Tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ núi Đôi

Bạn đang gặp khó khi làm bài văn Bình giảng bài thơ Núi đôi? Đừng lo! Hãy tham khảo những bài văn mẫu đã được tuyển chọn và biên soạn với nội dung hay nhất của THPT Ninh Châu dưới đây để nắm được cách làm cũng như bổ sung thêm vốn từ ngữ nhé. Chúc các bạn có một tài liệu bổ ích!

      Bài thơ là nỗi xúc động chân thực của tác giả về một câu chuyện có thật ở vùng Xuân Dục trong kháng chiến chống Pháp. Giọng thơ tự sự đậm đà phong vị dân gian làm đẹp thêm mối tình kháng chiến, đồng thời tạo xúc động trước sự hy sinh của người con gái anh dũng.

      Mối tình nên thơ gắn với hoài niệm về thời đẹp nhất của tuổi thanh xuân:

Bạn đang xem: Bình giảng bài thơ Núi đôi

      Tác giả dẫn dắt vào không gian trong veo hương đồng nội, với những địa danh thân thương gắn kết đôi bạn trẻ: Xuân Dục, Đoài Đông, Núi Đôi…giản dị và tự nhiên tạo thành thương nhớ. Tình người, tình đất, tình quê lồng vào nhau:

      Câu chuyện tình hết sức riêng tư, chân thật đã được gắn vào với hoàn cảnh quê hương ngày giặc chiếm đã đan cài vào đó bao tâm trạng uất nghẹn căm hờn và lo lắng bồn chồn của người dân núi Đôi. Cảm xúc này từng được diễn tả trong bài Đất Nước [1955] của Nguyễn Đình Thi:

      Từ tâm trạng chàng trai trong bài thơ, ta thêm hiểu vẻ đẹp tâm hồn anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp luôn thắm đượm ân tình với quê hương, người thân. Tâm hồn người chiến sĩ luôn tồn tại một không gian hoài niệm, nhung nhớ đến cháy lòng – khơi lên tình cảm yêu thương và căm hờn trong lòng chiến sĩ, làm rõ vẻ đẹp giàu chất nhân văn. Lời dẫn chuyện của Vũ Cao tái hiện nguyên vẹn không khí những ngày kháng chiến, đánh thức bao cảm xúc của một thời bi hùng mà cũng ắp tràn thương nhớ của bao người. Sự hiện diện thường trực của hình tượng núi Đôi xuyên suốt những ngày chiến đấu là cách cắt nghĩa trọn vẹn ân tình với quê hương và thổi bùng ngọn lửa tình yêu mãnh liệt với cô gái Xuân Dục. Bao tâm trạng được diễn tả: khắc khoải ngóng đợi, “trăm nghìn căm uất”, náo nức ngày trở lại. Tự thân những lời thơ đã làm đẹp thêm bao nhiêu bóng hình người yêu trong tâm tưởng người chiến sĩ:

      Chính vì vậy mà nỗi đau xót sẽ làm người đọc càng day dứt, như một sự tích tụ để vỡ oà trước sự mất mát. Hơn bao giờ hết, người đọc nhận ra tội ác của kẻ thù một cách cụ thể đến từng số phận: bắt đầu từ sự xuất hiện của chúng là một dự cảm mơ hồ, tiếc nuối:

      Để rồi trở thành sự ngóng đợi thắc thỏm: sương trắng người đi lại nhớ người. Mong đợi cháy bỏng đến khi thành hiện thực thì lại phải đối mặt với nỗi đau lớn nhất “giặc giết em rồi, dưới gốc thông”. Nỗi đau vụt đến quặn xé đã được diễn tả xúc động:

      Hình ảnh kỷ niệm yêu thương đã vụt biến thành chứng tích đau thương, nỗi đau rất thật ấy không của riêng ai bởi không chỉ là sự mất mát của anh mà là của cả quê hương, bởi “em sống trung thành, chết thủy chung”. Đó không hề là cảm giác bi lụy mà mang tính chất bi kịch, giúp người đọc ý thức được giá trị của chiến thắng. Nỗi đau càng lớn hơn khi được kể lại, nhưng sự vô tình ấy lại làm ta nhận rõ về người liệt sĩ – người yêu của anh chiến sĩ:

