Tín ngưỡng và tôn giáo giống nhau như thế nào

Tín ngưỡng là gì? So sánh tín ngưỡng và tôn giáo?

Bởi
Giác Ngộ
-
15/10/2015
60322
0

Theo Wikipedia thì tín ngưỡng là một niềm tin có hệ thống mà con người tin vào để giải thích thế giới và để mang lại sự bình yên cho bản thân và mọi người. Tín ngưỡng còn là thể hiện giá trị của cuộc sống, ý nghĩa của cuộc sống bền vững và đôi khi được hiểu là tôn giáo.

Chủ nghĩa Mác- Lênin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một loại hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan.

Một số nhà thần học xem tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin vào cái thiêng, cái huyền bí, ở đó chứa đựng những yếu tố siêu nhiên, nó có một sức mạnh, một quyền lực to lớn có thể cứu giúp con người khỏi khổ đau và có được hạnh phúc và sự bình yên.

UNESCO đã công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.

Tại Việt Nam, vấn đề tín ngưỡng cũng có nhiều quan điểm khác nhau:

– Theo GS Đặng Nghiệm Vạn, thuật ngữ tín ngưỡng có thể có hai nghĩa. Khi nói đến tự do tín ngưỡng, người nước ngoài có thể hiểu đó là niềm tin nói chung [belief, lelieve, croyance] hay niềm tin tôn giáo [belief, believe, croyance riligieuse]. Nếu hiểu tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo, nếu hiểu là niềm tin tôn giáo [belief, believer theo nghĩa hẹp croyance riligieuse] thì tín ngưỡng chỉ là một bộ phận chủ yếu nhất cấu thành của tôn giáo.

Loading...

– Các học giả như Toan Ánh, Phan Kế Bính… xem tín ngưỡng là tín ngưỡng dân gian với các nghi lễ thờ cúng thể hiện qua lễ hội, tập quán, phong tục truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Chính cho rằng tín ngưỡng là niềm tin, sự trông cậy và yêu quý một thế lực siêu nhiên mà với tri thức con người và kinh nghiệm chưa đủ để giải thích và lý giải được.

– Trong từ điển Hán-Việt, Đào Duy Anh đã giải nghĩa: Tín ngưỡng là lòng ngưỡng mộ mê tín đối với một tôn giáo hay một chủ nghĩa nào đó.

Ngoài ra, còn có quan điểm cho rằng: “tín ngưỡng đồng nghĩa với tâm linh [niềm tin thiêng liêng] cũng có nghĩa tâm linh không phải là tôn giáo, tâm linh chỉ là khả năng dẫn tới tôn giáo”.

Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam

Hiện nay, Nhà nước ta cũng phân biệt rõ ràng giữa tín ngưỡng và tôn giáo. Điều này thể hiện ngay trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo [năm 2004] có quy định như sau: Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội.

Phân tích Sự giống nhau và khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng. Liên hệ thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [117.3 KB, 12 trang ]

Sự giống nhau và khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng
PHẦN I : CÁC KHÁI NIỆM
I Tôn giáo
A, Khái niệm
Tôn giáo là niềm tin vào lực lượng siêu nhiên , vô hình mang tính linh
thiêng , được chấp nhận mộtcách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo ,
nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia . Niềm tin
đó được biểu hiện một cách rất đa dạng , tùy thuộc vào những thời kì lịch sử ,
hoàn cảnh lịch sử , hoàn cảnh địa lý , văn hóa khác nhau phù thuộc vào nội dung
tôn giáo , được vận hành bằng những nghi lễ , những hành vi tôn giáo khác
nhau của từng của từng cộng đồng xã hội khác nhau .
* Mặt tích cực : hầu hết các tôn giáo đều hướng đến cái thiện cái tốt đẹp
khuyên răn con người làm điều hay lẽ phải và nhân từ với đồng loại .
* Mặt tiêu cực : - Tôn giáo làm cho con người bằng long với thực tế , họ
trở nên thụ động làm mất tính sáng tạo của con người .
- Tôn giáo dễ làm cho con người ta mê tín , tâm lý sợ hãi ,
chờ đợi,nhờ cậy vào thần thánh , phật mỗi khi gặp khó khăn
-Tôn giáo dễ bị lợi dụng bởi các thế lực khác điêu đó
thường dẫn đến những hậu quả xấu
B, Nguồn gốc của tôn giáo
*Nguồn gốc XH của tôn giáo :
- Thời nguyên thủy : do lực lượng sản xuất thấp kém con người cảm thấy
yếu đuối và bất lưc trước thiên nhiên rộng lớn và bí ẩn . Vì vậy họ đã gắn cho tự
nhiên những sức mạnh to lớn , thần thánh hóa những sức mạnh đó . Từ đó họ
xây dựng những biểu hiện tôn giáo để thờ cúng
- Khi XH phân chia thành giai cấp đối kháng , con người cảm thấy bất lực
trước sức mạnh của giai cấp thống trị . Họ không giải thích được nguồn gốc của
sự pphaan hóa giai cấp và áp bức bóc lột …tất cả họ quy về số phận và định

1



mệnh . Từ đó họ đã thần thánh một số người thành nhửng thần tượng có khả
năng chi phối suy nghĩ và hành động của người khác mà sinh ra tôn giáo .
=> Như vậy sự yếu kém về trình độ củ lực lượng sản xuất , sự bần cùng về
kinh tế , áp bức bóc lột về chính trị , bất lực trước những bất công của xã hội là
nguồn gốc xâu xa của tôn giáo .
*Nguốn gốc nhận thức của tôn giáo :
- Ở những giai đoạn lịch sử nhất định , nhận thức của con người về tự
nhiên ,XH và bản thân mình có giới hạn . Mặt khác tron tự nhiên và xã hội có
nhiều điều khoa học chưa giải thích được nên con người lại tìm đến tôn giáo
- Sự nhận thức của con người khi xa rời hiện thực , thiếu khách quan dễ
rơi vào ảo tưởng thần thánh đối tượng
*Nguồn gốc tâm lý của tôn giáo
Do sự sỡ hãi lo âu của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội
mà dẫn đến việc sinh ra tôn giáo . Các nhà duy vật cổ đại thường đưa ra luận
điểm “ sự sợ hãi sinh ra tôn giáo “.
C, Tính chất của tôn giáo
+Tính lịch sử :
-Con người sáng tạo ra tôn giáo mặc dù nó còn tồn tại lâu dài nhưng nó
chỉ là một phạm trù lịch sử . Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu
tượng của người đạt tới mức độ nhất định .
-Tôn giáo là sản phẩm của lịch sử , trong từng giai đoạn lịch sử , tôn giáo
có sự biến đổi cho phù hợp với kết cấu chính trị xã hội cho phù hợp với thời đại
đó . Thời đại thay đổi con người cũng có những thay đổi, điều chỉnh theo.
-Đến một thời điểm nhất định , khi con người nhận thức được bản chất
của hiện tượng tự nhiên , xã hội , làm chủ được bản thân mìnhvà xây dựng được
niềm tin cho mỗi người thì tôn giáo sẽ không còn .
+Tính quần chúng
Tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa tinh than của một số bộ phận quần chúng
nhân dân lao động. Hiện nay một số tín đồ của tôn giáo chiếm tỉ lệ khá cao tron

