Chủ quyền quốc gia là dấu hiệu nhân biết quốc gia

Quốc gia là chủ thể cơ bản của Luật quốc tế. Việc xem xét quốc gia với tư cách là chủ thể cơ bản của Luật quốc tế có liên hệ mật thiết với các yếu tố để hình thành và phát triển quốc gia.

Cho đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất về quốc gia. Thông thường các giáo trình khi đề cập đến định nghĩa quốc gia thường bắt đầu bằng Công ước về quyền và nghĩa vụ của quốc gia năm 1933 (Công ước Montevideo). Công ước này không phải là một Điều ước đa phương phổ quát mà chỉ là một Điều ước gồm thành viên là 16 quốc gia ở khu vực Châu Mỹ. Công ước này không có giá trị ràng buộc, nhưng nó là công ước duy nhất quy định các dấu hiệu nhận biết quốc gia, do đó để nhận biết trên thực tế một thực thể có phải là quốc gia không, người ta thường viện dẫn trong công ước Montevideo.Theo công ước này, một thực thể được coi là quốc gia theo pháp luật quốc tế cần đáp ứng các điều kiện sau: (1) Lãnh thổ xác định; (2) Dân cư cư trú thường xuyên; (3) Chính phủ hữu hiệu; (4) Tham gia vào các quan hệ một cách độc lập với các chủ thể quốc tế khác.

>>> Xem thêm:

(1) Lãnh thổ xác định: Lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất, bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng nước và vùng lòng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn tuyệt đối, đầy đủ hoặc riêng biệt của quốc gia. Lãnh thổ là cơ sở vật lý quan trọng cho sự tồn tại của một quốc gia. Lãnh thổ xác định ở đây không được hiểu là lãnh thổ đó phải có đường biên giới rõ ràng với các quốc gia xung quanh; lãnh thổ với tất cả các biên giới đang tranh chấp với quốc gia khác vẫn thoả mãn tiêu chí này mà quan trọng là phải có một khu vực lãnh thổ nào đó với một cộng đồng ổn định và chính quyền quản lý; có thể biên giới của khu vực đó đang tranh chấp nhưng phải có một bộ phận cốt lõi bên trong không tranh chấp – bộ phận không nghi ngờ gì là lãnh thổ quốc gia đó. Sự tồn tại của một lãnh thổ thuộc một quốc gia là vấn đề tách biệt với việc phạm vi và ranh giới của lãnh thổ đó. Vấn đề diện tích tối thiểu của một quốc gia là bao nhiêu hay địa hình bất lợi đều không có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại hay mất đi danh nghĩa quốc gia.

(2) Dân cư cư trú thường xuyên: Dân cư là tổng hợp những người sinh sống, cư trú trên một lãnh thổ của một quốc gia nhất định và chịu sự điêu chỉnh của pháp luật quốc gia đó. Không một quốc gia nào mà không có cộng đồng dân cư. Điều 1 Công ước Montevideo yêu cầu công đồng dân cư phải mang tính “thường trú” (permanent) theo nghĩa cộng đồng dân cư đó phải sinh sống một cách lâu dài trên lãnh thổ quốc gia đó, tạo thành một cộng đồng ổn định (a stable community).

(3) Chính phủ hữu hiệu: Chính phủ với tư cách là đại diện cho quốc gia trong quan hệ quốc tế. Chính phủ của một quốc gia phải là chính phủ thực thi được một cách có hiệu quả quyền lực nhà nước trên phần lớn hoặc toàn bộ lãnh thổ quốc gia một cách độc lập, không bị chi phối, khống chế bởi quốc gia khác.

(4) Có khả năng tham gia vào các quan hệ một cách độc lập với các chủ thể quốc tế khác: Nội dung cốt lõi của tiêu chí này là tính độc lập (independence) của thực thể đang xem xét. Chủ thể có thể tham gia quan hệ quốc tế thông qua hành vi của mình hoặc ủy quyền cho chủ thể khác đại diện cho mình trong quan hệ quốc tế.

Chủ quyền là thuộc tính chính trị – pháp lý của quốc gia

Chủ quyền là thuộc tính chính trị – pháp lý không thể tách rời của quốc gia, bao gồm hai nội dung chủ yếu là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế.