      Mỗi lời kể như dao cứa vào tim, nhưng lạ thay lại làm ta thêm yêu mến, trân trọng người con gái sắt son anh dũng. Nỗi đau riêng hoà vào nỗi đau chung, ta hiểu thêm hơn về bản chất của tình yêu trong kháng chiến, với những con người bình thường mà cao cả đã vượt lên tình riêng, sẵn sàng cống hiến tất cả cho quê hương. Hình tượng người con gái Núi Đôi còn để lại suy ngẫm sâu sắc về sự hy sinh. Đó không phải là mất mát bình thường mà có khả năng biến đau thương thành sức mạnh. Bóng hình người con gái hoà vào bóng hình quê hương, thúc giục tâm tư của người còn sống, thành ý chi và quyết tâm vượt lên bất hạnh, hồi sinh sự sống. Với ý nghĩa đó, cô gái núi Đôi đã thành biểu tượng bất tử:

      Tình yêu bị kẻ thù hủy hoại nhưng không hề suy xuyển, mà hoà thành tình yêu lớn lao với quê hương, xóm làng, cha mẹ…Quê hương hồi sinh, đau xót nguôi ngoai nhưng không đem đến với con người sự quên lãng mà đã nhân lên thành tình cảm cách mạng, thành lời thề thiêng liêng trước Núi Đôi:

      Nhân vật trữ tình trong bài thơ đã hoá thân vào “vạn tấm lòng”, tình cảm nâng tầm thành tình cảm cách mạng. Tác giả không hề mô tả nước mắt trước bi kịch mà hình dung ra cuộc chiến đấu của người chiến sĩ lấp lánh ánh sáng bất tử của người con gái núi Đôi – sao trên mũ là sao sáng dẫn đường, em là hoa trên đỉnh núi thơm mãi bốn mùa. Làn hương ấy, vẻ đẹp ấy còn kết đọng mãi trong lòng người, nhắc mãi vẻ đẹp kết tinh từ những ngày chống thực dân Pháp hào hùng để làm nên sức mạnh chiến đấu chống đế quốc Mỹ, hướng về tương lai toàn thắng của quê hương.

      Bài thơ Núi Đôi là sự diễn tả câu chuyện tình yêu xúc động trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Câu chuyện trong thơ mang màu sắc dân gian. Hai người yêu nhau. Tình yêu của họ gắn với tình yêu đất nước, quê hương.

      Mở đầu bài thơ là sự hoài niệm về một thời đẹp nhất của tuổi trẻ, tuổi thanh xuân:

Xem thêm :  Nét đẹp riêng trong phong cách phụ nữ hiện đại

      Hai câu thơ mở đầu là sự dẫn dắt vào một không gian trong veo với hình tượng “Anh” và “Em”. Những vần thơ tự nhiên, giản dị, Tình yêu của họ không biết bắt đầu từ bao giờ, nhưng nó gắn bó với cánh đồng, với đồi núi của làng quê Xuân Dục – Đoài Đông.

      Sự miêu tả câu chuyện tình yêu hết sức riêng tư, chân thật gắn liền với hoàn cảnh quê hương đất nước. Hình ảnh “núi chồng” và “núi vợ” là hình tượng tạo nên ngọn “Núi đôi” tượng trưng cho niềm hạnh phúc và sự đau xót lắng động.

      Núi đôi không phải chỉ có những lời ca ngợi tình yêu, ca ngợi những kỉ niệm êm đềm nơi đồng quê Xuân Dục, Đoài Đông mà còn là hình ảnh đau thương của quê hương “Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau”. Và ngày ngừng bắn khi hành quân qua huyện, anh ghé “thăm nhà, thăm núi đôi” nhưng:

      Quân giặc đến, giết chết cả người yêu, giết chế cả tuổi trẻ, ước mơ và hạnh phúc lứa đôi. Nỗi đau đớn, bàng hoàng ấy khiến ai cũng cảm thấy rưng rưng nước mắt. Nỗi đau ấy đến vào lúc anh đang hi vọng nhất.

      Cụm từ “tin sét đánh” thể hiện sự bàng hoàng, của người Anh, người chiến sĩ khi nghe tin người yêu mất. Nhưng hình tượng người chiến sữ trong Núi Đôi không dù đau đớn đến tột cùng nhưng không gục ngã, vẫn luôn cảm thấy tự hào:

      Dù cuộc đời em trải qua thời gian ngắn ngủi, nhưng vô cùng đẹp đẽ và cao cả để lại trong Anh nỗi nghẹn ngào và kính phục.

