Tác phẩm từ ấy được xuất bản bao nhiêu lần năm 2024

Có thể có thảo luận liên quan tại . Xin đừng xóa bảng thông báo này cho đến khi kết thúc hoặc đạt được đồng thuận trong vấn đề này. [tháng 3/2022]

Tố Hữu

Chức vụ

Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Bộ trưởng Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nuớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhiệm kỳ7 tháng 2 năm 1980 – 21 tháng 6 năm 1986 6 năm, 134 ngàyChủ tịch [Thủ tướng]Phạm Văn ĐồngKế nhiệmVõ Chí CôngVị trí

Việt Nam

Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV, V

Nhiệm kỳ20 tháng 12 năm 1976 – 21 tháng 6 năm 1986 9 năm, 183 ngày

Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị khóa IV

Nhiệm kỳ1976 – 1980

Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương

Nhiệm kỳ1968 – 1982Tiền nhiệmTrường ChinhKế nhiệmBùi Thanh Khiết

Chủ nhiệm Văn phòng Văn giáo Chính phủ

Nhiệm kỳ1960 – 1/1963Tiền nhiệmđầu tiênKế nhiệmLê Liêm

Bí thư Trung ương Đảng khóa II, III, IV

Nhiệm kỳ1958 – 1980

Thông tin chung

Quốc tịchViệt NamSinh4 tháng 10, 1920 Thừa Thiên HuếMất9 tháng 12, 2002 [82 tuổi] Hà NộiNghề nghiệpnhà thơ, chính kháchDân tộcKinhĐảng chính trịĐảng Cộng sản Việt NamVợVũ Thị ThanhHọc vấnTrường Quốc học Huế

Tố Hữu

Nghề nghiệpNhà thơ, chính kháchNgôn ngữTiếng ViệtQuốc tịchViệt NamDân tộcKinhHọc vấnTrường Quốc học HuếGiai đoạn sáng tác1936-2002Thể loạiThơ cách mạngChủ đềCách mạngTrào lưuPhong trào Thơ mớiTác phẩm nổi bậtTừ ấy, Việt BắcGiải thưởng nổi bậtGiải thưởng Hồ Chí Minh Huân chương Sao vàngPhối ngẫuVũ Thị ThanhCon cái[3] Nguyễn Thanh Hoa [con gái cả] Nguyễn Vũ Phương [con trai thứ] Nguyễn Minh Hồng [con gái út]

Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành [4 tháng 10 năm 1920 – 9 tháng 12 năm 2002] quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, là một nhà thơ tiêu biểu của thơ cách mạng Việt Nam, đồng thời ông còn là một chính khách, một cán bộ cách mạng lão thành. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng [Nay là Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ] nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nguồn gốc bút danh Tố Hữu[sửa | sửa mã nguồn]

Theo lời Tố Hữu tự giải thích về bút danh của mình thì năm 1938, ông sang Lào thăm một người anh. Ở đây ông gặp một cụ đồ người Quảng Bình. Cụ đồ đã đặt cho ông bút danh "Tố Hữu" [chữ Hán: 素有], lấy từ câu nói của Đỗ Thị "Ngô nhi tố hữu đại chí" [吾兒素有大志]. Tố Hữu [素有] có nghĩa là "sẵn có, ý chỉ khí phách tiềm ẩn trong người". Tố Hữu nhận tên gọi này nhưng hiểu theo nghĩa là "người bạn trong trắng", viết bằng chữ Hán là "素友", khác với tên do cụ đồ đặt

Thanh niên[sửa | sửa mã nguồn]

Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại thành phố Huế, là con út trong gia đình. Đến năm 9 tuổi, ông cùng cha trở về sống tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho nghèo nhưng thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất yêu thương con. Cha mẹ đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu.

Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học Huế. Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maksim Gorky,... và qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ [Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu], Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Năm 1936, ông gia nhập Đoàn thanh niên Dân chủ Đông Dương.

Hoạt động cách mạng[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1939, ông bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhà lao Thừa Phủ [Huế] rồi chuyển sang nhà tù Lao Bảo [Quảng Trị] và nhiều nhà tù khác ở Tây Nguyên. 3/1942, ông vượt ngục Đắc Glêi [nay thuộc Kon Tum] rồi tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với Đảng [về hoạt động bí mật ở huyện Hậu Lộc và thôn Tâm Quy, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa]. Đến năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên – Huế.

Năm 1946, ông là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:

  • 1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.
  • 1952: Giám đốc Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ.
  • 1954: Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền.
  • 1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
  • Tại đại hội Đảng lần II [1951]: Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức.
  • Tại đại hội Đảng lần III [1960]: vào Ban Bí thư.
  • Tại đại hội Đảng lần IV [1976]: Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương.
  • Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị.
  • 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng [nay gọi là Phó Thủ tướng] cho tới 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.

