy sức sống. Đó có thể là khát vọng hướng tới sự sống, hướng tới những điều tốt đẹp, ước mơ về tự do cho mọi người, sống trong nghịch cảnh nhưng vẫn trân trọng cuộc sống lao động. Từ 'đỏ lửa' trở thành biểu tượng, là trung tâm của bài thơ. Ngọn lửa không chỉ đơn giản là một hiện tượng vật lý mà còn là biểu tượng cho ngọn lửa của cách mạng, của tình yêu hoà bình. Ngọn lửa xua tan màn đêm lạnh giá, xua tan những mệt mỏi của ngày dài, xua tan những lo âu trong tâm hồn của người tù cách mạng. Ngọn lửa hồng thắp lên niềm tin vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc, hơn hết là sự bình yên trong lao động của nhân dân. Đọc bài thơ này, mỗi người sẽ có những suy tư riêng. Đối với tôi, bài thơ không chỉ thể hiện tình yêu của Bác Hồ đối với Tổ Quốc, mà còn giúp tôi trân trọng hơn cuộc sống lao động của những con người giản dị, đồng thời trân trọng cuộc sống tự do và hòa bình mà thế hệ chúng tôi đang có được ngày hôm nay. Từ đó, tôi càng yêu quý Bác Hồ với tấm lòng bao la, rộng lớn, tự hào về nền văn hoá thơ lớn của dân tộc. Đồng thời, bài thơ cũng giúp tôi học được cách sống với cuộc sống, đối mặt với những khó khăn, thử thách mà vẫn giữ vững niềm tin, hướng tới ngọn lửa hồng, hướng tới một tương lai đầy hy vọng. Thách thức của hiện tại có thể làm bản thân chúng tôi cảm thấy áp lực nhưng không thể làm chúng tôi đầu hàng, mệt mỏi có thể làm chân chừng nhưng không thể khiến chúng tôi lùi lại, hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ở phía sau bạn. Hãy giữ vững tinh thần lạc quan trong mọi tình huống. Cảm nhận về bài thơ Chiều tối - Mẫu 9Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta đã dành cả cuộc đời để hy sinh cho Tổ Quốc. Người không chỉ là một chiến sĩ Cách Mạng mà còn là một nhà thơ lãng mạn, bay bổng. Trong thời gian bị giam giữ, Bác đã gặp những khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và viết nên bài thơ Mộ (Chiều tối). Bài thơ là vẻ đẹp của thiên nhiên và con người lao động trong thời kỳ này. Đọc bài thơ, ta cảm nhận được tinh thần lạc quan, ung dung của Hồ Chủ Tịch dù sống trong tù. Hai câu thơ đầu tượng trưng cho bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà: 'Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa bầu trời' Bức tranh mang chút buồn, không phải là một bức tranh của bình minh mà là của chiều tà, khi hoàng hôn buông xuống. Đó là thời điểm chim trở về tổ, chòm mây trôi nhẹ giữa bầu trời. Thi nhân thường mang nhiều tâm trạng khi đứng trước khung cảnh như thế này. 'Đâu tiếng làng xa vang chợ chiều Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót Sông dài, trời rộng, bến cô liêu' Cánh chim mệt mỏi như tù nhân vất vả sau một ngày dài di chuyển trong nhà tù. Hoàng hôn buông xuống là lúc mọi người, mọi vật nghỉ ngơi, là lúc mỗi người cảm nhận rõ tình hình của bản thân. Huy Cận cảm thấy cô đơn giữa không gian rộng lớn, trong khi đó Hồ Chí Minh lại cảm thấy cô đơn, lẻ loi giữa bốn bức tường. Trong lòng Người lúc này là nỗi nhớ nhà, nhớ quê sâu sắc. Tuy không thấy bi thương trong ý thơ, tác giả vẫn nhớ đến quê hương, đất nước một cách ý nghĩa. Thi nhân vẫn giữ tinh thần ung dung, tự tại và kiêu hãnh. Hai câu thơ sau thể hiện rõ điều đó. Dù trong bóng tối của đêm, Người vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của con người lao động: 'Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng' Hình ảnh con người lao động hiện lên trên một bức tranh sinh động, có hồn. Nhà thơ đã sử dụng màu sắc để làm cho bức tranh tĩnh lặng đó trở nên cuốn hút hơn. Cô gái miền núi cao với sự chăm chỉ, cần cù, dù đã đến lúc nghỉ ngơi, thể hiện tinh thần làm việc hăng say, nhiệt huyết của con người đáng quý trọng. Dường như Bác đã ghi nhớ phẩm chất chăm chỉ, kiên trì, chịu khó của người dân Việt Nam qua hình ảnh cô gái. Dù ở đồng bằng hay miền núi cao, những phẩm chất đẹp này không bao giờ biến mất. Bắp ngô là biểu tượng của nền nông nghiệp, sự sung túc, hạnh phúc. Người tin rằng chỉ cần làm