Lý thuyết nền trong nghiên cứu khoa học

Lý thuyết nền trong nghiên cứu khoa học
Sự khác biệt giữa lý thuyết nền tảng và dân tộc học - Sự Khác BiệT GiữA

Sự khác biệt chính - Lý thuyết có căn cứ và Dân tộc học

Lý thuyết nền tảng và dân tộc học là hai phương pháp nghiên cứu định tính. Lý thuyết nền tảng, được phát triển bởi Barney Glaser và Anselm Strauss, là một phương pháp liên quan đến việc phát triển lý thuyết thông qua việc phân tích dữ liệu. Dân tộc học là nghiên cứu có hệ thống về một nền văn hóa hoặc cộng đồng. Sự khác biệt chính giữa lý thuyết căn bản và dân tộc học là mục đích của chúng; lý thuyết có căn cứ nhằm phát triển lý thuyết trong khi dân tộc học nhằm khám phá và tìm hiểu một nền văn hóa hoặc cộng đồng cụ thể.


Bài viết này nhìn vào,

1. Lý thuyết nền tảng là gì
- Định nghĩa, tính năng, tập trung, thu thập dữ liệu
2. Dân tộc học là gì
- Định nghĩa, tính năng, tập trung, thu thập dữ liệu
3. Sự khác biệt giữa Lý thuyết nền tảng và Dân tộc học là gì?

Lý thuyết nền trong nghiên cứu khoa học


Lý thuyết nền tảng là gì

Lý thuyết nền tảng là một phương pháp nghiên cứu trong khoa học xã hội liên quan đến việc xây dựng lý thuyết thông qua việc phân tích dữ liệu. Phương pháp này được phát triển bởi hai nhà xã hội học, Barney Glaser và Anselm Strauss và liên quan đến việc phát hiện ra các mô hình mới nổi trong dữ liệu.


Nghiên cứu lý thuyết có căn cứ không bắt đầu với bất kỳ giả thuyết, lý thuyết hoặc kỳ vọng phát hiện trước nào. Nó bắt đầu bằng một câu hỏi hoặc thậm chí là một bộ sưu tập dữ liệu định tính. Khi các nhà nghiên cứu bắt đầu đánh giá và phân tích dữ liệu thu thập này, họ sẽ bắt đầu nhận thấy các khái niệm và ý tưởng lặp đi lặp lại, sau đó sẽ được trích xuất và gắn thẻ bằng mã. Khi nhiều dữ liệu được thu thập và xem xét, nhiều mã sẽ xuất hiện và chúng có thể được nhóm thành các khái niệm, sau đó có thể được nhóm lại thành các danh mục. Những phạm trù này trở thành cơ sở cho các lý thuyết trong phương pháp lý thuyết có căn cứ.

Do đó, mục đích của phương pháp lý thuyết có căn cứ không chỉ là để mô tả một hiện tượng, mà còn phát triển một khung lý thuyết phù hợp để đánh giá tương tự. Cách tiếp cận này khá khác biệt so với các phương pháp nghiên cứu khác vì việc lựa chọn khung lý thuyết tiến hành thu thập dữ liệu trong hầu hết các phương pháp này.


Phương pháp này được sử dụng trong nhiều lĩnh vực để điều tra các chủ đề khác nhau. Nó giúp phát triển một lý thuyết vẫn còn kết nối với dữ liệu định tính đang được thu thập, cho phép các nhà nghiên cứu tinh chỉnh và phát triển ý tưởng và trực giác của họ về những phát hiện của họ. Đây là một trong những thế mạnh chính của lý thuyết có căn cứ.

Lý thuyết nền trong nghiên cứu khoa học


Hình 1: Quá trình lý thuyết có căn cứ

Dân tộc học là gì

Dân tộc học là nghiên cứu chi tiết và có hệ thống về con người và văn hóa. Một nhà nghiên cứu có liên quan đến dân tộc học được gọi là nhà dân tộc học. Các nhà dân tộc học tham gia một cách công khai hoặc bí mật trong cuộc sống hàng ngày của những người được nghiên cứu; họ theo dõi những gì xảy ra, lắng nghe những gì mà người được nói và đặt câu hỏi. Họ dành nhiều khoảng thời gian (tuần, tháng hoặc thậm chí nhiều năm) trong bối cảnh hoặc cộng đồng đang được nghiên cứu kể từ khi hiểu được thái độ, niềm tin và hành vi, có liên quan đến văn hóa đòi hỏi phải quan sát lâu dài. Mục đích chính của nghiên cứu dân tộc học là khám phá và nghiên cứu văn hóa theo quan điểm của người trong cuộc.

Các nghiên cứu dân tộc học ban đầu liên quan đến nghiên cứu về một nhóm người bị ràng buộc hoặc có thể xác định được như một ngôi làng ở Trung Quốc hoặc một bộ lạc Amazon cụ thể. Tuy nhiên, các nghiên cứu dân tộc học hiện đại cũng đối phó với các khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội đương đại.