2


dân số thế giới . Tuy tôn giáo phản ánh hạnh phúc hư ảo song nó phản ánh khát
vọng của mối con người bị áp bức về một xã hội tự do , bình đẳng , bác ái ..Bởi
vì tôn giáo thường có tính nhân văn, nhân đạo hướng thiện .
+ Tính chính trị :
-Tính chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện xã hội đã phân chia giai cấp ,
các giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn giáo để phục vụ lợi ích của mình .
-Trong nội bộ tôn giáo , cuộc đấu tranh giữa các dòng họ nhiều khi cũng
mang tính chính trị . Trong những cuộc đấu tranh ý thức hệ , thì tôn giáo là một
bộ phận của đấu tranh giai cấp .
- Ngày nay , tôn giáo đang có chiều hướng phát triển , đa dạng phức tạp
không chỉ ở quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế . đó là sự xuất hiện các tổ chức
quốc tế của tôn giáo với thế lực lớn đã tác động đến nhiều mặt trong đó có chính
trị , kinh tế , văn hóa , xã hội. Vì vậy cần nhận thưc rõ : đa số quần chúng đến
với tôn giáo nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần , song trên thực tế đã và đang bị
các thế lực chính trị xã hội lợi dụng để thực hiện mục đích ngoài tôn giáo của họ
II Tín ngưỡng
A, Khái niệm
Tín ngưỡng là hệ thống niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế
giới và để mang lại sự bình yên cho cá nhân và cộng đồng . Tín ngưỡng đôi khi
được hiểu là tôn giáo . Khi nói đến tín ngưỡng người ta thường nói đến ngưỡng
của một dân tộc hay của một số dân tộc có mốt số đạc điểm chung còn tôn giáo
thì không mang tính dân tộc . Tín ngưỡng không có hệ thống điều hành và tổ
chức như tôn giáo , nếu có thì một hệ thống cũng lẻ tẻ và rời rạc . tín ngưỡng
nếu phát triển đến một trình đọ nào đó thì có thể trở thành tôn giáo.
B, Cơ sở của tín ngưỡng
+ Cơ sở của tín ngưỡng là niềm tin , sự ngưỡng vọng của con người về thế
giới siêu nhiên, hay gọi là “cái thiêng “ cái đối lập với cái” trần tục” , nó ra đười

và tồn tại và phát triển cùng với con người và loài người , nó là yếu tố cơ bản tạo

3


nên đời sống tâm linh của con người , cũng giống như đời sống vật chất , đời
sống xã hội , tư tưởng và đời sống tình cảm .
+ Nếu như tư tưởng và lý trí làm cho con người ta mệt mỏi thì tín ngưỡng
là hì tín ngưỡng là công cụ để con người ta nghỉ ngơi . Tín ngưỡng thể hiện sự
trông đợi nơi con người giải trí trong cuộc đời,.thậm chí là sự ký sinh tinh thần
của con người vaò người khác , vào những lực lượng siêu nhiên .
C. Đặc điểm của tín ngưỡng
- Tín ngưỡng là một vấn đề vô cùng phức tạp , thực ra tín ngưỡng không
phải là hiện tượng mê tín thuần túy theo cách hiểu thông thường . Lịch sử cho
thấy rằng các loại tín ngưỡng khác nhau có sức sống dai dẳng và ảnh hưởng lây
dài mà khó có hệ tư tưởng nào sánh được . Sự phát triển khoa học tưởng chừng
như đòng nghĩ với việc phản bác lại niềm tin u mê của tín ngưỡng các dân tộc
nhưng thật kỳ lạ các tín ngưỡng này không hề bị mất đi mà ngày càng phát
triển , dường như đóng vai trò cân bằng cho những từ thức duy lý của con người.
III Mê tín
A, Khái niệm
+ Mê tín là một cụm từ chỉ những niềm tin trong mối quan hệ nhân quả
siêu nhiên : một trong những sự kiện hay hành động sẽ dẫn đến những sự kiện
hay hành động khác mà không có bất kỳ quá trình vât lý nào liên kết hai sự
kiện , như chiêm tinh học , điềm báo , phù phép .
+ Mê tín dị đoan là tin vào những điều mơ hồ nhảm nhí , không phù hợp
với lẽ tự nhiên [ tin vào bói toán , chữa bệnh bằng phù phép .. ] dẫn tới hậu quả
xấu cho cá nhân , gia đình , cộng đồng về sức khỏe , thời gian , tiền bạc , tính
mạng...vì vậy cần đấu tranh chống mê tín dị đoan.
B, Nguồn gốc

+ Mê tín do mong cầu : con người khi mong cầu mọi điều gì mà quá khả
năng mình thì dễ sinh mê tín . Vd: Có những học sinh , sv đến kỳ thi cử , lo âu
không biết có đậu hay k nghe tin đồn làng kia có miếu hiển linh xin xăm bói quẻ

4


sẽ báo đúng những điều sắp đến , các cô , các cậu không tin vào khả năng của
mình nhất định đén xin xăm hỏi thăm thần thánh xem sao.
+Mê tín do sợ hãi : sợ hãi là nguồn gốc nảy sinh ra mọi mê tín.
=>> Là con người ai không có mong cầu , không sợ hãi , đã có hai thứ này
chắc chắn rơi vào mê tín đoan . Khi chưa gặp chuyện thì chúng ta chống đói mê
tín nhưng khi lúc có việc khắc khoải mong cầu hay kinh hoàng sợ hãi , họ cũng
sẽ rơi vào mê tín .
C, Phân loại
+Dạng thứ nhất : là những nghi thức cử chỉ xuất phát từ truyền thống hay
thói quen . VD : xin xăm hái lộc , tất cả đều được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác, người này bắt trước người khác và được thực hành một cách máy móc
không có sự suy nghĩ . Đa số những mê tín dị đoan dưới dạng này thường ẩn
núp sau danh nghĩa phong tục cổ truyền.
+Dạng thứ hai: là những điều tốt lành hay những điều kiêng cử VD: giờ
hoàng đạo , chọn ngày tốt , ngày xấu ...
+ Dạng thứ ba : là những điềm báo : ddiemf gỡ cũng như điềm tốt .
+ Dạng bốn : tin thờ sùng bái những siêu hình vì họ tin rằng những cá thể
này có thể làm ảnh hưởng đến sức khỏe hay diễn tiến của công việc hay kết quả
thành bại trong đời sống họ hoặc có thể cứu vớt họ vào một thế giới trường cừu
nào đó saukhi chết .
*C, Đặc điểm
1/ Đặc điểm chung và nổi bật nhất của các loại "mê tín dị đoan" là người ta
thường làm [hoặc tránh làm] một hành động gì đó để mong muốn cho một sự

việc gì khác xảy ra [hoặc không xảy ra] trong khi thật sự thì hành động đi trước
không tạo thành hay gây ra sự việc theo sau.
2/ Mê tín dị đoan được truyền bá sâu rộng trong mọi tầng lớp, mọi chủng
tộc, mọi thời điểm trong lịch sử con người.

