Tại sao Mỹ không khai thác dầu đá phiến

Các ước tính cho thấy các nước Châu Âu có lượng khí đá phiến dự trữ nhiều hơn Mỹ, nhưng vấn đề khai thác từ lâu đã gây tranh cãi vì sự phản ứng của dư luận, không giống như ở khu vực Bắc Mỹ.

Sự phản đối mạnh mẽ của công chúng - cùng với những lo ngại về thuế, sự chậm trễ trong quy định và sản lượng kém từ một số mỏ thử nghiệm - đã khiến các nhà đầu tư từ bỏ việc khai thác khí đá phiến, theo TTXVN.

Các công ty như Exxon Mobil, Chevron và TotalEnergies đã phải từ bỏ các dự án ở Ba Lan sau khi việc thăm dò gây thất vọng. Nguồn khí kém cũng khiến tiến độ ở Đan Mạch bị đình trệ.Bên cạnh đó, ở Châu Âu không tồn tại một số điều kiện để thúc đẩy việc khai thác khí đá phiến như ở Mỹ. Ở hầu hết các quốc gia Châu Âu, nhà nước chứ không phải chủ đất tư nhân có quyền sở hữu nguồn khoáng sản đối với dầu và khí đốt trong lòng đất. Thực tế, điều này có nghĩa là việc khai thác mỏ không mang lại nguồn thu tài chính lớn cho các chủ đất ở Châu Âu. Để thu hút sự ủng hộ của công chúng hơn đối với công nghệ này, Chính phủ Anh và một số công ty trước đây đã đề xuất các khoản thanh toán trực tiếp cho những người bị ảnh hưởng bởi hoạt động khai thác. Tuy nhiên, các tổ chức môi trường đã phản đối mạnh mẽ động thái này, coi các khoản thanh toán như hối lộ. Tình hình không được cải thiện bởi thực tế là mật độ dân số ở Châu Âu cao hơn gấp 3 lần so với ở Mỹ, dẫn đến nổ ra nhiều cuộc biểu tình phản đối. Ngoài ra, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng công nghệ gây nứt vỡ thủy lực vào việc khai thác dầu đá phiến cũng gây ảnh hưởng đến môi trường chủ yếu do phát thải trực tiếp khí cacbonic và mêtan độc hại, cả hai đều là khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh.

Sẽ rất thú vị khi xem liệu giá năng lượng cao kỷ lục cuối cùng có thuyết phục được Châu Âu thay đổi quan điểm về quá trình khai thác khí đá phiến hay không. Một số quốc gia châu Âu đã phải quay trở lại sử dụng than đốt ở mức kỷ lục để duy trì lưới điện, nhưng gây ảnh hưởng đến mục tiêu khí hậu của họ.

Thực hiện : Lại Đoàn

Các ước tính cho thấy các nước châu Âu có lượng khí đá phiến dự trữ nhiều hơn Mỹ, nhưng vấn đề khai thác từ lâu đã gây tranh cãi vì một số lý do.

Khi giá năng lượng tiếp tục tăng cao trên khắp châu Âu, với giá khí đốt tăng 26% vào đầu tuần trước sau khi Nga ngừng cung cấp qua Nord Stream 1, cuộc tranh luận gay gắt về nguồn cung đang bùng phát trở lại trên lục địa này.

Hiện EU có kế hoạch thay thế 2/3 lượng khí đốt nhập khẩu của Nga vào cuối năm nay, bất chấp các nhà phân tích cảnh báo rằng nỗ lực của khối trong việc thay thế nhập khẩu khí đốt của Nga sẽ không đạt được mục tiêu.

Năm 2021, EU nhập khẩu khoảng 155 tỷ mét khối (bcm) khí đốt tự nhiên từ Nga. Thật không may, lượng khí thay thế được đề xuất của khối vào cuối năm 2022 - bao gồm đa dạng hóa LNG (khí tự nhiên hóa lỏng), năng lượng tái tạo, đa dạng hóa đường ống, năng lượng mặt trời,... chỉ đạt khoảng 102 bcm hàng năm, theo dữ liệu từ REPowerEU.

Do đó, những người ủng hộ khai thác mỏ cho rằng tiềm năng khí đá phiến của châu Âu hiện đang cần thiết hơn bao giờ hết, mặc dù Đức, Pháp, Hà Lan, Scotland và Bulgaria đều đã cấm khai thác trước đó. Hiện nay, cuộc tranh luận về vấn đề này đang được hồi sinh bởi những động thái gần đây ở Anh.