      Những kỉ niệm về người yêu lại ùa về, những hình ảnh gắn với câu chuyện tình của em và anh thật chân thật và mộc mạc. Đó là “dốc núi”, hàng thông, bờ cỏ..nay chỉ còn “anh ngước nhìn”. Câu thơ:

      Trong tâm trí của những người yêu nhay hình ảnh núi đôi là hình ảnh cặp đôi sẽ luôn gắn kết với nhau. Nhưng với anh “núi vẫn đôi” mà “anh mất em” ngọn núi đôi vẫn đứng đó, chỉ có anh là mất đi người yêu. Nỗi mất mát, chua xót thật không gì diễn tả được.

      Từ tâm trạng chàng trai trong bài thơ, giúp ta phần nào hiểu được vẻ đẹp tâm hồn anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp luôn thắm đượm ân tình với quê hương, người thân. Tâm hồn người chiến sĩ luôn tồn tại một không gian hoài niệm, nhung nhớ đến cháy lòng – khơi lên tình cảm yêu thương và căm hờn trong lòng chiến sĩ, làm rõ vẻ đẹp giàu chất nhân văn.

      Lời dẫn chuyện của nhà thơ Vũ Cao tái hiện nguyên vẹn không khí những ngày kháng chiến, đánh thức bao cảm xúc của một thời bi hùng mà cũng ắp tràn thương nhớ của bao người. Sự hiện diện thường trực của hình tượng núi Đôi xuyên suốt những ngày chiến đấu là cách cắt nghĩa trọn vẹn ân tình với quê hương và thổi bùng ngọn lửa tình yêu mãnh liệt với cô gái Xuân Dục.

Xem thêm :  Stt yêu đơn phương hay ❤️ status đơn phương ngắn chất

      Nỗi đau xót sẽ làm cho người đọc, càng day dứt, mọt sự tích tụ vỡ ào trước sự mất mát. Từ đó người đọc nhận ra tội ác của kẻ thù. Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau

Nỗi đau vụt đến quặn xé đã được diễn tả xúc động:

      Hình ảnh kỉ niệm yêu thương, đã vụt biến thành chứng tích tụ đau thương, nỗi đau ấy rất thật, là nỗi đau mất mát không chỉ riêng anh mà là của cả quê hương, của cả đất nước.

      Mỗi một lời kể càng làm cho nỗi đau, nỗi mất mát ấy càng lớn:

      Mỗi lời kể càng làm thêm đau đớn và càng làm cho ta thêm kính trọng, tự hòa về hình ảnh của một người con gái, một người chiến sĩ dũng cảm. Nỗi đau riêng hoà vào nỗi đau chung, ta hiểu thêm hơn về bản chất của tình yêu trong kháng chiến, với những con người bình thường mà cao cả đã vượt lên tình riêng, sẵn sàng cống hiến tất cả cho quê hương.

      Nhân vật cô gái trong bài thơ Núi Đôi đã hóa thân thành một hình tượng , người chiến sĩ cách mạn. Cả bài thơ là sự mất mát, đau thương nhưng không hề mô tả một giọt nước mắt nào, từ đó hình dung được sức mạnh phi thường của người lính, người chiến sĩ bất tử.

Các em cùng toploigiai tìm hiểu thêm về tác phẩm Núi đôi nhé!

1956

      Núi Đôi được nhà thơ Vũ Cao sáng tác cuối năm 1956 từ một chuyện tình có thật về con người, cảnh vật…Khi Vũ Cao đóng quân ở huyện Sóc Sơn, ngay cạnh núi Đôi. [ Vũ Cao, 1922-2007, quê Liên Ninh,Vụ Bản, Nam Định

—/—

Trên đây là một số bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Núi đôi mà THPT Ninh Châu đã biên soạn. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em có một bài văn thật tốt!

Đăng bởi: THPT Ninh Châu

Chuyên mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12

[Ngâm Thơ] Núi Đôi [ Thơ Vũ Cao ] NSND Thúy Mùi ft. NSND Quốc AnhNhững Bài Hát Chèo Hay://goo.gl/fZxN7jNhững Khúc Ca Tuồng Hay Nhất: //goo.gl/37VeLHTuyển Chọn Bài Hát Văn Hay: //goo.gl/8ojzgTTuyển Tập Những Bài Xẩm Hay Nhất: //goo.gl/fvSN09Tuyển Tập Nhạc Quan Họ Bắc Ninh: //goo.gl/f46VoGTổng Hợp Video Dạy Hát://goo.gl/ty6ajx►Đăng kí theo dõi kênh: //goo.gl/f8cbMG►Website: //www.maivanlang.com►Facebook://www.facebook.com/lang.mai.1?fref=tsLời Bài Hát: Núi Đôi NSND Thúy Mùi ft. NSND Quốc AnhLời: Vũ Cao

Đang cập nhập …

Video liên quan

Chủ Đề