5


Không có dân tộc nào, không có xã hội nào không chịu ảnh hưởng bởi mê
tín dị đoan. Một số xác suất thống kê cho rằng không dưới khoảng hai phần ba
dân số của hầu hết bất cứ quốc gia nào trên thế giới từ Đông sang Tây nhìn nhận
rằng họ ít nhiều tin và thực hành một số điều được định nghĩa là mê tín dị đoan

3/ Nhiều tập tục mê tín dị đoan bắt nguồn từ các lý do cần thiết thực dụng
nhưng dần dần đều biến dạng và mất hết ý nghĩa lẫn mục đích ban đầu.
Thí dụ như nhiều người miền nam Việt Nam cho rằng nếu bị cây "đòn
vông" của bất cứ nhà hàng xóm nào xỉa vào nhà họ thì trong gia đình sẽ bị nhiều
điều xui xẻo [loại nhà Việt Nam cổ truyền phổ thông thường có một gian hai mái
và cây "đòn vông" là cây đà ngang nằm ở trên đỉnh cao nhất của nóc nhà và theo
chiều dài căn nhà].
Quan niệm đòn vông xỉa vào nhà từ chỗ "không tốt" vì mất trật tự dần dần
trở thành "không tốt" cho công việc buôn bán làm ăn và sức khỏe của gia đình.
Ngày nay không còn mấy người nhớ và biết cái tục lệ nầy đã phát xuất từ đâu.
Mê tín dị đoan này có khuynh hướng sinh sản ra mê tín dị đoan khác.
Thí dụ như từ quan niệm "đòn vông" kể trên, dần dần các thầy địa lý, thầy
tướng, thầy bùa lại bày vẻ thêm là nếu bị cây đòn vông của hàng xóm "chiếu"
vào nhà thì cần phải "thỉnh" [có nghĩa lả "mua"] một tấm kính mang hình bát
quái đồ treo trước cửa để "phản chiếu" những chuyện rũi ro ra khỏi nhà! Từ đó
sinh ra sự tin tưởng rằng mỗi nhà cần phải có một tấm kính treo trước cửa để
tránh chuyện xui xẻo bất kể là nhà có bị đòn vông của hàng xóm xỉa vào hay

không.
5/ Khi nói về “mê tín dị đoan” là nhiều người nghĩ rằng “những người mê
tín mới làm những chuyện vớ vẩn kể trên chớ tôi thì không bao giờ…”
Voltaire cho rằng một người mê tín cũng như một kẻ nô lệ bị trói buộc bởi
những nỗi lo sợ vô cớ do chính mình áp đặt lên cho mình. Theo ông thì trên thế

6


giới có hai nhóm người rõ rệt: một nhóm không mê tín, một nhóm mê tín; và ai
cũng nghĩ là mình thuộc về nhóm thứ nhất.
Tùy một người là ai mà họ thấy cái gì là mê tín, cái gì là không.
6/ Nhiều hiện tượng, nhiều sự kiện trong đời sống hàng ngày thường được
người ta dựa trên mê tín dị đoan mà diễn giải khác nhau [có khi hoàn toàn trái
ngược hẳn nhau] tùy vào văn hóa, phong tục địa phương.
Theo tập tục Việt Nam thì chim cú mang đến điềm gỡ lớn [gia đình sắp có
người chết] trong khi theo người Tây Phương thì con cú mèo biểu tượng cho sự
thông thái minh mẫn [vì đôi mắt to lớn kèm với nhãn lực siêu việt có thể nhìn
thấy mọi sự việc].
Ảnh hưởng
Vài ảnh hưởng của mê tín dị đoan lên đời sống hàng ngày là:
- Mê tín dị đoan có thể đem đến hy vọng và hỗ trợ tinh thần trong hoàn
cảnh khó khăn, bấp bênh.
- Mê tín dị đoan thường tạo ra những sự sợ hãi, lo lắng không cần thiết.
- Mê tín dị đoan có thể làm cho công việc bị đình trệ hay hủy bỏ vô ích.
- Người mê tín dễ bị lạm dụng để làm tiền hay kềm chế, điều khiển.
- Những điều tai hại từ mê tín dị đoan của một người thường làm ảnh
hưởng đến những người khác chung quanh họ
PHẦN II: SO SÁNH
I. Sự giống nhau và khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng

1.1. Sự giống nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng
Một là, những người có tôn giáo [Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,
…] và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian [tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng
thờ Thành hoàng, tín ngưỡng thờ Mẫu,…] đều tin vào những điều mà tôn giáo
đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không hề được trông
thấy Chúa Trời, đức Phật hay cụ kỵ tổ tiên hiện hình ra bằng xương bằng thịt và
cũng không được nghe bằng chính giọng i của các đấng linh thiêng đó.
7


Sự giống nhau thứ hai giữa tôn giáo và tín ngưỡng là những tín điều của
tôn giáo và tín ngưỡng đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá
thể với nhau, giữa cá thể với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan
hệ trong gia đình trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của
những đấng bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.
1.2. Sự khác nhau giữa tôn giáo và tín ngưỡng
Một là, nếu tôn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: giáo chủ, giáo lý,
giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó.
Giáo chủ là người sáng lập ra tôn giáo ấy [Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo
Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Mô ha mét sáng lập
ra đạo Hồi,…]; giáo lý là những lời dạy của đức giáo chủ đối với tín đồ; giáo
luật là những điều luật do giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống
đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó
Hai là, nếu đối với tín đồ tôn giáo, một người, trong một thời điểm cụ thể,
chỉ có thể có một tôn giáo thì một người dân có thể đồng thời sinh hoạt ở nhiều
tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, người đàn ông vừa có tín ngưỡng thờ cụ kỵ tổ
tiên, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng, ông ta còn ra đình lễ
Thánh. Cũng tương tự như vậy, một người đàn bà vừa có tín ngưỡng thờ ông bà
cha mẹ, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng còn ra miếu, ra chùa
làm lễ Mẫu,…

Ba là, nếu các tôn giáo đều có hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại
hình tín ngưỡng chỉ có một số bài văn tế [đối với tín ngưỡng thờ thành hoàng],
bài khấn [đối với tín ngưỡng thờ tổ tiên và thờ Mẫu]. Hệ thống kinh điển của tôn
giáo là những bộ kinh, luật, luận rất đồ sộ của Phật giáo; là bộ “Kinh thánh” và
“Giáo luật” của đạo Công giáo; là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo,… Còn các
cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn mà những người
cung văn hát trong các miếu thờ Mẫu không phải là kinh điển.
Bốn là, nếu các tôn giáo đều có các giáo sĩ hành đạo chuyên nghiệp và
theo nghề suốt đời, thì trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm
8


việc này một cách chuyên nghiệp cả. Các tăng sĩ Phật giáo và các giáo sĩ đạo
Công giáo đề là những người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời [có
thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít]. Còn trước đây, những
ông Đám của làng có 1 năm ra đình làm việc thờ Thánh, sau đó lại trở về nhà
làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh
chuyên nghiệp.