Các phương pháp thu thập dữ liệu trong dân tộc học bao gồm việc tương tác với các thành viên của cộng đồng được chọn, phỏng vấn họ và phân tích các tài liệu và hiện vật liên quan. Do đó, phỏng vấn, quan sát và phân tích là các phương pháp thu thập dữ liệu chính.

Lý thuyết nền trong nghiên cứu khoa học


Hình 2: Các nhà dân tộc học tham gia một cách công khai hoặc bí mật trong cuộc sống hàng ngày của những người được nghiên cứu.

Định nghĩa

Lý thuyết có căn cứ: Lý thuyết nền tảng là một phương pháp liên quan đến việc phát triển lý thuyết thông qua việc phân tích dữ liệu.

Dân tộc học: Dân tộc học là nghiên cứu chi tiết và có hệ thống về con người và văn hóa.

Mục đích

Lý thuyết có căn cứ: Lý thuyết có căn cứ nhằm phát triển các lý thuyết liên quan đến dữ liệu thu thập được.

Dân tộc học: Dân tộc học nhằm mục đích hiểu một nền văn hóa hoặc cộng đồng cụ thể.

Ôn tập môn Ngữ văn

Lý thuyết có căn cứ: Các nhà nghiên cứu không tham khảo tài liệu trước khi phân tích dữ liệu vì nó có thể ảnh hưởng đến những phát hiện của họ.

Dân tộc học: Nhà dân tộc học có thể tham khảo tài liệu trước khi bắt đầu công việc hiện trường.

Lấy mẫu

Lý thuyết có căn cứ: Kỹ thuật lấy mẫu lý thuyết được sử dụng vì nó hỗ trợ phát triển lý thuyết.

Dân tộc học: Phương pháp lấy mẫu có chủ đích được sử dụng do nghiên cứu nhấn mạnh vào một khía cạnh cụ thể của văn hóa.

Tài liệu tham khảo:1.Datt, Shrutti. Sự khác biệt và điểm tương đồng của lý thuyết cơ sở và dân tộc học. N.p., ngày 26 tháng 5 năm 2014. Web. Ngày 17 tháng 2 năm 2017.

2.Brown.

bởi quản trị viên | Ngày đăng: 24-07-2018

1. Tầm quan trọng của lý thuyết nghiên cứu đối với một đề tài khoa học

Trong nghiên cứu khoa học, lý thuyết nghiên cứu là nền tảng vô cùng quan trọng bởi “lý thuyết là kinh nghiệm, kiến thức, tri thức, trí tuệ của các thế hệ tích lũy lại, cung cấp cho người nghiên cứu cơ sở kiến thức để lập luận và kiến giải các vấn đề nghiên cứu” [5]. Vì lẽ đó, sẽ không quá nếu nói hệ thống lý thuyết nghiên cứu chính là “quỹ đạo” của nhà nghiên cứu. Và để kết quả nghiên cứu đảm bảo đạt những giá trị khoa học cần thiết, thì quá trình triển khai nghiên cứu, nhà nghiên cứu không thể đi chệch cái “quỹ đạo” đó.

Không chỉ gọi là “quỹ đạo”, mà hệ thống lý thuyết còn có thể được xem là “chìa khóa” để nhà nghiên cứu trả lời các câu hỏi nghiên cứu trên nền tảng khoa học và lý luận. Khi có được lý thuyết nghiên cứu phù hợp, nhà nghiên cứu sẽ thuận tiện trong việc xây dựng cấu trúc của đề tài, hướng giải quyết vấn đề nghiên cứu cũng như việc đặt ra các giả thuyết nghiên cứu phù hợp.

Như vậy, vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu khoa học là cung cấp các khái niệm, khung lý thuyết để nhà nghiên cứu kiến giải câu hỏi nghiên cứu từ cơ sở khoa học một cách tường minh, thuyết phục. Vì vậy, yêu cầu đầu tiên đặt ra đối với những ai khi bắt đầu vào con đường nghiên cứu khoa học là nghiên cứu hệ thống lý thuyết, lý luận nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học mà họ quan tâm.

2. Những khó khăn trong việc tiếp cận, áp dụng các lý thuyết nghiên cứu trong đề tài khoa học

- Khó khăn trong việc tiếp cận lý thuyết nghiên cứu

Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, có thể kể đến các lý thuyết nghiên cứu phổ biến hiện nay như thuyết Tiến hóa thế kỷ 19 (bao gồm thuyết Tiến hóa đơn tuyến của Lewis Henry Morgan, Edward Tylor và Tiến hóa đa tuyến của Herbert Spencer); thuyết Nhân học văn hóa Mỹ nửa đầu thế kỷ XX với các đại diện như Franz Boas, Margaret Mead, Ruth Benedict; Nhân học xã hội Anh nửa đầu thế kỷ XX với các đại diện Reginald Radcliffe-Brown, Bronislaw Malinowski; thuyết Lựa chọn duy lý với các đại diện Fredrik Barth, Penelope Brown; thuyết Tân tiến hoá và cách tiếp cận duy vật với các đại diện Leslie White, Julian Steward;… Mỗi lý thuyết sẽ là công cụ phù hợp để giải quyết một, hoặc một số vấn đề nghiên cứu nào đó.

