Phương pháp luận và học thuyết về phương pháp nhận thức khoa học và

ĐỀ BÀI: Phân tích các trình độ phát triển của nhận thức khoahọcNhận thức khoa học là hình thức nhận thức phát triển cao của con người.Để có thể nhận thức thì chủ thể sử dụng các hình thức phản ánh hiện thực, cácthủ thuật nghiên cứu khoa học, các phương pháp tiếp cận. Chủ thể không thể sửdụng tùy tiện mà phụ thuộc vào những đặc điểm của hiện thực được phản ánh,vào giai đoạn phát triển của nhận thức. Trong bối cảnh đó, chúng ta có thể phântích các trình độ phát triển của nhận thức khoa học theo những nấc thang pháttriển chủ yếu sau đây:1. Quan sát thực nghiệmQuan sát là sự tri giác có mục đích về các đối tượng quan tâm. Quan sátđòi hỏi phải sơ bộ đặt ra mục đích, xác định các cách thực hiện và cách kiểmsoát hành vi của đối tượng. Các giác quan giữ vai trò hàng đầu trong quan sát.Nhờ sự tác động của đối tượng lên giác quan chủ thể mới nhận được thông tintương ứng. Những khả năng các giác quan con người tri giác đối tượng là kháhạn chế. Vì thế, trong quan sát và mở rộng lớp đối tượng có thể quan sát được.Việc sử dụng thành công dụng cụ trong nghiên cứu các đối tượng rất khác nhauchứng tỏ khả năng nhận thức của các giác quan là vô hạn.Tuy giúp mở rộng khả năng nhận thức các giác quan, những việc dùngdụng cụ trong nhiều trường hợp cũng mang những biến đổi nhất định vào đốitượng nghiên cứu. Như vậy, tước đi ở người quan sát khả năng nhận thức đốitượng như nó vốn có. Những tình hình đó hoàn toàn không là trở ngại để nhậnthức các thuộc tính khách quan của đối tượng, mà chỉ buộc quan sát viên phảitính đến tính chất của dụng cụ và những hiệu ứng phụ do nó gây ra và tính quyluật tương tác của chúng đối với đối tượng nghiên cứu.Do có sự ứng dụng tăng cường trong khoa học hiện đại các dụng cụ vàcác phương tiện kỹ thuật khác vào việc tổ chức quan sát đối tượng nên rất cầnphân biệt những quan sát trực tiếp với gián tiếp. Quan sát gián tiếp là quan sát,trong đó sự tác động của đối tượng lên các giác quan người quan sát được thựchiện nhờ dụng vụ kỹ thuật. Trong nghiên cứu khoa học hiện đại cả hai kiểuquan sát thường được dùng cùng nhau như là hai mặt của quá trình phức tạpthống nhất thu nhận thông tin về đối tượng.Ở trình độ nhận thức này, người nghiên cứu sẽ nắm được những tri thứccơ bản nhất về đối tượng được nghiên cứu. Nhận thức ở mức độ quan sát giúpcho người nghiên cứu có thể phát hiện vấn đề nghiên cứu và đặt ra giả thuyếtđể kiểm chứng. Mặc dù, trình độ nhận thức ở mức quan sát chỉ bước đầu đemlại cho người nghiên cứu những tài liệu cụ thể, cảm tính trực quan, song có ýnghĩa khoa học rất lớn, đem lại cho khoa học những giá trị thực sự.Thực nghiệm là nghiên cứu các sự vật, hiện tượng bằng cách can thiệptrực tiếp vào các quá trình diễn biến tự nhiên của chúng hoặc thay đổi các tìnhhuống và các điều kiện, trong đó quá trình diễn biễn của chúng xảy ra. Để nhậnđược thông tin về các thuộc tính và mối liên hệ không quan sát được trong cácđiều kiện thông thường, khoa học phải làm thực nghiệm. Đó là phương phápnghiên cứu đòi hỏi làm thay