2 Sự giống và khác nhau giữa tôn giáo và mê tín dị đoan
2.1 Giống nhau
+ Tôn giáo và mê tín dị đoan giống nhau ở chỗ đều là những niêm tin của
con người gửi gắm vào các đối tượng siêu nhiên .
+ Cả hai đều đượchình thành từ nhu cầu cần thiết để cố gắng giải thích từ
hiện tượng khó hiểu chung quanh con người .
+ Cả hai đều được gắn ghép những liên hệ nguyên nhân hậu quả vào một
số hiên tượng mà không hề chứng minh rõ ràng về những mối liên hệ này .
+ Cả hai đều được dựa trên nền ảng chung đẻ truyền bá và vận hành , đó là
sự sợ hãi .
+ Cả hai đều chỉ có giá trị trong một tập thể , một địa phương nào đó . Bên

ngoài biên giới của những địa phương này cả hai đều bị coi là vô căn cứ, chậm
tiến hay thậm chí là mê muội .
2.2 Khác nhau :
+ Tôn giáo là niềm tin vào đối tượng siêu hình , mà nững người có cùng
niềm tin này đã cùng quy tụ lại thành tổ chức có nhiệm vụ truyền giáo , có giáo
luaattj chặt chẽ
+ Mê tín dị đoan : là những niềm tin mang tính chất mê muội, cực đoan ,
kì dị vào những đối tượng siêu hình.
3. Sự giống nhau và khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan
2.1. Sự giống nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan
9


Giống như sự giống nhau giữa tôn giáo với tín ngưỡng dân gian, tức là đều
tin vào những điều mà mắt mình không trông rõ, tai mình không nghe thấy thân
hình và giọng nói của đấng thiêng liêng và của đối tượng thờ cúng; hạ là, những
tín điều của tín ngững dân gian và mê tín dị đoan đều có tác dụng điều chỉnh
hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với
cộng đồng, điều chỉnh hành vi ứng xử trong gia đình trên cơ sở những tín điều
mà người ta tin theo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc và những
đối tượng tôn thờ trong các loại hình tín ngưỡng và trong mê tín dị đoan.
2.2.Sự khác nhau giữa tín ngưỡng với mê tín dị đoan
Một là, xét về mục đích, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có mục đích là thể hiện
nhu cầu của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh thì người hoạt động mê tín dị
đoan lấy mục đích kiếm tiền là chính. Người hoạt động trong lĩnh vực này chỉ
làm việc với khách hàng khi có tiền.
Hai là, nếu trong lĩnh vực sinh hoạt tín ngưỡng không có ai làm việc
chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, thì những người hoạt động mê tín dị
đoan hầu hết là hoạt động bán chuyên nghiệp hoặc chuyên nghiệp. Nhiều người
sống và gây dựng cơ nghiệp bằng nghề này.

Ba là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng [đình, từ đường,
miếu,…] thì những người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một
không gian nào đó của những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề
hoặc hành nghề tại tư gia.
Bốn là, nếu những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ
tại cơ sở thờ tự [ngày mùng Một, ngày Rằm âm lịch hàng tháng ra đình làm lễ
Thánh; hàng năm đến ngày giỗ bố mẹ ông bà, phải làm giỗ,…] thì những người
hoạt động mê tín dị đoan hoạt động không định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp
thầy bói khi trong nhà có việc bất thường xảy ra [mất của, chết đuối, ốm đau,
hỏa hoạn,…], còn bình thường, có lẽ họ chẳng gặp thầy bói làm gì.
Năm là, nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật bảo vệ, được xã hội thừa
nhận thì hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, không đồng tình.
10


4. Mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan
Như trên đã trình bày, giữa tôn giáo và tín ngưỡng; giữa tín ngưỡng với mê
tín dị đoan có một số điểm khác biệt nhưng cũng có một số điểm tương đồng.
Chính từ những điểm tương đồng này khiến chúng có mối quan hệ với nhau.
Mối quan hệ đó thể hiện ở các phương diện sau:
Trước hết, các nhà truyền giáo của các tôn giáo phải dựa vào tín ngưỡng
bản địa để tuyên truyền và thể hiện đức tin tôn giáo của mình. Về phía cộng
đồng có đời sống tín ngưỡng cũng học hỏi được một số điểm phù hợp của một
số tôn giáo về nghi thức hành lễ, về phẩm phục, về cách bài trí nơi thờ tự,…
Hai là, đối với hoạt động mê tín dị đoan, do không có cơ sở thờ tự chính
thức, những người hành nghề đã mượn cơ sở thờ tự của tôn giáo [chủ yếu là của
Phật giáo] và cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề. Cũng do hành
nghề tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và tín ngưỡng dân gian mà trong một mức độ
nào đó, “độ tin cậy” của họ đối với khách hàng có thể được nâng cao
Ba là, một số tôn giáo và tín ngưỡng dân gian [tín ngưỡng thờ Mẫu, tín

ngưỡng thờ Thành hoàng] dựa vào sự thiếu hiểu biết của người dân đã sử dụng
một số thủ thuật của nghề mê tín dị đoan để tăng thêm sự huyền bí của một số lễ
thức ngoài tôn giáo và tín ngưỡng [chẳng hạn, lễ thức xin âm dương, rút thẻ,…]
mà tôn giáo, tín ngưỡng nào đó vay mượn. Mặt khác, người hành nghề mê tín dị
đoan cũng học được ở các pháp sư Phật giáo một số thế tay bắt quyết để họ hành
nghề trừ tà ma,…
Bốn là, những người hành nghề mê tín dị đoan hoạt động tại các cơ sở thờ
tự tôn giáo và cơ sở thờ tự tín ngưỡng dân gian sẽ dễ dàng tiếp cận được với số
đông khách hàng, và như vậy, nguồn lợi mà họ thu được sẽ nhiều hơn.
Tóm lại, tôn giáo, tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan có những điểm
giống và khác nhau và chúng có mối quan hệ qua lại với nhau. Mối quan hệ này
được tạo ra bởi những người trực tiếp hoạt động trên những lĩnh vực đó. Phân
biệt được sự giống nhau, khác nhau và mối quan hệ giữa chúng sẽ giúp chúng ta

11


có cơ sở để góp phần phát huy mặt tích cực của tôn giáo, tín ngưỡng và khắc
phục mặt tiêu cực của của chúng.