việc chăm chỉ, siêng năng, cuộc sống sẽ đền đáp, và con người đang dốc hết công sức để có cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Chỉ qua hai câu thơ, ta nhận ra tình yêu đời, yêu cuộc sống mãnh liệt của người tù. Dù trong nhà tù, đối diện với hiện thực ngoài kia ra sao, Bác vẫn nhìn vào những điều tích cực, hy vọng về tương lai. Bài thơ Chiều tối với 4 câu thơ đã nói lên phẩm chất của Bác cũng như của những người chiến sĩ Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Họ là những người không bao giờ khuất phục trước hoàn cảnh, không đầu hàng trước số phận, luôn tìm kiếm và hy vọng vào những điều tươi đẹp của cuộc sống. Nhờ có những người như thế mà đất nước ta mới có được hòa bình như ngày nay. Phong cách thơ của Hồ Chí Minh cũng làm cho người đọc cảm thấy dứt khoát, thanh cao, lãng mạn và tích cực như phong thái đáng quý trọng của Người. Đọc thơ của Chủ Tịch, ta tự hỏi tại sao một người luôn hy sinh vì đất nước lại có thời gian để thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, lại có tâm hồn lãng mạn, bay bổng đến như vậy. Điều đó là bởi vì Người là vị lãnh tụ duy nhất của đất nước ta, cũng là một danh nhân văn hóa nổi tiếng trên Thế Giới mà không nhiều quốc gia nào có được! Cảm nhận về bài thơ Chiều tối - Mẫu 10 của tôiBài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh là bức tranh về hoàng hôn và là miêu tả về người phụ nữ lao động vô cùng tươi đẹp. Tôi viết bài thơ này trong thời gian bị giam giữ tại nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch khi bị di dời từ nhà giam này sang nhà giam khác. Bài thơ 'Chiều tối' chỉ có bốn câu thơ nhưng lại miêu tả hai bức tranh hoàn toàn đối lập. Đó là bức tranh thiên nhiên và bức tranh về con người. Thông qua bài thơ, ta thấy rằng dù trong hoàn cảnh khó khăn bị giam giữ, tù đày nhưng tôi vẫn thể hiện tinh thần yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan, niềm tin vào cuộc sống. 'Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.' Hai câu thơ này của Hồ Chí Minh tả lại cảnh chiều tà, hoàng hôn u ám, thể hiện sự vội vã của những con chim muốn về tổ sau một ngày lao động mệt mỏi kiếm ăn. Những con chim nhỏ bé so với bầu trời bao la, mênh mông tạo nên sự cô đơn của cảnh vật, nỗi buồn trong lòng. Trên bầu trời xanh kia, những đám mây đỉnh trôi lơ lửng, trái ngược với sự vội vã của những con chim mệt mỏi. Cảnh thiên nhiên ở vùng núi rừng hoang sơ, hiểm trở, của vùng sơn cước đẹp nhưng buồn bã, mang lại cảm giác cô đơn cho người đọc. Trong hai câu thơ này, Hồ Chí Minh sử dụng bút pháp cổ điển để tả cảnh chiều tà, hoàng hôn và thể hiện nỗi buồn trong lòng. Chiều tà luôn mang lại nỗi buồn trước cảnh hoàng hôn, khi ánh nắng tan biến và màn đêm buông xuống, tạo ra sự cô đơn. Trong hoàn cảnh hiện tại, người ta khó lòng vui vẻ khi bị giam cầm, bị xiềng xích, áp giải đi cả ngày. Tâm trạng của Hồ Chí Minh còn nặng nề vì nỗi buồn khi nhớ về quê hương, đất nước bị áp bức. Thiên nhiên và con người dường như cùng chia sẻ nỗi buồn, với thiên nhiên, con chim, đám mây thể hiện sự buồn bã sau một ngày mệt mỏi. Người tù mất tự do không biết sẽ đi đâu và về đâu, cảm thấy mệt mỏi về cả thể chất lẫn tinh thần. Trong tâm trạng của tác giả cũng thể hiện nỗi buồn khi phải xa quê hương yêu thương. Trước cảnh đẹp của núi rừng, người vẫn không thể vui vẻ. Tuy nhiên, trong hai câu thơ tiếp theo, không gian bức tranh phong cảnh: 'Cô em ở làng núi xay ngô buổi tối Lò than đỏ bừng sáng' Hai dòng thơ tiếp theo đồng diễn dạng 'nhãn tự' của Hồ Chí Minh, sử dụng từ 'đỏ' như một biểu tượng cho bản thân mình. Một hình ảnh của cô gái lao động miệt mài đến tận đêm, với những giọt mồ hôi làm bừng sáng khuôn mặt cô, thể hiện sự đẹp giản dị nhưng thu hút lòng người về sự chăm chỉ của người phụ nữ. Cô gái xay ngô bên lò than rực đỏ gợi lên bức tranh sinh động, tươi vui của cuộc sống gia đình hạnh phúc, no đủ. Bức tranh này làm cho bài thơ trở nên sống động, đầy màu sắc và sức sống, là một hình ảnh