+ Trong phạm vi lãnh thổ của của mình, quốc gia thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không có bất kỳ sự can thiệp nào từ bên ngoài, thông qua những quyết định về mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

+ Trong quan hệ quốc tế, quyền độc lập của một quốc gia thể hiện qua quyền tự quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của quốc gia không có sự áp đặt từ chủ thể khác, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của mọi quốc gia trong cộng đồng quốc tế.

Như vậy, các quốc gia dù phát triển hay đang phát triển, có tiềm lực sức mạnh khác nhau đều hoàn toàn bình đẳng với nhau về chủ quyền. Sự thực hiện chủ quyền quốc gia chỉ có thể trọn vẹn khi quốc gia vừa đạt được lợi ích của mình mà không xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của chủ thể quốc tế khác.

Chủ quyền quốc gia là gì?

  • Chủ quyền quốc gia là Quyền làm chủ đối với quốc gia, là thuộc tính chính trị - pháp lý không thể tách rời khỏi quốc gia. Chủ quyền quốc gia bao gồm nhiều nội dung, trong đó có các quyền cơ bản là quyền bất khả xâm phạm lãnh thổ, quyền tự quyết định những công việc của quốc gia, quyền độc lập trong quan hệ đối ngoại.

Nội dung nêu trên là phần giải đáp, tư vấn của chúng tôi dành cho khách hàng của LawNet . Nếu quý khách còn vướng mắc, vui lòng gửi về Email:


CĂN CỨ PHÁP LÝ CỦA TÌNH HUỐNG NÀY

THÔNG TIN NGƯỜI TRẢ LỜI

  • Chủ quyền quốc gia là dấu hiệu nhân biết quốc gia

  • 17, Nguyễn Gia Thiều, phường 6, Quận 3, Hồ Chí Minh
  • Click để Xem thêm

Chủ quyền quốc gia là gì? Chủ quyền quốc gia có tên gọi trong tiếng Anh là gì? Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là gì?

Chủ quyền không bao giờ có thể chấp nhận quan hệ đối tác dưới bất kỳ hình thức nào, nghĩa là màu sắc hoặc biểu tượng của đảng. Việc hình thành và bảo vệ bền vững tự do, bình đẳng và công bằng trong xã hội hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức xác lập chủ quyền quốc gia một cách chính xác. Vì vậy, cơ sở của tự do, bình đẳng và công lý là chủ quyền quốc gia. Tự do trong xã hội và trong nhà nước của chúng ta là vô hạn. Biên giới của nó hiện hữu và được xác định bởi sự bảo vệ của nguyên tắc làm cho nó trở nên vô hạn. Vậy chủ quyền quốc gia là gì? Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là gì? hãy tìm hiểu nội dung liên quan đến vấn đề này trong bài viết dưới đây:

Chủ quyền quốc gia là dấu hiệu nhân biết quốc gia

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Chủ quyền quốc gia là gì?

Một cá nhân có thể sẵn sàng muốn từ bỏ tự do của mình, nhưng nếu cố gắng này sẽ làm tổn hại đến cuộc sống và tự do của một quốc gia, nếu cuộc sống của một quốc gia đầy sự vĩ đại và danh dự sẽ tàn lụi vì điều này và nếu con cháu của quốc gia đó sẽ biến mất vì điều này, những nỗ lực như vậy không bao giờ có thể hợp lý và chấp nhận được. Hơn nữa, một hành động như vậy không bao giờ có thể được dung thứ nhân danh tự do.

Chắc chắn rằng chúng ta sẽ bảo vệ và bảo vệ chủ quyền quốc gia của mình trong tâm trạng ghen tị và cảnh giác cao nhất và bằng tất cả khả năng của mình vì sự sống vĩnh cửu của đất nước chúng ta, sự vững mạnh của đất nước chúng ta, cuộc sống ấm no và hạnh phúc của dân tộc chúng ta như cũng như vì cuộc sống của chúng ta, niềm tự hào, danh dự và tương lai cũng như tất cả các khái niệm thiêng liêng của chúng ta và cuối cùng là tất cả những gì chúng ta sở hữu.

Quyền làm chủ đối với quốc gia hay còn được gọi là chủ quyền quốc gia, là thuộc tính chính trị – pháp lý không thể tách rời khỏi quốc gia.