đổi tương ứng đối tượng hoặc tái tạo nó trongnhững điều kiện được chủ ý tạo ra nhằm nhận được thông tin về các thuộc tínhvà các mối liên hệ của nó.Khác với quan sát, nơi chủ thể không can thiệp vào đối tượng, mà chỉ ghichép trạng thái tự nhiên của nó, thực nghiệm là sự can thiệp tích cực, có mụcđích của chủ thể vào đối tượng nhằm phá vỡ trạng thái tự nhiên của nó. Bằngcách đó nhà nghiên cứu buộc đối tượng phải phản ứng lại những điều kiện tạora và bộc lộ những thuộc tính vốn không thấy được ở tự nhiên. Quá trình thựcnghiệm cho phép người nghiên cứu đi sâu vào quan hệ bản chất, xác định đượccác quy luật, phát hiện ra các thành phần và cơ chế chính xác, kết quả thu đượccó độ tin cậy cao. Nhà nghiên cứu không thụ động chờ đợi sự xuất hiện cáchiện tượng mà mình quan tâm mà tự mình tạo ra các điều kiện nên có khả năngtính đến một cách đầy đủ hơn các điều kiện đó cũng như những ảnh hưởng màcác điều kiện ấy gây ra cho đối tượng được nghiên cứu.Ví dụ: thực hiện thực nghiệm sinh học, vật lý, hoá học... thực nghiệm cóvai trò ở chỗ, nhờ nó chủ thể khám phá được những thuộc tính bên trong củasự vật, hiện tượng mà trong điều kiện tự nhiên không thể khám phá được. Thựcnghiệm không chỉ nhằm thu thập các giữ kiện khoa học mà còn nhằm bác bỏhoặc kiểm chứng một kết luận khoa học nào đó.2. Dữ kiện và trừu tượng khoa học2.1. Dữ kiệnDữ kiện là những mặt, yếu tố của đối tượng được con người tri giác vàghi nhận lại. Tính chân thực kiểm tra được bằng kinh nghiệm là đặc điểm quantrọng nhất của dữ kiện khoa học. Công việc đầu tiên của nhận thức (nghiêncứu) khoa học về đối tượng là thu nhận, xác định các dữ kiện có thể cung cấpthông tin nhất định về các thuộc tính và các mối liên hệ của nó. Các dữ kiện tạothành nền tảng thực nghiệm của khoa học. Dựa vào các dữ kiện nhà khoa họcthâm nhập vào bản chất của đối tượng, vạch ra những thuộc tính và mối liên hệtất yếu vốn có ở nó, các quy luật vận hành và phát triển của nó. Để thu đượccác dữ kiện, khoa học thường sử dụng các thủ thuật như quan sát, làm thínghiệm, mô hình hóa. Nếu tiếp cận nhận thức khoa học như một quá trình thìnó được bắt đầu từ việc thu thập những dữ kiện. Song, sự tích luỹ các dữ kiệnkhoa học không diễn ra một cách tự phát, mà là hoạt động có mục đích, có kếhoạch và có ý thức. Bởi vì, trước khi triển khai việc nghiên cứu một vấn đề nàođó, nhà khoa học đã chủ động xác định cần phải thu thập những dữ kiện, tàiliệu nào, ở đâu và sử dụng các phương tiện, phương pháp gì để đạt được mụctiêu đề ra...Xét về tư duy khoa học, nhận thức khoa học là hình thái có tính trừutượng và khái quát cao nhất, nhằm mục đích tìm kiếm, phát hiện các nguyên lý,sơ đồ khoa học mới có tính tổng quát hơn, sâu sắc hơn. Nhìn một cách tổngquát, có thể thấy rằng, nhận thức khoa học được hình thành một cách tự giác vàmang tính trừu tượng, khái quát ngày một cao, đồng thời, nó thể hiện tính năngđộng, sáng tạo của tư duy trừu tượng. Mục đích của hoạt động nhận thức khoahọc là hướng tới nắm bắt được cái có tính quy luật, cái bản chất chứ khôngdừng lại ở cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, cái