12



Các định nghĩa liên quan đến tín ngưỡng, tông giáo

Tôn giáo: có nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm tôn giáo. Trong bài viết này chúng tôi sử dụng khái niệm tôn giáo theo cách hiểu phổ thông nhất đã được chấp nhận ở Việt Nam hiện nay: Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội gồm những quan niệm dựa trên cơ sở niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trần thế cũng như ở thế giới bên kia. Niềm tin đó được biểu hiện rất đa dạng, tuỳ thuộc vào những thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh địa lý – văn hóa khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau. Niềm tin đó tác động đến các cá nhân và các cộng đồng theo cả hai chiều hướng tích cực và tiêu cực phụ thuộc vào từng tôn giáo cụ thể và hoàn cảnh lịch sử – địa lý cụ thể. Tôn giáo thường đưa ra các giá trị có tính tuyệt đối làm mục đích cho con người vươn tới cuộc sống tốt đẹp và nội dung ấy được thể hiện bằng những nghi lễ, những sự kiêng kị. Những nghi lễ và những sự kiêng kị đó nếu bị đẩy lên đến mức thái quá sẽ dẫn đến mê tín.

Tín ngưỡng: Hiện tại, có nhiều ý kiến khác nhau khi nói tới khái niệm “tôn giáo” và khái niệm “tín ngưỡng”. Có người đồng nhất tín ngưỡng với tôn giáo, có người lại coi tín ngưỡng nằm dưới tôn giáo trong bậc thang phát triển. Theo cách hiểu của chúng tôi trong bài viết này: Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào cái “siêu nhiên” hay còn gọi là “cái thiêng” để giải thích thế giới với ước muốn mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng. Tín ngưỡng đôi khi cũng được hiểu là tôn giáo. Nhưng điểm khác biệt giữa tín ngưỡng và tôn giáo là ở chỗ, tín ngưỡng mang tính dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thế giới thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, không có những quy định chặt chẽ. Tín ngưỡng thường không có tổ chức hoặc có tổ chức ở dạng sơ khai nhất. Tín ngưỡng cũng không có hệ thống giáo lý mà chỉ có các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết. Khi nói đến tín ngưỡng thường nói đến tín ngưỡng của một dân tộc hay một cộng đồng người. Tín ngưỡng trong những điều kiện nhất định đôi khi có thể chuyển hóa thành tôn giáo.

Trong trường hợp khi hai khái niệm này đi liền nhau thành tín ngưỡng tôn giáo thì được hiểu theo nghĩa là sự tin theo một tôn giáo nào đó.

Tổ chức tôn giáo: Trong bài viết, khái niệm tổ chức tôn giáo được sử dụng theo nghĩa là tập hợp của những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận.

Cơ sở tôn giáo: Theo Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, cơ sở tôn giáo là nơi thờ tự, tu hành, nơi đào tạo người chuyên hoạt động tôn giáo; trụ sở của tổ chức tôn giáo và những cơ sở khác của tôn giáo được nhà nước công nhận.

Đạo: Khái niệm đạo có nhiều nghĩa, không phải lúc nào khái niệm này cũng đồng nghĩa với khái niệm tôn giáo. Đạo cũng có thể hiểu là con đường, học thuyết, là cách ứng xử làm người: đạo vợ chồng, đạo cha con, đạo thầy trò. Vì vậy, trong bài viết này chúng tôi sử dụng từ đạo với ý nghĩa là tôn giáo, ví dụ: đạo Phật, đạo Kitô, đạo Cao Đài, v.v…

Giáo: Khái niệm giáo có nhiều nghĩa. Trong bài viết này chúng tôi sử dụng khái niệm giáo theo nghĩa là tôn giáo và nó thường đứng sau tên một tôn giáo cụ thể, chẳng hạn như: Phật giáo, Nho giáo, Kitô giáo,v.v… Ở đây, từ giáo cũng có thể được dùng để chỉ người theo Công giáo, phân biệt với từ lương tức những người không theo Công giáo, chẳng hạn như: giáo dân, lương dân, đoàn kết lương – giáo.

Tín đồ: Khái niệm tín đồ được sử dụng trong bài viết theo nghĩa là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo đó thừa nhận.

Thờ: Trong bài viết sử dụng khái niệm thờ theo nghĩa là tỏ lòng tôn kính thần thánh, tổ tiên hay những vật thiêng, chẳng hạn như: thờ Phật, thờ Thần, thờ Thành hoàng làng, thờ hồn cây đa, thờ ma cây gạo, thờ ông bà, v.v…bằng những nghi lễ cúng bái theo tín ngưỡng hay theo phong tục. Khái niệm thờ thường đi đôi với khái niệm cúng tạo nên một từ ghép là thờ cúng, chẳng hạn như: thờ cúng tổ tiên, thờ cúng Vua Hùng, thờ cúng những người có công với nước với dân,v.v…

Tâm linh: Hiện có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tâm linh. Theo quan điểm của tác giả Minh Chi, khái niệm tâm linh dùng để chỉ cho cái

gì cao cả nhất, sâu sắc nhất trong tâm con người. GS.TS Nguyễn Ngọc Kha thì cho rằng, trên góc độ tôn giáo học, tâm linh là phần còn lại sau khi con người đã chết. Còn Từ điển tiếng Việt lại định nghĩa tâm linh là “khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với mình, theo quan điểm duy tâm” [1, tr.297].

Mặc dù chưa có sự thống nhất trong cách hiểu về khái niệm tâm linh cả trong khoa học và trong cuộc sống thường nhật, nhưng thuật ngữ này hiện nay trở thành một từ cửa miệng của nhiều người với những nội hàm rất khác nhau. Vì vậy, theo chúng tôi, cần thiết định khái niệm này trong chừng mực bao quát nhất có thể được. Dù có ý thức rõ ràng hay không, chúng ta đều hiểu tâm như nguồn gốc phát sinh của tư duy, tình cảm, ý chí, ham muốn,v.v… hay nói gọn lại, tâm là nguồn gốc mọi hoạt động của đời sống tinh thần. Còn linh hay linh thiêng là cái có phép lạ, là những điều làm cho người ta phải kính sợ, là sự tác động hay hiệu lực “vật chất” lên cuộc sống của con người hay tồn tại của vật thể.