Thủ tướng mới của Anh Liz Truss đã thông báo rằng nước này đang dỡ bỏ lệnh cấm khai thác khí đá phiến, vốn được đưa ra vào năm 2019, khi nước này tìm cách tăng cường các nguồn năng lượng trong nước, đồng thời giúp các hộ gia đình và doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc thanh toán các hóa đơn năng lượng tăng cao.

Việc dỡ bỏ lệnh cấm khai thác diễn ra chỉ ba năm sau khi Chính phủ Anh chấm dứt hỗ trợ công nghệ nứt vỡ thủy lực (hydraulic fracturing) sau khi cơ quan giám sát ngành dầu khí xác định rằng “với công nghệ hiện tại không thể dự đoán chính xác xác suất chấn động liên quan đến nứt vỡ”.

Anh chỉ sở hữu hai mỏ khí đá phiến ở Lancashire do Cuadrilla Resources vận hành. Giám đốc điều hành của Cuadrilla, Francis Egan, đã hoan nghênh việc dỡ bỏ lệnh cấm trên, nói: “ Đây là một quyết định hoàn toàn hợp lý và thừa nhận rằng việc tối đa hóa nguồn cung năng lượng trong nước của Anh là rất quan trọng nhằm chúng ta vượt qua cuộc khủng hoảng năng lượng đang diễn ra và giảm nguy cơ nó tái diễn trong tương lai".

Theo ông Egan, nếu không có các biện pháp mạnh như hiện nay, Anh sẽ phải nhập khẩu hơn 2/3 lượng khí đốt của mình vào cuối thập kỷ này, khiến công chúng và các doanh nghiệp Anh có nguy cơ tiếp tục thiếu hụt nguồn cung và giá tăng cao.

Tuy nhiên, bất chấp cuộc khủng hoảng nguồn cung đang diễn ra, phần còn lại của châu Âu khó có khả năng làm theo Anh.

Những lý do chính

Theo ước tính, châu Âu có dự trữ khí đá phiến nhiều hơn Mỹ, nhưng hoạt động khai thác quy mô lớn chủ yếu tập trung ở Ukraine, điều đã giúp Kiev hạn chế sự phụ thuộc vào khí đốt của Nga từ nhiều năm trước.

Nhưng vấn đề khai thác khí đá phiến ở châu Âu từ lâu đã là một chủ đề gây tranh cãi vì sự phản ứng của dư luận, không giống như ở khu vực Bắc Mỹ.

Vào năm 2016, Cuadrilla Resources đã giành được quyền khai thác tới 4 mỏ khí đá phiến ở Anh, chấm dứt cuộc xung đột kéo dài nhiều năm với các chính quyền địa phương.

5 năm trước đó, công ty này đã buộc phải ngừng khoan sau khi Chính phủ Anh đưa ra lệnh cấm một năm đối với hoạt động khai thác do một giàn khoan thăm dò ở Tây Bắc nước Anh gây ra các vụ rung chấn.

Năm 2013, hoạt động khoan của công ty lại bị gián đoạn sau khi hàng trăm người biểu tình ở một thị trấn nhỏ phía Nam London, buộc công ty này phải ngừng hoạt động.

Năm 2012, những người biểu tình ở Zurawlow, một thị trấn ở phía Đông Ba Lan, đã ngăn chặn thành công một địa điểm khai thác khí đá phiến trong khu vực này, trong khi các nhà hoạt động của Tổ chức Hòa bình Xanh cũng ngăn cản thành công việc khai thác một mỏ khí đá phiến ở Đan Mạch.

Sự phản đối mạnh mẽ của công chúng - cùng với những lo ngại về thuế, sự chậm trễ trong quy định và sản lượng kém từ một số mỏ thử nghiệm - đã khiến các nhà đầu tư từ bỏ việc khai thác khí đá phiến. Các công ty như Exxon Mobil, Chevron và TotalEnergies đã buộc phải từ bỏ các dự án ở Ba Lan sau khi việc thăm dò gây thất vọng. Nguồn khí kém cũng khiến tiến độ ở Đan Mạch bị đình trệ.

Bên cạnh đó, ở châu Âu không tồn tại một số điều kiện để thúc đẩy việc khai thác khí đá phiến như ở Mỹ. Ở hầu hết các quốc gia châu Âu, nhà nước chứ không phải chủ đất tư nhân có quyền sở hữu nguồn khoáng sản đối với dầu và khí đốt trong lòng đất.