đơn nhất của đối tượng được nhậnthức. Khi phân tích khoa học các dữ kiện thu được luôn diễn ra sự tách biệt cáiđơn nhất khỏi cái chung, làm rõ các thuộc tính và các mối liên hệ bền vững,định hình các biểu tượng chung và các khái niệm, các phán đoán, suy luậntương ứng.Các kết quả thu được trong quá trình so sánh được định hình, được củngcố và sẽ tồn tại độc lập nhờ trừu tượng hóa, tức là sự phân tách các thuộc tínhvà mối liên hệ xác định (mà chủ thể quan tâm) của đối tượng và gác lại nhữngđặc trưng khác của nó. Các thuộc tính và mối liên hệ được chủ thể tách biệt rabiến thành những khách thể độc lập lí tưởng - những trừu tượng và thể hiệndưới dạng các khái niệm hoặc biểu tượng thực nghiệm.2.2. Trừu tượng khoa họcTrừu tượng khoa học là thủ thuật tư duy quan trọng nhất thường đượcdùng ở các dạng khác nhau ở mọi giai đoạn phát triển khoa học. Trừu tượngkhoa học là phương pháp tư duy trên cơ sở tách cái chung ra khỏi cái riêng, tạmthời gạt bỏ cái riêng để lấy cái chung, gạt bỏ những cái bề ngoài, những cáingẫu nhiên, không mang tính quy luật để xây dựng hệ thống tri thức tổng quát.Ở giai đoạn phát triển lí luận của nhận thức, trừu tượng khoa học đượcthực hiện trong mối liên hệ hữu cơ với khái quát hóa. Thuộc tính được tách ratrong quá trình phân tích khỏi đối tượng và được chuyển hóa thành mô hình lítưởng thông qua khái quát hóa, sẽ được áp cho tất cả các đối tượng cùng loại.Kết quả là sẽ xuất hiện khái niệm hay biểu tượng thực nghiệm chung.3. Mô tả và giải thích3.1. Mô tảMô tả là công việc tất yếu sau quan sát. Đó là sự ghi chép các kết quảquan sát, thông tin về đối tượng thu nhận được nhờ quan sát. Việc mô tả sửdụng các phương tiện diễn đạt cả tự nhiên lẫn nhân tọa; các khái niệm khoahọc, sơ đồ, biểu đồ,... Đối với mô tả khoa học đòi hỏi có tính chính xác, tínhchặt chẽ, tính logic và tính giản đơn. Ở giai đoạn khoa học phát triển như hiệnnay, các đòi hỏi đó được hiện thực hóa bằng cách sử dụng rộng rãi ngôn ngữnhân tạo. Trong quá trình quan sát, chủ thể nắm bắt và ghi nhận các đặc trưngchất và lượng của đối tượng. Do vậy, sự mô tả cũng diễn ra theo hai chiềuhướng là: Chất và Lượng. Đối với mô tả chất đòi hỏi phải ghi nhận các thuộctính xác nhận là gì, những đặc trưng của nó như thế nào,... Đối với mô tả lượngđòi hỏi phải diễn đạt chính xác mặt lượng của đối tượng, các độ đo của nó, thểhiện qua các thông số đo đạc.Nhờ có mô tả đã đưa ra một hệ thống thông tin về đối tượng, cugn cấpcho con người công cụ nhận dạng thế giới tự nhiên. Từ đó làm rõ được bản chấtgiữa sự vật này với sự vật khác, sáng tỏ nhận thức khoa học.3.2. Giải thíchGiải thích là làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và quy luật chiphối quá trình hình thành của một sự vật hiện tượng. Đây được xem là mộttrong những chức năng quan trọng của nhận thức khoa học. Giải thích phải dựatrên các quy luật tự nhiên và những bằng chứng quan sát được, thử nghiệmđược, kể cả những nhận định đặc biệt cần những bằng chứng đặc biệt để chứngmình. Giải thích có vai trò vô cùng quan trọng trong việc