Trong thời gian phụ trách mảng văn nghệ, ông là người đã phê phán quyết liệt Phong trào Nhân văn – Giai phẩm [1958]. Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khóa II và VII.

Năm 1969, ông được giao là người sửa cuối cùng bản điếu văn trong tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tố Hữu đã dùng ngòi bút và tâm huyết của mình để giúp cho bản điếu văn hay hơn, đi vào lòng người hơn:

  • Bản dự thảo viết: '"Thưa đồng bào, thưa các đồng chí và các bạn". Tố Hữu sửa lại thành: "Thưa đồng bào và chiến sĩ cả nước, thưa các đồng chí và các bạn".
  • Bản dự thảo viết: "Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất lớn lao này không gì bù đắp được". Tố Hữu sửa lại thành: "Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất này vô cùng lớn lao, đau thương này thật là vô hạn".
  • Bản dự thảo viết: "Phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết". Tố Hữu sửa lại thành: "Phong trào cộng sản quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả loài người tiến bộ mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết".
  • Bản dự thảo viết: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sản sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng vĩ đại, và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta". Tố Hữu bỏ chữ "sản", trở thành: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng vĩ đại, và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta".

Sau năm 1986, Việt Nam tiến hành Đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế. Do phải chịu một phần trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên ông bị miễn nhiệm các chức vụ về quản lý hành chính, chỉ còn giữ chức danh đại biểu quốc hội và các chức danh lãnh đạo về lĩnh vực văn học nghệ thuật.

Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật [giải thưởng cao nhất về văn học tại Việt Nam] ngay trong đợt xét tặng đầu tiên [năm 1996].

Ông qua đời lúc 9 giờ 15 phút 7 giây, ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch.

Đóng góp văn học[sửa | sửa mã nguồn]

Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ, giữa lý tưởng trong trái tim và những câu thơ trên đầu bút. Chặng đường thơ của Tố Hữu là chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là "nhà thơ của cách mạng", "nhà thơ của nhân dân", "ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam", "người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam", "một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ thuật - Tình yêu", "nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng".

Trong 2 cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã sáng tác rất nhiều bài thơ để cổ vũ tinh thần cho chiến sĩ và nhân dân, gắn liền với suốt chiều dài lịch sử kháng chiến. Nổi tiếng nhất là những bài thơ như Việt Bắc, Lượm, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Nam máu và hoa, Từ Cu-ba,...

Thơ Tố Hữu thanh đạm, dịu ngọt, thấm sâu vào tâm hồn mọi thế hệ, từ người "đã ngã xuống cánh rừng trai trẻ" hay "người đến với thơ ông suốt thời thơ ấu" [nhận xét của Nguyễn Khoa Điềm], được lưu giữ và phát huy như một sức mạnh tinh thần, một giá trị văn hóa tiềm ẩn trong con người thời đại Hồ Chí Minh.

Các tác phẩm chính[sửa | sửa mã nguồn]

  • Từ ấy [1937 – 1946], 72 bài thơ
  • Việt Bắc [1947 – 1954], 26 bài thơ
  • Gió lộng [1955 – 1961], 25 bài thơ
  • Ra trận [1962 – 1971], 35 bài thơ
  • Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta [tiểu luận, 1973]
  • Máu và Hoa [1972 – 1977], 13 bài thơ
  • Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật [tiểu luận, 1981]
  • Một tiếng đờn [1978 – 1992], 74 bài thơ
  • Ta với ta [1992 – 1999]
  • Nhớ lại một thời [hồi ký, 2000]
  • Một khúc ca xuân [thơ, 1977]

Bài thơ tiêu biểu của ông[sửa | sửa mã nguồn]