Các quyền cơ bản là quyền bất khả xâm phạm lãnh thổ, quyền tự quyết định những công việc của quốc gia, quyền độc lập trong quan hệ đối ngoại là các nội dung được biết đến trong chủ quyền quốc gia.

– Chủ quyền quốc gia gồm hai nội dung: Quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế và quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình.

– Vùng đất quốc gia là phần mặt đất và lòng đất của đất liền, của đảo, quần đảo thuộc chủ quyền một quốc gia; bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên lãnh thổ quốc gia, làm cơ sở để xác định vùng trời quốc gia, nội thủy, lãnh hải.

+ Vùng đất quốc gia có thể gồm những lục địa ở những điểm khác nhau nhưng các vùng đất đó điều thuộc lãnh thổ thống nhất của quốc gia hoặc cũng có thể chỉ bảo gồm các đảo, quần đảo ở ngoài biển hợp thành quốc gia quần đảo. Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương, có vùng đất quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái Bình Dương có vùng đất quốc gia vừa là đất liền, vừa là đảo, vừa là quần đảo, bao gồm từ đỉnh Lũng Cú – Hà Giang đến mũi Cà Mau, các đảo Phú Quốc, Cái Lân … và quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Xem thêm: Lãnh thổ quốc gia là gì? Các bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc gia?

+ Việt Nam có ba mặt trông ra biển: Đông, Nam và Tây Nam với bờ biển dài 3.260km. Từ Móng Cái đến Hà Tiên. Phần biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam mở rộng về phía Đông Nam, có thềm lục địa, các đảo và quần đảo lớn bao bọc.

Ý chí dân tộc và quyết tâm dân tộc không chỉ bao gồm ý tưởng của một cá nhân mà là tổng hợp ý chí của tất cả các cá nhân của dân tộc.

Chủ quyền thuộc về quốc gia vô điều kiện.

Quyền lực không bị phân chia và thuộc về quốc gia.

Chủ quyền quốc gia là thứ ánh sáng có thể khiến xiềng xích tan ra, vương miện và ngai vàng cháy sáng và biến mất trước nó. Các thể chế được thành lập dựa trên chế độ nô lệ của các quốc gia nhất định sẽ bị phá bỏ ở khắp mọi nơi.

Một quốc gia không thể tránh khỏi việc trở thành món đồ chơi của người khác trừ khi quốc gia đó tham gia vào hiện tại và các quyền của mình bằng tất cả sức mạnh trí tuệ và vật chất của mình. Cuộc sống quốc gia của chúng ta, lịch sử của chúng ta và phong cách hành chính gần đây của chúng ta là bằng chứng tuyệt vời về điều này. Đây là lý do tại sao quyền lực quốc gia và quyết tâm quốc gia đã được chấp nhận là thống trị trong hành chính. Ngày nay, tất cả các quốc gia trên thế giới chỉ công nhận một chủ quyền duy nhất: Chủ quyền Quốc gia.

Các hệ tư tưởng vĩ đại của các quốc gia quan trọng trên thế giới đạt được chủ quyền để tránh nô lệ luôn là kẻ thù khốc liệt của những người phụ thuộc vào các thể chế lỗi thời và những người đang tìm kiếm giải pháp trong chính quyền thối nát.

2. Chủ quyền quốc gia có tên tiếng Anh là gì?

Chủ quyền quốc gia có tên gọi trong tiếng Anh là: “National souvereignty”.

Xem thêm: Hàng quá cảnh là gì? Quy định quá cảnh hàng hóa qua lãnh thổ Việt Nam?

3. Chủ quyền lãnh thổ quốc gia là gì? 

“Nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ là một phần quan trọng của trật tự luật pháp quốc tế và được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc, đặc biệt là trong Điều 2, khoản 4” (cấm sử dụng vũ lực), cũng như như trong các văn bản quan trọng khác, bao gồm cả những văn bản về quyền tự quyết. Khái niệm này bao gồm quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ của Quốc gia, bao gồm lãnh thổ nằm dưới sự kiểm soát và chiếm hữu hiệu quả của một Quốc gia. Tòa án Quốc tế đã cho rằng “phạm vi của nguyên tắc toàn vẹn lãnh thổ chỉ giới hạn trong phạm vi quan hệ giữa các Quốc gia”.