cung cấp thông tin vềthuộc tính, bản chất của sự vật, nhằm nhận dạng những biểu hiện bên ngoàicũng như những thuộc tính bên trong của sự vật. Con người chỉ giải thích đượcmột hiện tượng khi xác định được nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đó. Giảithích có khả năng chỉ ra mỗi liên hệ giữa “hiện tượng tưởng như không liênquan”.Ví dụ: như lý thuyết về “lục địa trôi” được đưa ra bằng cách liên kếtnhững khái niệm khác nhau như động đất, núi lửa, các dãy núi ngầm,... ở cáclục địa khác nhau. Từ đó làm rõ ra bản chất của từng sự vật, góp phần thúc đẩysự phát triển của nhận thức khoa học.4. Giả thuyết và lý thuyết4.1. Giả thuyếtGiả thuyết là phán đoán về nguyên nhân, bản chất của đối tượng. Tuynhiên, không phải mọi phán đoán về nguyên nhân hay bản chất của đối tượngđều là giả thuyết. Giả thuyết khoa học cần thỏa mãn năm yêu cầu cơ bản: Mộtlà, giả thuyết phải dựa trên mọi dữ kiện liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu; Hailà, giả thuyết phải tính đến mọi luận điểm do khoa học xác lập và đã được kiểmchứng bởi thực tiễn; Ba là, giả thuyết phải giải thích được các dữ kiện đã biết;Bốn là, giả thuyết phải có khả năng dự báo được các dữ kiện mới; Cuối cùng,giả thuyết phải có thể kiểm tra được bằng thực nghiệm.Khi nêu giả thuyết về liên hệ nhân quả, khoa học sử dụng rộng rãi cácphương pháp nghiên cứu quy nạp như loại suy, đồng nhất, khác biệt, phần dưvà biến đổi kèm theo. Trong khi được định hình với tư cách là phán đoán vềnguyên nhân, về mối liên hệ tất yếu của các đối tượng, giả thuyết còn đòi hỏiphải suy ra được các hệ quả mà phần nào trong số chúng giải thích được cáchiện tượng đã biết, phần khác dự báo được hiện tượng còn chưa biết.Việc kiểm tra giả thuyết bằng cách giải thích các dữ kiện khoa học đã thunhận giữ vai trò quan trọng trong việc biến nó thành tri thức chân thực. Tuynhiên, điều đó còn chưa đủ để có kết luận cuối cùng, bởi lẽ có thể giải thíchnhững hiện tượng đó bằng cách khác, từ các cơ sở khác. Vì thế, để có lời giảicuối cùng cho vấn đề tính chân thực của giả thuyết thì cần phải dựa trên nó màdự báo được những hiện tượng mới (chưa biết) và gây ra chúng khi tạo lậpnhững điều kiện tương ứng.Để luận chứng cho giả thuyết, biến nó thành tri thức chân thực, khoa họcthường sử dụng thực nghiệm tư tưởng, mà thực chất là tạo ra các tổ hợp nhữngmô hình tư tưởng cho phép tách ra quá trình dưới dạng thuần túy và giải thíchbản chất của đối tượng. Tình huống được tạo ra nhờ thực nghiệm tư tưởng,đúng là không thực hiện được trên thực tế, tuy nhiên nó phản ánh (dưới dạng lýtưởng) những thuộc tính và mối liên hệ của đối tượng.4.2. Xây dựng lý thuyếtKhi tri thức được tích lũy nhiều hơn thì cũng xuất hiện nhu cầu kết hợpchúng thành một hệ thống logic chặt chẽ. Nhiệm vụ đó được giải quyết bằngviệc xây dựng lý thuyết.Lý thuyết là hệ thống các mô hình tư tưởng phản ánh tổng thể các thuộctính và mối liên hệ tất yếu của đối tượng trong quan hệ lẫn nhau của chúng.Trong lý thuyết, mỗi luận điểm đều giữ một vị trí xác định và liện hệ một cáchtất yếu với các luận điểm khác. Những