Ngược lại ở Mỹ, nơi chủ đất có thể hưởng mức lên tới 1/8 doanh thu sản xuất. Thực tế, điều này có nghĩa là việc khai thác mỏ không mang lại nguồn thu tài chính lớn cho các chủ đất ở châu Âu.

Để thu hút sự ủng hộ của công chúng hơn đối với công nghệ này, Chính phủ Anh và một số công ty trước đây đã đề xuất các khoản thanh toán trực tiếp cho những người bị ảnh hưởng bởi hoạt động khai thác. Tuy nhiên, các tổ chức môi trường đã phản đối mạnh mẽ động thái này, coi các khoản thanh toán như hối lộ. Tình hình không được cải thiện bởi thực tế là mật độ dân số ở châu Âu cao hơn gấp 3 lần so với ở Mỹ, dẫn đến nổ ra nhiều cuộc biểu tình phản đối.

Ngay cả sau nhiều thập kỷ công nghệ nứt vỡ thủy lực được áp dụng ở Mỹ, nhiều người châu Âu vẫn xem kỹ thuật này là chưa được thử nghiệm.

Sẽ rất thú vị khi xem liệu giá năng lượng cao kỷ lục cuối cùng có thuyết phục được châu Âu thay đổi quan điểm về quá trình khai thác khí đá phiến hay không. Một số quốc gia châu Âu đã phải quay trở lại sử dụng than đốt ở mức kỷ lục để duy trì lưới điện, nhưng gây ảnh hưởng đến mục tiêu khí hậu của họ.

Ngoài ra, có lý do khiến các nhà môi trường vẫn có thể tiếp tục phản đối: các nghiên cứu đã chỉ ra rằng mặc dù khí đốt tự nhiên sạch hơn than đá và giảm phát thải khí nhà kính, quá trình nung chảy có thể làm suy giảm những lợi ích này.

Quá trình gây nứt vỡ thủy lực cũng gây ảnh hưởng đến môi trường hơn than đốt chủ yếu do phát thải trực tiếp khí cacbonic và mêtan độc hại, cả hai đều là khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh.

05:30' - 09/08/2022

BNEWS Sự nổi lên của Mỹ với tư cách là nhà sản xuất lớn nhất và là nhà xuất khẩu dầu thô lớn từ những năm 2010 làm nảy sinh ý tưởng rằng Mỹ thay thế vai trò dẫn dắt thị trường của Saudi Arabia.

Trang Quỹ nghiên cứu nhà quan sát (ORF) đăng bài viết cho hay trong năm 1985, Nga là nước sản xuất dầu thô lớn nhất với sản lượng 10,8 triệu thùng/ngày, Mỹ đứng thứ hai với 10,5 triệu thùng/ngày và Saudi Arabia đứng thứ ba với trên 3,6 triệu thùng/ngày. Ba nhà sản xuất hàng đầu chiếm khoảng 43% sản lượng dầu toàn cầu.