ấm áp về cuộc sống hàng ngày. Hình ảnh lò lửa đỏ sáng lên trở thành trung tâm của bài thơ, tạo nên sự rõ ràng và sáng sủa cho hình ảnh của cô gái. Lò lửa đỏ cũng làm ấm áp toàn bộ bài thơ, làm cho nó trở nên sống động hơn, đầy năng lượng. Bằng cách này, tác giả thể hiện sự lạc quan, khích lệ và hy vọng vào tương lai dù trong hoàn cảnh khó khăn. Bài thơ 'Chiều tối' của Hồ Chí Minh là một sự kết hợp tài tình giữa hai phong cách cổ điển và hiện đại, giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ này đã tạo ra hai bức tranh tương phản nhưng tương trợ lẫn nhau, thể hiện tinh thần lạc quan và sự kỳ vọng vào cuộc sống. Cảm nhận của tôi về bài thơ Chiều tối - Mẫu 11“Nhật kí trong tù” được coi là tập thơ phản ánh rõ nhất tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. “Chiều tối” được ông viết vào cuối mùa thu năm 1942 khi bị chính quyền của Tưởng Giới Thạch giam giữ. Bài thơ này thể hiện được tình yêu của ông đối với thiên nhiên cũng như ý chí, tinh thần kiên cường của ông trong tình trạng bị giam cầm, mất tự do. “Chiều tối” là một bài thơ kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và hiện đại. Trong phần mở đầu của bài thơ, Hồ Chí Minh đã mô tả bức tranh thiên nhiên vào thời điểm hoàng hôn, sử dụng hình ảnh của các con chim mệt mỏi và những đám mây lẻ loi: Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không Phiên dịch thơ: (Chim mệt về rừng tìm nơi ngủ Đám mây trôi nhẹ trên bầu trời) Chiều tà là thời điểm dễ gợi nhớ nỗi cô đơn sâu sắc, đặc biệt là đối với người phụ nữ xa quê hương. Bức tranh thiên nhiên vào buổi chiều tối được Bác mô tả với hình ảnh cánh chim mệt mỏi trở về nơi nghỉ ngơi, và những đám mây trắng đơn côi trôi lững lờ giữa không gian bầu trời rộng lớn. Với một chút chấm phá, Bác mở ra trước mắt người đọc cả một cảnh vật rừng núi bao la, ấn tượng nhưng cũng u buồn, lẻ loi khi hoàng hôn buông xuống. Dường như tự nhiên đồng tình, hòa hợp với tâm trạng của con người hay chính con người đã làm cho bức tranh tự nhiên trở nên buồn bã, đầy cảm xúc như câu nói của Nguyễn Du: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”? Hình ảnh cánh chim mệt mỏi và những đám mây lẻ loi thường xuất hiện trong thơ cổ điển, trong bài thơ Chiều tà, Bác Hồ sử dụng những yếu tố cổ điển đó để truyền tải nỗi buồn của việc xa quê, cô đơn của người cộng sản khi phải sống ở nơi xa lạ. Hình ảnh cánh chim mệt mỏi như là biểu tượng cho sự mệt mỏi về thể xác của người tù cộng sản khi phải làm việc vất vả suốt một ngày dài, và những đám mây lẻ loi lại gợi lên cảm giác cô đơn, lạc lõng của Bác trong đất xa xứ. Hai câu thơ đầu tiên vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đẹp mắt, thơ mộng nhưng u buồn, tĩnh lặng. Đến hai câu thơ sau đó, Bác lại dành từ ngòi bút của mình cho bức tranh về cuộc sống ấm áp, sáng sủa giữa vùng sơn cước vắng vẻ, cô đơn: Trong làng thiếu nữ ma bao bọc buồn Ma buồn che phủ tận cùng màu hồng Dịch thơ: (Nàng con gái làng quê xay ngô đến khuya Xay hết, lò than đã tỏa sáng hồng) Hình ảnh cô gái làng quê xay ngô không chỉ thể hiện sức mạnh lao động mà còn phản ánh cuộc sống giản dị, ấm áp, hạnh phúc. Với người tù cộng sản, ánh sáng từ lò than, hơi ấm của cuộc sống trở nên thiêng liêng, quý giá, mang lại niềm tin và sức mạnh để vượt qua khó khăn, hướng tới tương lai tươi sáng. Chữ “hồng” được coi là biểu tượng của bài thơ khi ánh sáng từ lò than rực hồng đã xua tan bóng tối và sự lạnh lẽo của rừng núi trong hai câu thơ trước, thắp lên ngọn lửa của hy vọng và niềm tin. Hai câu thơ cuối cùng thể hiện tình yêu cuộc sống và sự lạc quan của Bác ngay trong bước khó khăn nhất. Qua bài thơ Chiều tối, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và sự sống mà còn được chạm đến một tâm hồn cao quý, một ý chí phi thường và một tình yêu cuộc sống sâu sắc của Bác. Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng. Mọi ý kiến đóng góp xin vui lòng liên hệ tổng đài chăm sóc: 1900 2083 hoặc email: [email protected] |