- Khó khăn trong việc áp dụng lý thuyết nghiên cứu

 Hiện nay, việc tiếp cận một cách đầy đủ, nguyên bản những lý thuyết này của giảng viên khối nghệ thuật không đơn giản mà nguyên nhân phần lớn là khả năng ngoại ngữ của giảng viên khối nghệ thuật còn hạn chế do trước đây điều kiện tiếp xúc, đọc sách, nghiên cứu với giảng viên, giáo sư nước ngoài chưa cao Vì vậy, nhiều giảng viên khối nghệ thuật thường tìm hiểu lý thuyết qua các bản dịch, hoặc qua các công trình mà các tác giả có sử dụng các lý thuyết đó. Trong nghiên cứu khoa học, việc áp dụng lý thuyết vào công trình nghiên cứu là điều kiện bắt buộc. Khả năng lựa chọn, kỹ năng áp dụng các lý thuyết vào công trình nghiên cứu phụ thuộc vào trình độ, nền tảng lý luận của giảng viên. Trong điều kiện cũng như yêu cầu của nhà trường, một số giảng viên khối nghệ thuật gặp khá nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu nghiên cứu. Khó khăn trước hết là việc chọn lựa các lý thuyết nghiên cứu phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài. Các trường hợp thường xảy ra là: hoặc giảng viên chọn lý thuyết nghiên cứu chưa phù hợp với hướng nghiên cứu của đề tài; hoặc giảng viên chọn nhiều lý thuyết nghiên cứu cho một đề tài. Những trường hợp đó đều ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu chung của đề tài.

Trong trường hợp chọn được lý thuyết nghiên cứu phù hợp, thì giảng viên khối nghệ thuật lại gặp khó khăn về kỹ năng ứng dụng lý thuyết nghiên cứu đó để giải quyết các câu hỏi nghiên cứu của đề tài. Rõ ràng, để có thể áp dụng một cách hiệu quả, thuần thục các lý thuyết nghiên cứu trong đề tài, nhà nghiên cứu phải trải qua quá trình rèn luyện trong thực tiễn nghiên cứu, phải có khả năng phân tích, đánh giá vấn đề được nghiên cứu, từ đó nhận diện được mức độ, phạm vi áp dụng lý thuyết nghiên cứu trong đề tài. Điều này là một trong những thách thức mà mỗi giảng viên khối nghệ thuật rất muốn có cơ hội, điều kiện tiếp cận nền giáo dục thế giới để học tập áp dụng trong môi trường đào tạo tại cơ sở mình giảng dạy. Hiện nay với chính sách mở cửa, các cơ quan quản lý nhà nước  tổ chức chương trình học tập ngắn hạn, dài hạn để bồi dưỡng nâng cao chuyên môn, tiếp cận công nghệ nghiên cứu khoa học mới nhất của thế giới để giúp các thầy cô lĩnh hội và có góc nhìn tiếp cận những nội dung lý thuyết khách quan, phong phú cho sự lựa chọn, từ đó giúp việc sử dụng các lý thuyết vào trong nghiên cứu của mình đáp ứng mục tiêu nhu cầu xã hội, vì vậy việc đăng ký học tập là trách nhiệm của mỗi giảng viên khối nghệ thuật để nâng cao năng lực chuyên môn, phát huy tính sáng tạo trong công việc đặc thù.

3. Thay lời kết

Tóm lại, trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở mọi lĩnh vực, tìm hiểu và ứng dụng lý thuyết nghiên cứu để đi tìm lời giải cho các câu hỏi nghiên cứu, giải quyết các vấn đề mà công trình nghiên cứu đặt ra là một yêu cầu mang tính tất yếu của một nền khoa học phát triển bền vững. Vì vậy thực tế hiện nay, việc phối hợp với các chuyên gia trao đổi kinh nghiệm tại nước ngoài hoặc tại cơ sở như để các giảng viên đến dự giờ, trao đổi khoa học và nghiệp vụ tại các Khoa cùng ngành là việc cần thiết và có lộ trình thời gian liên tục để các giảng viên khối nghệ thuật tiếp tục được tiếp cận và vận dụng lý thuyết trong công trình của mình một cách khoa học, có chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng yêu cầu đào tạo theo nhu cầu xã hội hiên nay.

Lê Thị Vương Nguyệt - Khoa QLVH-NT

Tài liệu tham khảo

1.    Nguyễn Chí Bền (2006), Văn hóa Việt Nam – mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

2.    Charles Harrison, Dr Paul J Wood, Jason Gaiger biên soạn (1991), Art in Theory 1648-1815: An Anthology of Changing Ideas , Publisher: Wiley-Blackwell.

3.    Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam (2011), Nghiên cứu văn hóa – lý thuyết và thực hành (bản dịch của Đặng Tuyết Anh từ công trình của Chris Barker), NXB. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

4.    Kristine Stiles, Peter Selz (1996), Theories and Documents of Contemporary Art: A Source Book of  Artists’ Writing, University of California Press.

Bùi Thị Thanh Mai, Vai trò của lý thuyết trong nghiên cứu nghệ thuật ở Việt Nam, đăng trên http://www.academia.edu, cập nhật