Đến năm 1992, Saudi Arabia là nhà sản xuất hàng đầu với sản lượng trên 9 triệu thùng/ngày, ghi nhận mức tăng hơn 150% so với sản lượng năm 1985, trong khi sản lượng của Nga giảm hơn 26% trong cùng kỳ xuống chỉ còn hơn 7,9 triệu thùng/ngày và Mỹ giữ vị trí thứ hai mặc dù sản lượng giảm hơn 16%, xuống chỉ còn hơn 8,8 triệu thùng/ngày. Tỷ trọng kết hợp của ba quốc gia giảm xuống còn khoảng 39%. Từ năm 1992-2013, Saudi Arabia giữ vị trí đầu bảng, nhưng năm 2014 Mỹ vượt Saudi Arabia trở thành nhà sản xuất dầu lớn nhất với sản lượng hơn 11,8 triệu thùng/ngày, so với 11,5 triệu thùng/ngày của Saudi Arabia. Năm 2014, sản lượng của Nga chỉ đạt hơn 10,9 triệu thùng/ngày và Mỹ, Saudi Arabia và Nga chiếm hơn 38% sản lượng toàn cầu. Kể từ đó đến nay, Mỹ giữ vị trí đầu bảng với sản lượng hơn 16,5 triệu thùng/ngày trong năm 2021, tiếp theo là Saudi Arabia với 10,95 triệu thùng/ngày và Nga có sản lượng 10,94 triệu thùng/ngày.Về phía xuất khẩu, Saudi Arabia giữ vị trí là nước xuất khẩu dầu thô lớn nhất thế giới kể từ những năm 1980, ngoại trừ một thời gian ngắn đầu những năm 1980 khi Nga là nước xuất khẩu hàng đầu. Năm 2021, Saudi Arabia xuất khẩu hơn 6,2 triệu thùng/ngày dầu thô, so với 4,5 triệu thùng/ngày của Nga và 2,9 triệu thùng/ngày của Mỹ. Vị thế là nhà xuất khẩu dầu lớn nhất thế giới với trữ lượng lớn dầu giá rẻ và vai trò là top 2 nhà sản xuất đánh dấu tầm quan trọng của Saudi Arabia trên thị trường dầu mỏ. Sự nổi lên của Mỹ với tư cách là nhà sản xuất lớn nhất và là nhà xuất khẩu dầu thô lớn từ những năm 2010 làm nảy sinh ý tưởng rằng Mỹ thay thế vai trò dẫn dắt thị trường của Saudi Arabia. Những diễn biến trong năm 2022, đặc biệt là phản ứng hạn chế đối với giá dầu cao từ Mỹ đặt ra một số câu hỏi về quan điểm này.

Saudi Arabia với tư cách là nhà sản xuất dầu thô

Một nhà sản xuất dầu thô có thể tăng sản lượng dầu (ví dụ 1 triệu thùng/ngày) trong một khoảng thời gian ngắn (30-90 ngày). Một nhà sản xuất dầu thô có thể kiểm soát giá bằng cách thiết lập một mức giá giao dịch hiệu quả và ngăn chặn các lực lượng thị trường thay đổi. Trữ lượng dầu lớn, tỷ trọng đáng kể trong sản xuất và xuất khẩu dầu toàn cầu, và vai trò dẫn dắt trong Tổ chức các Nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) đã giúp Saudi Arabia có tiếng nói trong việc điều chỉnh giá dầu thế giới.Saudi Arabia đứng giữa hai lựa chọn, một là đạt được các mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn bằng cách tăng giá dầu, nhưng có thể bị giảm thị phần, hoặc điều chỉnh giá dầu ở mức vừa phải để duy trì thị phần và tăng tính cạnh tranh. Saudi Arabia đã thúc đẩy hệ thống hạn ngạch trong OPEC năm 1982 để các nước có thể hợp tác cắt giảm hoặc mở rộng nguồn cung của OPEC sao cho phù hợp với những biến động của nhu cầu thị trường. 

Đầu những năm 1980, chiến lược cũ dẫn đến giá dầu cao khiến các đối thủ cạnh tranh ngoài OPEC tham gia sản xuất dầu mỏ và làm giảm đáng kể thị phần của Saudi Arabia. Sự gia nhập của nguồn cung dầu ngoài OPEC vào thị trường đẩy giá dầu giảm và đến giữa những năm 1980, ngành công nghiệp “vàng đen” gặp nhiều khó khăn. Năm 1986, giá dầu thô thế giới giảm xuống dưới 10 USD/thùng đe dọa sự tồn vong của ngành công nghiệp dầu mỏ toàn cầu. 

Để đối phó với mối đe dọa đối với ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ, Phó Tổng thống Mỹ George Bush đã đến Saudi Arabia tìm kiếm sự hỗ trợ tăng giá dầu thô thông qua việc cắt giảm sản lượng. Ông Bush lập luận giá dầu thấp đe dọa "an ninh quốc gia" của Mỹ.Kể từ đó, Saudi Arabia đóng vai trò hàng đầu trong các chính sách sản xuất của OPEC và chi phối thị trường dầu toàn cầu bằng cách báo hiệu mức giá mà nước này cố gắng duy trì. Do có tỷ lệ dự trữ trên sản lượng cao nên Saudi Arabia cố gắng duy trì giá dầu ổn định và cạnh tranh trong dài hạn. Tháng 4/1999, Saudi Arabia giảm sản lượng của mình để duy trì giá dầu ở mức cao, sau khi Venezuela và Mexico quyết định tăng sản lượng. Năm 2003, Saudi Arabia tăng sản lượng để đạt được mục tiêu giá cả và bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn cung của Iraq. Năm 2009, khi cuộc khủng hoảng tài chính khiến nhu cầu dầu toàn cầu giảm, Saudi Arabia giảm sản lượng khai thác. Cho đến đầu những năm 2010, Saudi Arabia tiếp tục điều chỉnh sản lượng sao cho giá dầu giữ ở mức ổn định. Sau năm 2014, Saudi Arabia cùng với OPEC bắt đầu chuyển sang chiến lược “chia sẻ thị trường” khi hợp tác cùng các đối tác sản xuất dầu lớn khác, trong đó có Nga, để ép các công ty sản xuất dầu đá phiến có chi phí cao hơn của Mỹ ra khỏi thị trường. Tuy vậy, Saudi Arabia vẫn “mắc kẹt” với chiến lược “tối đa hóa lợi nhuận” khi cố gắng duy trì giá không quá thấp. 