  • Bác ơi
  • Bà má Hậu Giang
  • Bài ca xuân 1961
  • Bài ca quê hương
  • Bầm ơi!
  • Con cá chột nưa
  • Có thể nào yên?
  • Đi đi em!
  • Đời đời nhớ Ông
  • Đợi anh về [tập thơ dịch, 1998]
  • Em ơi... Ba Lan
  • Gặp anh Hồ Giáo
  • Hai đứa trẻ
  • Hồ Chí Minh
  • Hãy nhớ lấy lời tôi
  • Hoa tím
  • Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
  • Kính gửi cụ Nguyễn Du
  • Khi con tu hú
  • Lao Bảo
  • Lạ chưa
  • Lượm
  • Mẹ Suốt
  • Mẹ Tơm
  • Mồ côi
  • Một tiếng đờn
  • Miền Nam
  • Mưa rơi
  • Năm xưa
  • Sáng tháng Năm
  • Stalin! Stalin!
  • Emily, con ơi
  • Ta đi tới
  • Ta với ta
  • Từ ấy
  • Tâm tư trong tù
  • Tương tri
  • Theo chân Bác
  • Tiếng chổi tre
  • Tiếng hát sông Hương
  • Tiếng ru
  • Với Lênin
  • Vườn nhà
  • Việt Bắc [thơ, 1954]
  • Việt Nam máu và hoa
  • Xuân đang ở đâu...
  • Xuân đấy
  • Một khúc ca xuân**

Phong tặng và Giải thưởng văn học[sửa | sửa mã nguồn]

  • Giải nhất Giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 [tập thơ Việt Bắc].
  • Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan năm 1996 cho tập thơ Một tiếng đờn.
  • Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật [đợt 1, 1996].
  • Huân chương Sao Vàng [1994].
  • Nhiều giải thưởng, danh hiệu khác...

Sự kiện rắc rối sau khi ông mất[sửa | sửa mã nguồn]

Ông qua đời năm 2002 vì bệnh nặng. Bài phỏng vấn Tố Hữu với tựa đề: "Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng" của Nhật Hoa Khanh được công bố sau khi ông mất đã gặp phải sự phản đối từ gia đình ông. Vào tháng 4 năm 2004, tài liệu này bắt đầu được phổ biến trong giới văn nghệ, báo chí tại Việt Nam. Vào tháng 5 năm 2004, báo Quân đội nhân dân trích đăng 3 kì một số đoạn từ tài liệu này với nhan đề "Tố Hữu" và "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" [kì số 3 vào ngày 7/5/2004]. Ngoài ra bài này cũng được đăng thành nhiều phần nhỏ trong các báo khác như Nhân dân, Tiền Phong Chủ Nhật, Người Hà Nội... Nội dung bài phỏng vấn có nhắc tới các sự kiện văn hóa trước đây như Nhân văn-Giai phẩm, phong trào sáng tác thơ văn cách mạng, ông Tố Hữu có những lời ca ngợi những người này.

Bài phỏng vấn thực hiện năm 1997, nhưng đến khi phổ biến thì bị bà Vũ Thị Thanh, vợ của Tố Hữu, phủ nhận và cho đó là những tài liệu giả mạo, đã "pha chế nhiều ý kiến riêng, mượn danh Tố Hữu, biến Tố Hữu thành người phát ngôn cho ý mình". Bà yêu cầu cơ quan chức năng vào cuộc để điều tra làm rõ sự giả mạo của tài liệu này, nhưng ông Nhật Hoa Khanh nói có đầy đủ băng ghi âm ghi lại cuộc nói chuyện của ông với Tố Hữu. Bài phỏng vấn là thực hay giả chưa rõ, nhưng thực tế nó đã được nhiều tờ báo chính thống ở Việt Nam đăng lên. Sau đó sự kiện này không được các cơ quan báo chí, văn nghệ nhắc tới nữa.

Bị xuyên tạc thơ[sửa | sửa mã nguồn]

Trên mạng internet sau này đã lan truyền những câu thơ được cho là của Tố Hữu: "Lửa trường kỳ kháng chiến! / Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ / Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong / Cho đảng bền lâu / Thờ Mao chủ Tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt". Dựa vào những câu thơ này, họ tuyên bố rằng Tố Hữu là người độc ác, nhẫn tâm.

Thực ra, bài thơ "Bài ca tháng 10" sáng tác năm 1950 của Tố Hữu không hề có những câu thơ như vậy, bài thơ này kết thúc như sau: "Hoan hô Hồ Chí Minh / Cây hải đăng mặt biển / Bão táp chẳng rung rinh / Lửa trường kỳ kháng chiến!", toàn bộ những câu thơ sau dòng "Lửa trường kỳ kháng chiến" đều là xuyên tạc nhằm bôi nhọ Tố Hữu. Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân cũng nói rằng ông chưa từng gặp những câu thơ này trong các tập thơ Tố Hữu đã đọc.

Đấu tranh chống Nhân văn – Giai phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Tố Hữu, khi đó là Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền được coi là người kiên quyết phản đối và tham gia dập tắt Nhân văn – Giai Phẩm, một phong trào mà ông cho là đã lợi dụng phê bình văn nghệ để tuyên truyền chống phá về chính trị, chống lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, Nhà xuất bản Văn Hoá, 1958

Chủ Đề