Mẫu: Theo GS.TS. Ngô Đức Thịnh, Mẫu là một danh xưng gốc từ Hán – Việt, còn từ thuần Việt là Mẹ. Nghĩa ban đầu của Mẫu hay Mẹ đều dùng để chỉ người phụ nữ đã sinh ra một người nào đó gọi là con. Ngoài ý nghĩa thông thường này, Mẫu – Mẹ còn bao hàm ý nghĩa tôn xưng, tôn vinh, chẳng hạn như Mẹ Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh, v.v…

Đạo Mẫu: Đây là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần [thường gọi là các Thánh Mẫu]. Đạo Mẫu được thờ tại các đền, phủ. Ở miền Bắc Việt Nam, hầu hết trong các chùa đều có bàn thờ Mẫu [Tiền Phật, hậu Mẫu]. Đạo Mẫu Việt Nam là một tín ngưỡng bản địa có nguồn gốc từ lâu đời cùng với những ảnh hưởng ngoại lai từ đạo giáo, tín ngưỡng lấy việc tôn thờ Mẫu [Mẹ] làm thần tượng với các quyền năng sinh sôi, bảo vệ và che chở cho con người. Tín ngưỡng mà ở đó đã được giới tính hoá mang khuôn hình của người Mẹ, là nơi mà ở đó người phụ nữ Việt Nam đã gửi gắm những ước vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, ràng buộc của xã hội Nho giáo.

Thánh Mẫu: Khái niệm Thánh Mẫu dùng để chỉ các vị nữ thần được tôn thờ trong đạo Mẫu, chẳng hạn như Thánh Mẫu Tây Thiên.

Tam phủ: Đây là một khái niệm trong đạo Mẫu chỉ ba miền khác nhau trong vũ trụ, bao gồm: Thiên phủ [miền trời]; Nhạc phủ [miền rừng núi]; Thoải phủ hay Thủy phủ [miền sông nước]. Mỗi phủ do một vị Thánh Mẫu cai quản: Mẫu Thượng Thiên [Thượng Thiên Thánh Mẫu] cai quản Thiên Phủ; Mẫu Thoải [Thoải Thánh Mẫu] cai quản Thoải phủ; Mẫu Thượng Ngàn [Thượng Ngàn Thánh Mẫu] cai quản Nhạc phủ.

Mẫu Tam phủ: Khái niệm Mẫu Tam phủ dùng để chỉ ba vị Thánh Mẫu trong hệ thống tín ngưỡng thờ MẫuViệt Nam, gồm: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải. Mỗi vị Thánh Mẫu cai quản một phủ hay một miền trong vũ trụ. Mẫu Thượng Thiên là vị thần sáng tạo ra bầu trời, trước hết là đại diện cho nguồn sinh lực vô biên, cốt lõi của sự sống và mọi nguồn hạnh phúc. Mẫu Thượng Ngàn là mẹ thế gian gắn với người Việt từ thời nguyên thủy. Trước đây, bà không chỉ có mặt ở rừng núi mà còn có mặt ở khắp mọi miền theo cơ cấu của làng xóm cổ truyền. Mẫu Thoải là vị thần sáng tạo ra mọi miền của nước, biển, sông, suối, đầm, hồ. Bà được người nông dân Việt hết sức kính trọng, hệ thống thờ ngài và các thần linh liên quan có mặt hầu như ở khắp mọi nơi, như một sự đảm bảo cho nguồn nước nông nghiệp luôn được đầy đủ.

Tứ phủ: Đây là một khái niệm trong đạo Mẫu chỉ bốn miền khác nhau trong vũ trụ, bao gồm: Thiên phủ [miền trời]; Nhạc phủ [miền rừng núi]; Thoải phủ hay Thuỷ phủ [miền sông nước] và Địa phủ [miền đất]. Mỗi miền do một Thánh Mẫu cai quản.

Mẫu Tứ phủ: Khái niệm Mẫu Tứ phủ dùng để chỉ bốn vị Thánh Mẫu trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu Việt Nam, gồm: Mẫu Thượng Thiên, Mẫu

Thượng Ngàn, Mẫu Thoải và Mẫu Địa [Địa Tiên Thánh Mẫu] cai quản Địa phủ [quản lí vùng đất đai, là nguồn gốc cho mọi sự sống].

Giáo hội Phật giáo Việt Nam [GHPGVN]: Trong bài viết, tên gọi này dùng để chỉ tổ chức Phật giáo duy nhất được thành lập vào năm 1981 và đang tồn tại cho tới hiện nay, đại diện cho tăng ni, Phật tử Việt Nam về mọi mặt trong quan hệ đối nội và đối ngoại.

Hòa thượng: Trong bài viết khái niệm hòa thượng được sử dụng theo nghĩa là hàng giáo phẩm Phật giáo có tuổi đời từ 60 và tuổi đạo từ 40 trở lên; có đạo hạnh và công đức với đạo pháp và dân tộc, được GHPGVN tấn phong theo Hiến chương của Giáo hội và được Nhà nước thừa nhận.

Pháp chủ: Là Hòa thượng được Đại hội toàn quốc GHPGVN suy tôn làm thành viên của Hội đồng Chứng minh, được Hội đồng Chứng minh suy cử làm người đứng đầu Ban Thường trực Hội đồng Chứng minh và được Nhà nước thừa nhận.

Thượng tọa: Là hàng giáo phẩm có tuổi đời từ 45, tuổi đạo từ 25 trở lên, có đạo hạnh và công đức với đạo pháp và dân tộc, được GHPGVN tấn phong theo Hiến chương của Giáo hội và được Nhà nước thừa nhận.

Đại đức: Khái niệm đại đức được dùng để chỉ nam tu sĩ Phật giáo đã thụ giới tỳ kheo, nghĩa là đã thụ 250 giới theo luật Phật và theo quy định của GHPGVN.

Ni sư: Khái niệm ni sư được sử dụng theo nghĩa là hàng giáo phẩm của Ni giới [tín đồ Phật giáo giới nữ] có tuổi đời từ 45, tuổi đạo từ 25 trở lên có đạo hạnh và công đức với đạo pháp và dân tộc, được GHPGVN tấn phong theo Hiến chương của Giáo hội và được Nhà nước thừa nhận.

Ni trưởng: Khái niệm ni trưởng được sử dụng trong bài viết theo nghĩa là hàng giáo phẩm ni sư có tuổi đời từ 60 và tuổi đạo từ 40 trở lên, có đạo hạnh và công đức với đạo pháp và dân tộc, được GHPGVN tấn phong theo Hiến chương của Giáo hội và được Nhà nước thừa nhận. Trong dân gian còn gọi là sư cụ.

Công giáo: Trong Kitô giáo có bốn nhánh chính: Công giáo, Chính Thống giáo, Tin Lành giáo và Anh giáo. Trong bốn nhánh đó, Công giáo là nhánh lớn nhất. Ở Việt Nam, từ khi du nhập đến nay, nhánh này được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau như: Thiên Chúa giáo, đạo Gia Tô, đạo Cơ Đốc, Công giáo, v.v…Trong bài viết này chúng tôi sử dụng khái niệm Công giáo.

Giáo phận: Theo Từ điển Công giáo của Hội đồng Giám mục Việt Nam, giáo phận là một cộng đoàn Kitô hữu trong một khu vực nhất định được trao phó cho một giám mục chăm sóc, với sự cộng tác của linh mục đoàn. Giáo phận còn được gọi là giáo hội địa phương.

