Top 10 báo kinh tế việt nam hàng đầu năm 2022

- Một số nghiên cứu cho rằng, nếu hoạt động sản xuất, phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hóa được tập trung phát triển nhiều hơn, thì Indonesia có thể trở thành một trong 10 nền kinh tế hàng đầu thế giới vào năm 2030. Tuy nhiên, nhìn nhận thực tế vào xu hướng của sự bất bình đẳng về dài hạn và tốc độ tăng trưởng trước đây thì điều này có nhiều khả năng sẽ xảy ra vào năm 2040 hoặc lâu hơn.

Có thể nhận thấy, Indonesia dễ dàng trở thành một quốc gia có thu nhập cao ngay sau năm 2025 và kết thúc nghèo đói vào năm 2030, mặc dù tốc độ tăng trưởng trước đây lại chỉ ra rằng điều này sẽ mất nhiều thời gian.

Nhiều nghiên cứu về đói nghèo ở Indonesia đã sử dụng đường chuẩn nghèo quốc gia để đo sự tiến bộ xã hội. Nhưng thay vì vậy, một bài báo mới được trình bày gần đây tại Diễn đàn Kebijakan Pembangunan đã bổ sung thêm chuẩn 10 USD/ngày vào chuẩn nghèo quốc tế [ trước đây là 1,25USD và 2USD] để thảo luận về các xu hướng và mô hình xóa đói giảm nghèo 1990-2010 cũng như làm dự báo về các tình huống khác nhau tính đến năm 2030 .

Sự khác nhau của chuẩn nghèo quốc tế và chuẩn nghèo quốc gia

Đầu tiên, để phù hợp với nghiên cứu trước đây, mức nghèo là 1,25USD/ ngày [mà bây giờ giá trị gần tương tự như chuẩn nghèo quốc gia] đã giảm đáng kể trong thời kỳ Soeharto. Tuy nhiên, đói nghèo vẫn ở mức cao vào cuối những năm 1990, ngay cả trước khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998. Có hơn 40% dân số sống bằng hoặc thấp hơn 1,25USD/ ngày và 80% dân số sống bằng hoặc thấp hơn 2USD/ ngày.

Phân tích dựa trên chuẩn nghèo quốc tế cho thấy sự suy giảm đáng kể của 2USD/ngày phần lớn là đến thời kỳ hậu Soeharto, và trong 25 năm qua, mức nghèo/ ngày đã thay đổi đáng ngạc nhiên, lên đến 10USD. Tỷ lệ 1,25USD/ngày và 2USD/ngày giảm đặc biệt nhanh trong giai đoạn 2000-2005, và thực sự nhanh hơn trong thời gian trước khủng hoảng. Đây có thể là một sự phản ánh của một loạt các chương trình xã hội giới thiệu hoặc mở rộng trong thời hậu khủng hoảng thời gian. Song tốc độ giảm nghèo đã chậm hơn kể từ 2005-2006, giá gạo đã gây ra nghèo tăng đột biến, đặc biệt là liên quan đến số nghèo ở mức 1,25USD và 2USD .

Ngoài ra, khi nói đến xu hướng lâu dài trong sự bất bình đẳng, tổng số bất bình đẳng [đo bằng hệ số Gini và hệ số Theil ] giảm trong đầu những năm 1990. Điều này là phù hợp với một số nghiên cứu trước đây sử dụng chuẩn nghèo quốc gia. Sau cuộc khủng hoảng 1997-1998, điều đáng chú ý là sự bất bình đẳng đã tăng trong hai đợt: một làn sóng có thể nhìn thấy trong các dữ liệu cho 1999-2005 và một làn sóng gần đây cho 2009-2011. Hiện trạng bất bình đẳng gia tăng không chỉ làm chậm quá trình xóa đói giảm nghèo mà còn tác động tới tốc độ tăng trưởng và sự bền vững của kinh tế trong tương lai.

3 lưu ý đối với kinh tế Indonesia

Thứ nhất, như đã đề cập, rất có thể Indonesia đạt được vị trí quốc gia có thu nhập cao trong khoảng một thập kỷ tới, mặc dù tốc độ tăng trưởng trước đây chỉ ra rằng phải đến năm 2040 hoặc lâu hơn thế thì điều này mới xảy ra.

Thứ hai, Indonesia cũng có thể kết thúc mức nghèo 1,25USD và 2USD vào năm 2030 nếu đáp ứng tốc độ tăng trưởng dự báo của IMF và có sự tập trung phát triển hợp lý. Điều này một lần nữa sẽ là một ước tính rất lạc quan.

Nếu xu thế bất bình đẳng hiện nay tiếp tục thì phải mất 10-20 năm tăng trưởng kinh tế nữa mới kết thúc đói nghèo ở Indonesia. Như một điểm so sánh, sự phát triển lịch sử và bất bình đẳng tĩnh ở Thái Lan có thể khiến các nhà hoạch định chính sách ở Indonesia quan tâm vì chúng cung cấp một tư liệu lịch sử trong việc giảm nghèo trong khung thời gian 20 năm tính từ mức độ hiện tại của Indonesia.

Thứ ba, cần phải lưu ý rằng, phần lớn dân số vẫn lưỡng lự giữa việc nghèo ngày này qua ngày khác với sự an toàn vì nghèo. Điều này có thể dẫn đến nhu cầu cần nhiều biện pháp chính sách công hơn dựa trên bảo hiểm xã hội và quản lý rủi ro. Thêm vào đó, nghèo tính theo mức quốc tế dường như mang tính đô thị hơn, cho thấy một xu thế tăng đến một tỷ lệ nghèo đói ở các đô thị lớn trong tương lai.