Khái niệm toàn vẹn lãnh thổ, nếu không phải là thuật ngữ này, cũng đã cũ như Quốc gia có chủ quyền. Đó là một trong những quyền vốn có về chủ quyền và độc lập. Tầm quan trọng hàng đầu của nó nằm trong lĩnh vực luật quốc tế về sử dụng vũ lực. Cho đến khi có sự phát triển của luật cấm sử dụng vũ lực chung vào nửa đầu Thế kỷ XX, sự toàn vẹn lãnh thổ của các Quốc gia chỉ được luật pháp quốc tế bảo vệ một cách không hoàn hảo.

Nhiều cách sử dụng vũ lực theo kiểu ‘hòa bình’ khác nhau phải tuân theo những giới hạn do luật pháp quốc tế áp đặt và Hiệp ước của Hội quốc liên áp đặt những hạn chế về thủ tục. Nhưng chỉ với Hiệp ước Kellogg-Briand năm 1928, các quốc gia mới từ bỏ chiến tranh như một công cụ của chính sách quốc gia. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 đã ban hành quy định nghiêm cấm chung về việc sử dụng vũ lực trừ trường hợp được Hội đồng Bảo an cho phép, tùy thuộc vào quyền tự vệ vốn có.

Trong phạm vi lãnh thổ của mình thì quốc gia đó có quyền tối hay còn được xác định là chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Một quốc gia sẽ có các quyền tuyệt đối, hoàn toàn và riêng biệt của quốc gia đối với lãnh thổ và trên lãnh thổ của mình và đây được biết đến là chủ quyền lãnh thổ quốc gia.

Quốc gia có quyền tối cao về lập pháp, hành pháp và tư pháp trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia mình. Quốc gia đó có quyền quyết định về vấn đề chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội của quốc gia mình. Đồng thời thì các quốc gia khác cũng như các tổ chức quốc tế không có quyền can thiệp. Việc tuân thủ pháp luật của quốc gia nêu trong Điều ước quốc gia đã ký kết không có quy định khác sẽ được thực hiện với mọi tổ chức, cá nhân cư trú trên lãnh thổ của quốc gia đó

Bên cạnh đó, quốc gia có quyền thực hiện những cải cách kinh tế, xã hội phù hợp với đặc điểm quốc gia, quyền tự do trong việc lựa chọn phương hướng phát triển đất nước. Đối với những quyết định này thì các quốc gia khác và các tổ chức khác không có quyền can thiệt hay xâm phạm đến quyền tự do của quốc gia khác và còn phải có nghĩa vụ tôn trọng sự lựa chọn đó.

Đối với từng vùng lãnh thổ quốc gia thì chế độ pháp lí sẽ được quốc gia này tự quy định. Mỗi quốc gia được xác lập lãnh thổ trên quy chế pháp lý về lãnh thổ quốc gia do quốc gia tự xác định, phù hợp với luật quốc tế rất rõ ràng và riêng biệt.

Đối với tất cả tài nguyên thiên nhiên trong lãnh thổ của mình thì quốc gia có quyền sở hữu hoàn toàn mà không có nghĩa vụ chia sẻ cho nước nào khác.

Xem thêm: Nội dung nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia

Đối với mọi công dân, tổ chức, kể cả cá nhân, tồ chức nước ngoài trong phạm vi lãnh thổ quốc gia thì quốc gia thực hiện quyền tài phán (quyền xét xử) trừ những trường hợp quốc gia, hoặc điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên có quy định khác.

Đối với các hoạt động của công ty đa quốc gia, sở hữu cả người nước ngoài cũng như hoạt động của các tổ chức tương tự, kể cả trường hợp quốc hữu hóa, tịch thu, trưng thu tài sản của tổ chức, cá nhân nước ngoài có bồi thường hoặc không bồi thường thì uốc gia có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế thích hợp, có quyền điều chỉnh, kiểm soát các hoạt động này.

Theo những nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế thì quốc gia có quyền và nghĩa vụ bảo vệ, cải tạo lãnh thổ quốc gia. Đồng thời quốc gia còn có quyền định sử dụng thay đổi lãnh thổ phù hợp với pháp luật và lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ đó.