Giáo xứ: là thành phần của giáo phận, đơn vị cơ sở của Giáo hội Công giáo do linh mục chính xứ trông coi việc đạo cho giáo dân với sự giúp việc của một hoặc nhiều linh mục phó xứ, dưới quyền của giám mục giáo phận.

Giám mục: Theo Từ điển Công giáo của Hội đồng Giám mục Việt Nam, giám mục là người kế vị các thánh tông đồ để chăm sóc mục vụ cho công đoàn Kitô hữu. Thông thường giám mục là người đứng đầu giáo phận. Trong giáo phận, cùng lúc có thể tồn tại ba phẩm cấp giám mục: giám mục chính tòa, giám mục phó, giám mục phụ tá. Người Công giáo Việt Nam thường gọi giám mục bằng Đức Cha hay Đức Giám mục. Trong bài viết chúng tôi sử dụng khái niệm giám mục.

Linh mục: Theo Từ điển Công giáo của Hội đồng Giám mục Việt Nam, linh mục là cộng tác viên của giám mục, liên kết với hàng giám mục trong phẩm chức tư tế và tùy thuộc các ngài trong công tác mục vụ. Linh mục được mời gọi chia sẻ trách nhiệm với giám mục về giáo hội địa phương: rao giảng Phúc Âm, hướng dẫn các tín hữu, cử hành phục vụ, chăm sóc cộng đoàn giáo xứ hay một công việc phục vụ Hội Thánh. Người Công giáo Việt Nam gọi linh mục là cha và xưng mình là con.

Linh mục chính xứ: là người cai quản chính, coi sóc mục vụ giáo xứ dưới quyền của giám mục giáo phận. Người Công giáo Việt Nam gọi linh mục chính xứ là linh mục quản xứ, cha xứ, cha chính xứ, v.v… Trong bài viết chúng tôi sử dụng khái niệm linh mục chính xứ.

Đạo Tin Lành: Đây là những cộng đoàn Kitô giáo được hình thành và phát triển trong cuộc Cải cách tôn giáo ở Châu Âu, bắt đầu từ thế kỷ XVI do Martin Luther và John Calvin khởi xướng và lãnh đạo. Đạo Tin Lành có rất nhiều giáo phái. Hiện nay, ở Việt Nam có hai Hội Thánh là Hội Thánh Tin Lành Việt Nam [miền Bắc] và Hội Thánh Tin Lành Việt Nam [ miền Nam] cùng một số giáo phái nhỏ lẻ khác.

Mục sư: Đây là một trong những chức danh chính của các giáo sĩ trong các Hội Thánh của đạo Tin Lành. Chức năng chính của mục sư là giảng Kinh Thánh và quản trị Hội Thánh cơ sở. Để được bổ nhiệm là mục sư, họ là người đã tốt nghiệp trường Kinh Thánh, được bổ chức truyền đạo ít nhất hai năm và được Hội đồng phong mục sư phong chức.Theo giới luật của đạo Tin Lành, mục sư là người chăn chiên nhưng không có quyền thay mặt Chúa Kitô ban phúc, xá tội. Và giới luật cũng không áp dụng luật độc thân cho mục sư.

Hiện tượng tôn giáo mới: Trong bài viết, khái niệm hiện tượng tôn giáo mới được sử dụng để chỉ các hiện tượng tín ngưỡng mới xuất hiện ở nước ta nói chung và trên địa bàn Vĩnh Phúc nói riêng từ cuối những năm 80 đầu những năm 90 thế kỷ XX cho tới nay như: Long hoa Di lặc, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Hội Tiên Rồng, Tổ tiên Chính giáo, Thanh Hải Vô thượng sư, v.v…mà có người còn gọi là đạo lạ, tà đạo. Tuy nhiên, theo GS. Đặng Nghiêm Vạn, giới khoa học đều gọi những hiện tượng tôn giáo mới nảy sinh là phong trào hay hiện tượng tôn giáo mới, chứ không gọi là tín ngưỡng hay niềm tin tôn giáo. Vấn đề tín ngưỡng hay tôn giáo còn cần được thảo luận thêm.

Cần phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan trong sinh hoạt văn hóa hiện nay

Trong sinh hoạt đời sống văn hóa hiện nay một số bộ phận dân cư còn đang bị nhầm lẫn giữa tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan,… Để phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan, chúng tôi xin giới thiệu những nét đặc trưng để phân biệt như sau:

Tín ngưỡng mang tính chất là niềm tin, là lối sống, là phong tục tập quán, tình cảm của con người qua nhiều thế hệ, niềm tin của con người vào tín ngưỡng như là một nhu cầu tinh thần tốt đẹp, tín ngưỡng mang tính chất bền vững trong đời sống tinh thần của xã hội…đó còn là những giá trị đạo đức, văn hoá với tinh thần nhân đạo, hướng thiện làm trong sáng hơn tâm hồn con người. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua; tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch sử cụ thể, nó chứa đựng một số giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý con người, có tác dụng điều chỉnh con người như khuyên làm điều tốt, điều thiện, điều có ích, răn bỏ điều ác. Mê tín dị đoan là niềm tin cuồng vọng của con người vào các thế lực siêu nhiên đến mức mê muội, có những hành vi cực đoan, thái quá, phản văn hoá, làm cho con người trở nên mù quáng, mất đi sức mạnh ý chí, tin vào số phận vào các thế lực thần bí, không có thật... hiện tượng này làm cho con người không phát triển được, rơi vào tình trạng trì trệ, mông muội với những hủ tục bảo thủ, lạc hậu…

[Miếu Đồng Vệ- xã Đại Đồng]

Tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan có những điểm giống nhau như: Đều là niềm tin của con người vào những hiện tượng siêu nhiên, thần bí, hư ảo và không có thực. Tôn giáo và tín ngưỡng đều tin vào những điều mà mắt mình không nhìn rõ, tai mình không nghe thấy hình hài, giọng nói của đối tượng thờ cúng. Tôn giáo, tín ngưỡng đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trên cơ sở giáo lý tôn giáo và các loại hình sinh hoạt tín ngưỡng. Những người có tôn giáo [Phật giáo, Thiên chúa giáo, đạo Tin lành,…] và có sinh hoạt tín ngưỡng dân gian như: thờ cúng tổ tiên, thờ Thành hoàng, thờ Mẫu,…đều tin vào những điều mà tôn giáo đó và các loại hình tín ngưỡng đó truyền dạy, mặc dù họ không hề được trông thấy Chúa Trời, đức Phật hay cụ kỵ tổ tiên hiện hình và cũng không được nghe giọng nói của các đấng linh thiêng đó. Trong xã hội hiện nay vẫn còn những hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa lý giải được, do đó, trước những sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần bí.