Cuối cùng, tất cả các dự đoán này tùy thuộc vào khả năng tăng trưởng chậm hơn hoặc gia tăng sự bất bình đẳng hơn ở bán đảo này. Mục đích của dự báo đó chỉ đơn thuần để minh họa cho những gì có thể xảy ra và xem xét sự phát triển đáng kể của Indonesia bởi chuẩn nghèo quốc tế cũng như chuẩn nghèo quốc gia./.

Dịch từ: //www.economywatch.com/economy-business-and-finance-news/can-indonesia-raise-incomes-and-eradicate-poverty-by-2030.14-08.html

Hải Yến

[Tổ Quốc] - Hiện nay, Việt Nam đang là điểm đến của nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến từ nhiều quốc gia. Trong đó, 5 nền kinh tế lớn nhất thế giới vẫn duy trì rót tiền vào Việt Nam trong nhiều năm qua.

Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế [IMF], trong năm 2021, Mỹ là quốc gia dẫn đầu trong danh sách các quốc gia có quy mô GDP danh nghĩa lớn nhất thế giới với 22.940 tỷ USD. Trong khi đó, xếp ngay sau Mỹ là Trung Quốc với GDP danh nghĩa đạt khoảng 16.863 tỷ USD.

Cùng với đó, 3 quốc gia còn lại lọt top 5 nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới là: Nhật Bản [5.103 tỷ USD], Đức [4.230 tỷ USD] và Anh [3.108 tỷ USD].

5 quốc gia này liên tục rót tiền đầu tư vào Việt Nam trong nhiều năm qua. Trong 8 tháng đầu năm 2022, trong 5 nền kinh tế lớn nhất thế giới, Nhật Bản là nền kinh tế rót nhiều tiền đầu tư vào Việt Nam nhất. Cụ thể, Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam khoảng 1,5 tỷ USD với 123 dự án cấp mới, xếp thứ 3 trong các quốc gia đầu tư vào Việt Nam 8 tháng đầu năm 2022.

Sau Nhật Bản, Trung Quốc là nền kinh tế rót tiền đầu tư xếp thứ 2 vào Việt Nam trong 5 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Cụ thể, Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam khoảng 1,4 tỷ USD với 143 dự án cấp mới, xếp thứ 4 trong các quốc gia đầu tư vào Việt Nam 8 tháng đầu năm 2022.

Tổng vốn FDI từ 5 nền kinh tế lớn nhất thế giới vào Việt Nam trong 8 tháng đầu năm 2022. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Cùng với đó, Hoa Kỳ, Anh và Đức đầu tư vào Việt Nam lần lượt khoảng 371,33 triệu USD; 86,69 triệu USD và 49,38 triệu USD trong 8 tháng đầu năm 2022. Theo đó, Hoa Kỳ, Anh và Đức xếp thứ 9, 17 và 19 trong các quốc gia đầu tư vào Việt Nam 8 tháng đầu năm 2022.

Xét về lũy kế tổng vốn đầu tư FDI đến tháng 8/2022, Nhật Bản vẫn là nền kinh tế đầu tư nhiều tiền nhất vào Việt Nam trong 5 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Cụ thể, lũy kế tổng vốn đầu tư FDI từ Nhật Bản vào Việt Nam đạt khoảng 65,69 tỷ USD với 4.917 dự án tính đến tháng 8/2022. Theo đó, Nhật Bản xếp thứ 3 trong các quốc gia có luỹ kế tổng vốn đầu tư lớn nhất vào Việt Nam tính đến tháng 8/2022.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được sự quan tâm lớn nhất của nhà đầu tư Nhật Bản. Cùng với đó, Nhật Bản đã đầu tư vào hầu hết các tỉnh, thành tại Việt Nam nhưng tập trung tại các địa phương có cơ sở hạ tầng tương đối phát triển như Hà Nội, TP. HCM, Thanh Hóa và Đồng Nai.

Luỹ kế tổng vốn FDI từ 5 nền kinh tế lớn nhất thế giới vào Việt Nam đến tháng 8/2022. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Bên cạnh đó, Trung Quốc là nền kinh tế có luỹ kế tổng vốn đầu tư đến tháng 8/2022 vào Việt Nam xếp thứ 2 trong 5 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Cụ thể, lũy kế tổng vốn đầu tư FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam đạt khoảng 22,43 tỷ USD với 3.453 dự án tính đến tháng 8/2022. Theo đó, Trung Quốc xếp thứ 6 trong các quốc gia có luỹ kế tổng vốn đầu tư lớn nhất vào Việt Nam tính đến tháng 8/2022.

Trên thực tế, FDI của Trung Quốc có mặt tại hầu hết các tỉnh, thành Việt Nam. Tuy nhiên, các dự án này chủ yếu tập trung tại các tỉnh biên giới có khu kinh tế cửa khẩu, ven biển, các thành phố đông dân, có sức thu hút lao động mạnh, có cơ sở hạ tầng tốt, thuận lợi cho xuất, nhập khẩu hàng hóa cũng như đi lại giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Cùng với đó, Hoa Kỳ, Anh và Đức có luỹ kế tổng vốn đầu tư vào Việt Nam đạt lần lượt khoảng 11,04 tỷ USD; 4,16 tỷ USD và 2,31 tỷ USD tính đến tháng 8/2022. Theo đó, Hoa Kỳ, Anh và Đức xếp lần lượt là 11, 15 và 18 trong các quốc gia có luỹ kế tổng vốn đầu tư nhiều nhất vào Việt Nam tính đến tháng 8/2022.

Minh Tiến

Chủ Đề