Vị thế của Mỹ có thay đổi?

Trong khoảng thời gian từ năm 1970-2010, Saudi Arabia tăng sản lượng dầu nhiều lần để duy trì sự ổn định giá cả. Sau cuộc cách mạng công nghệ làm tăng sản lượng khai thác dầu và khí đốt từ đá phiến, Mỹ tăng sản lượng khai thác dầu đá phiến (LTO) và chất lỏng khí tự nhiên (NGL). Tháng 2/2015, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) nhận xét Mỹ đã nổi lên như một nhà sản xuất mới để cân bằng thị trường. Tình trạng thâm hụt nguồn cung trên thị trường dầu mỏ chuyển sang thặng dư vào đầu quý II/2012, với thặng dư duy trì trên 1,5 triệu thùng/ngày bắt đầu từ quý I/2015. Phần lớn thặng dư này được cho là do sản xuất dầu phi truyền thống từ các khu vực ngoài OPEC, chủ yếu là Mỹ. Theo báo cáo Triển vọng Năng lượng Thế giới năm 2014 của IEA, sản lượng dầu phi truyền thống của các nước ngoài OPEC chủ yếu là LTO và NGL từ Mỹ tăng từ 400.000 thùng/ngày năm 1990 lên 5,4 triệu thùng/ngày năm 2013, tức là tăng hơn 10 lần chỉ trong hơn một thập kỷ. Năm 2014, IEA nhận xét sản xuất dầu đá phiến ở Mỹ đáp ứng rất nhanh chóng những thay đổi của điều kiện cung và cầu. Cụ thể, sản xuất dầu đá phiến ở Mỹ phá vỡ sự phân công lao động truyền thống giữa các nước OPEC và các nước ngoài OPEC, và khả năng phục hồi sản lượng LTO đảm bảo rằng việc điều chỉnh giá trên thị trường dầu có thể diễn ra nhanh chóng. Tuy nhiên, thực tế không diễn ra như mong đợi. Các nhà sản xuất dầu đá phiến ở Mỹ hoạt động trong môi trường lãi suất thấp. Kỳ vọng lợi nhuận đã khiến các ngân hàng đầu tư hướng nguồn vốn chi phí thấp vào các công ty khai thác và sản xuất dầu mỏ nhỏ của Mỹ. Kết quả là hoạt động tài chính của nhiều công ty tham gia khai thác dầu mỏ được đặc trưng bởi dòng tiền giảm và nợ ngày càng tăng. Các công ty dầu đá phiến của Mỹ phải khoan nhiều giếng hơn Saudi Arabia 100 lần để đạt được sản lượng hàng ngày như Saudi Arabia. Nếu Mỹ thực sự thay thế Saudi Arabia để trở thành nhà sản xuất dầu hàng đầu thì Tổng thống Mỹ đương nhiệm sẽ không đến Saudi Arabia để yêu cầu tăng sản lượng để hạ giá dầu.Nhìn chung "trục dầu" Saudi Arabia, Nga và Mỹ, chiếm 42% sản lượng toàn cầu năm 2021 vẫn là mối quan hệ ba bên tiếp tục ảnh hưởng đến thị trường dầu mỏ trong tương lai gần. Môi trường địa chính trị hiện tại và cuộc chiến nhiên liệu hóa thạch tiếp tục có lợi cho mối quan hệ chặt chẽ giữa Nga và Saudi Arabia hơn là mối quan hệ giữa Saudi Arabia và Mỹ. Điều này làm tăng khả năng giá dầu cao hơn và biến động trên thị trường dầu mỏ gia tăng./.