[Lễ hội đền Ngòi xã Lũng Hòa]

Bên cạnh đó, trong xã hội còn có sự cách biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư. Cho nên, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, trông chờ, ỷ lại và cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên, chính vì thế mà con người luôn có niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên này để giải toả những bất trắc trong cuộc sống.

Những điểm khác nhau của tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan: Về tín ngưỡng, tôn giáo nó mang tính chất là niềm tin, là lối sống, là phong tục tập quán và tình cảm của con người. Hiện nay, tín ngưỡng đó được thể hiện qua một số nét phong tục lưu truyền bao đời nay đó là tục thờ cúng tổ tiên, giỗ chạp, thờ thành hoàng, thờ mẫu…ở trong mỗi gia đình người Việt đều lập một bàn thờ, thờ cúng tổ tiên, thờ cúng những người thân đã khuất để thể hiện sự hiếu lễ với người đã khuất, sự biết ơn của con cháu với tổ tiên, nhằm giáo dục các giá trị truyền thống gia phong của mỗi gia đình. Ngoài ra, vào các ngày rằm, mùng một nhiều người còn đến đền, chùa, đình, miếu để cầu phúc, cầu bình an cho bản thân và gia đình, nó thể hiện nét đẹp trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của cộng đồng.Xét về mục đích, nếu sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo có mục đích là thể hiện nhu cầu của đời sống tinh thần, đời sống tâm linh, thì ngược lại người hoạt động mê tín dị đoan lợi dụng vào tôn giáo, tín ngưỡng và các đối tượng mê muội, mất niềm tin vào chính họ và cuộc sống của họ để nhằm mục đích kiếm tiền, đem lại thu nhập cho gia đình và bản thân họ là chính. Nếu sinh hoạt tín ngưỡng có cơ sở thờ tự riêng như: chùa, đình, từ đường, miếu,…, thì những người hoạt động mê tín dị đoan thường phải lợi dụng một không gian nào đó của những cơ sở thờ tự để hành nghề hoặc hành nghề tại gia đình của họ. Những người có sinh hoạt tín ngưỡng thường sinh hoạt định kỳ tại cơ sở thờ tự [vào các ngày mùng một, ngày rằm hàng tháng tại đình, chùa, đền miếu, ngày giỗ tổ tiên, ông bà, bố mẹ,người thân đã khuất…] thì những người hoạt động mê tín dị đoan thường hoạt động không có định kỳ, vì người đi xem bói chỉ gặp thầy bói khi có những việc bất thường xảy ra như: mất của, sinh con đẻ cái, chết, ốm đau, hỏa hoạn, tai nạn và bế tắc trong cuộc sống,.. Nếu sinh hoạt tín ngưỡng được pháp luật cho phép, được xã hội thừa nhận tạo điều kiện cho thực hành, thì hoạt động mê tín dị đoan bị xã hội lên án, phê phán, bài trừ.


[Đình Phúc Lập ngoài xã Tam Phúc]

Mối quan hệ giữa tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan: Tín ngưỡng với mê tín dị đoan có một số điểm khác biệt nhưng cũng có một số điểm tương đồng. Chính từ những điểm tương đồng này khiến chúng có mối quan hệ với nhau, mối quan hệ này thể hiện: Các nhà truyền giáo của các tôn giáo phải dựa vào tín ngưỡng bản địa để truyền bá và thực hành vào trong giáo hội, tôn giáo của mình. Về phía cộng đồng có đời sống tín ngưỡng cũng học hỏi được một số điểm phù hợp của một số tôn giáo về nghi thức hành lễ, về phẩm phục, về cách bài trí nơi thờ tự,..; đối với hoạt động mê tín dị đoan, do không có cơ sở thờ tự chính thức, những người hành nghề đã mượn cơ sở thờ tự của tôn giáo và cơ sở thờ tự của tín ngưỡng dân gian để hành nghề. Cũng do hành nghề tại các cơ sở thờ tự tôn giáo và tín ngưỡng dân gian mà trong một mức độ nào đó, “độ tin cậy” của những người mê tín dị đoan có thể được nâng cao; một số tôn giáo và tín ngưỡng dân gian [tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ Thành hoàng] dựa vào sự thiếu hiểu biết của một bộ phận dân cư đã sử dụng một số thủ thuật của mê tín dị đoan để tăng thêm sự thần bí của một số lễ thức ngoài tôn giáo và tín ngưỡng như: xin âm dương, rút thẻ, bói quẻ…mà tôn giáo, tín ngưỡng nào đó đã vay mượn.

Tóm lại, tôn giáo, tín ngưỡng và mê tín dị đoan có những điểm giống và khác nhau, chúng có mối quan hệ qua lại với nhau, mối quan hệ này được tạo ra bởi những người trực tiếp hoạt động trên những lĩnh vực đó. Phân biệt được sự giống, khác nhau và mối quan hệ giữa chúng sẽ giúp chúng ta có cơ sở để góp phần phát huy mặt tích cực của tôn giáo, tín ngưỡng và khắc phục mặt tiêu cực của của chúng và bài trừ được mê tín dị đoan.

Để góp phần quản lý, hướng dẫn tổ chức hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng theo đúng quy định của pháp luật, đề nghị các cấp, các ngành tăng cường công tác tuyên truyền để người dân hiểu và thực hiện tốt Pháp lệnh tôn giáo, tín ngưỡng thực hiện quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo.Vận động, hướng dẫn các tôn giáo thực hiện hành đạo theo đúng quy định của pháp luật, đoàn kết giữa các tôn giáo, phát huy những giá trị văn hóa đạo đức của tôn giáo phù hợp với giai đoạn mới theo phương châm sống “Tốt đời, đẹp đạo”, “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc” và tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện, nhân đạo.Bảo tồn, phát huy và trao truyền các giá trị truyền thống về văn hóa đạo đức, văn hóa ứng xử, lối sống lành mạnh, xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan. Nâng cao trình độ dân trí và hướng dẫn sâu rộng trong nhân dân về sự khác nhau của tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan, tăng cường kiểm tra, phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi và có những biện pháp xử phạt nghiêm minh với những đối tượng hành nghề mê tín dị đoan, tàng trữ mua bán các tài liệu liên quan đến hoạt động mê tín dị đoan. Ngành Công an và văn hóa thông tin cần phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành liên quan làm tốt công tác quản lý nhà nước để giảm thiểu các hoạt động mê tín dị đoan, ngoài ra ngành văn hóa thông tin cần có trách nhiệm xây dựng và hướng dẫn nhân dân những nghi thức phù hợp trong tôn giáo, tín ngưỡng.Nêu cao vai trò làm chủ và ý thức tự giác của nhân dân, đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong cộng đồng dân cư… trong đó chú trọng bài trừ các tệ nạn mê tín dị đoan.

Lê Văn Thắng

Phó trưởng Phòng Văn hóa và Thông tin

Video liên quan

Chủ Đề