đặc trưng quan trọng nhất của lý thuyếtlà sự bao quát đầy đủ các mặt và các mối liên hệ của lĩnh vực hiện thực đượcphản ánh, tính kiểm tra được, sự giải thích các thuộc tính và các mối liên hệđang có của đối tượng và dự báo sự thay đổi của chúng trong tương lai, sự xuấthiện của thuộc tính và các mối liên hệ, các hiện tượng, các trạng thái chất mới.Trong xây dựng lý thuyết, khoa học thường sử dụng rộng rãi phươngpháp tiên đề - là phương pháp xác lập một bộ phận các luận điểm xuất phát(tiên đề, định đề), sau đó theo những quy tắc suy diễn để rút ra những luậnđiểm khác rồi từ chúng lại rút ra những luận điểm lớp thứ ba, thứ tư,.. cho đếnkhi xây dựng được hệ thống tri thức chỉnh thể, gắn kết logic với nhau.Ở những giai đoạn phát triển đầu tiên của khoa học, phương pháp tiên đềđã từng mang tính nội dung, nó làm việc với các khái niệm và luận điểm là sựkhái quát kinh nghiệm thực tế được tích lũy. Nhưng về sau theo đà lớn mạnhcủa toán học và logic học thì mặt nội dung của phương pháp tiên đề dần bị thaythế bởi những kết cấu thuần túy hình thức. Giờ đây, các tiên đề được rút ra nhưlà những mô tả hệ thống trừu tượng các quan hệ không có sự gắn bó chặt chẽvới lĩnh vực hiện thực nào nữa. Sau khi xây dựng lý thuyết mới đó lại nảy sinhvấn đề luận giải - áp nó vào lĩnh vực đối tượng cụ thể. Sự luận giải một lý luậnhình thức đòi hỏi làm rõ các quy tắc cho phép gắn kết các thuật ngữ tham giavào các tiên đề khởi điểm, với các đặc trưng của lĩnh vực nghiên cứu hiện thực,còn bản thân các tiên đề với các quan hệ giữa các đặc trưng đó.Việc xây dựng lý thuyết khoa học thường được thực hiện bằng phươngpháp diễn dịch - giả thuyết, mà thực chất là tạo ra hệ thống các giả thuyết logicgắn bó với nhau, từ chúng rút ra dưới dạng các hệ quả có thể kiểm tra bằngthực nghiệm. Có hai kiểu phương pháp diễn dịch - giả thuyết: Thứ nhất là xâydựng và đưa các giả thuyết nội dung vào mối liên hệ logic tương ứng; Thứ hailà xây dựng hệ thống hình thức đòi hỏi sự luận giải tương ứng. Kiểu thứ nhấtyêu cầu đưa vào những khái niệm nội dung xuất phát mà sau này có thể mô tảtoán học được, kiểu thứ hai - tạo ra bộ máy toán học, để rồi sau đó trong quátrình xây dựng lý thuyết sẽ được luận giải.Kết luậnNhận thức khoa học là một quá trình mà mục đích của nó là đạt tới chânlý. Các trình độ phát triển của nhận thức khoa học có mối liên hệ thống nhất,biện chứng, tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển.Tựu trung lại, theo quan điểm macxít, nhận thức khoa học được tiếp cận với tưcách một loại hình nhận thức đạt đến trình độ cao, khác với nhận thức thôngthường. Nó là quá trình phản ánh tự giác, tích cực, sáng tạo hiện thực kháchquan của con người thông qua thực tiễn, nhằm đạt tới hệ thông tri thức đúngđắn về tự nhiên, xã hội và các lĩnh vực cụ thể khác, nâng cao khả năng tư duyvà hiệu quả hoạt động thực tiễn của con người. V.I. Lênin đã kế tục tư tưởng vĩđại của C.Mác và Ph.Ăngghen, phát triển sâu sắc lý luận nhận thức nói chungvà nhận thức khoa học nói riêng như một bộ phận cấu thành hệ thống triết họcmacxít hoàn chỉnh.