Chia sẻ các bài nói hướng dẫn thiền
Mục tiêu tối thượng của thiền định trong đạo Phật là đạt đến Vô Ngã, giải thoát Niết Bàn. Đức Phật thành đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác cũng bằng pháp môn Thiền Định. Show
Thiền là phương pháp thực hành nhiếp tâm vào định, đưa tâm trí đến chỗ an tĩnh, sáng suốt, không xuất hiện ý nghĩ, không dấy động tình cảm…, đặc biệt là giúp hành giả diệt trừ Bản Ngã, chấm dứt vô minh và chứng đạo giải thoát giác ngộ. Nội dung:
MỘT VÀI YẾU TỐ CĂN BẢN HỖ TRỢ CÔNG PHU TU TẬP Bắt đầu cho sự thiền định và để đạt kết quả tốt trong công phu tu tập, trước hết, chúng ta phải chuẩn bị ba nền tảng căn bản vững chắc. Đó là Đạo Đức – Công Đức – Khí Công.
Trước khi tọa thiền hành giả cần chuẩn bị: Trải một tấm tọa cụ trên mặt phẳng. Kích thước tọa cụ phải rộng hơn diện tích ngồi. Tọa cụ có thể làm bằng vải dày, bằng chiếu lát, hoặc bằng một miếng đệm mỏng để ngăn cho hơi ẩm dưới đất thấm lên trên và để giúp bớt cấn da thịt. Đừng mặc quần áo chật chội, bó chặt. Nhưng cũng không nên mặc quần áo thiếu trang nghiêm. Nếu ngồi trong Chánh điện hoặc nơi trang nghiêm thì nên mặc áo tràng. Ánh sáng vừa phải đừng sáng quá cũng đừng tối đen. Tránh chỗ gió thổi đến từ sau lưng. Nơi yên tĩnh vẫn là chỗ thích hợp nhất cho việc tọa thiền. Sắp xếp thời gian đều đặn mỗi ngày để tọa thiền thì tốt hơn. Còn không thì tùy những lúc thuận tiện mà ngồi. Không nên ngồi những lúc bụng còn no. Nếu bắt đầu ngồi thì nên ngồi khoảng 30 phút. Không nên bày tỏ khoe khoang cho người khác biết là mình có tu tập thiền định vì có thể làm công phu bị lui sụt. Nên ngồi chỗ không ai trông thấy, trừ khi ngồi chung tập thể. A. PHƯƠNG PHÁPHành giải theo thứ tự thực hành công phu tu tập thiền định như sau: 1. LỄ PHẬTPhải lễ phật ba lễ với lòng tôn kính tuyệt đối 2. NGỒI KIẾT GIÀBắt chân trái đặt lên đùi chân phải, sau đó kéo chân phải vắt lên đùi chân trái. Hai bàn chân nằm vắt lên đùi ở một vị trí vừa phải, không quá sát hông, cũng không quá xa hông. 3. KỆ VÀO THIỀNKhi đã ngồi đúng tư thế nghiêm trang. Hành giả chắp tay đọc bài kệ vào thiền (nếu ngồi một mình thì niệm thầm, nếu ngồi tập thể thì niệm lớn chung với đại chúng). “Xin Phật độ cho con Luôn nhớ và hiểu rằng Thân chẳng phải là ta Tâm chẳng phải là ta Chẳng có gì là ta Trong từng hơi thở vào Trong từng hơi thở ra Trọn niềm Tôn Kính Phật” Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần) 4. TÁC Ý BA TÂM HẠNH(Sau khi đọc bài kệ vào thiền và niệm Phật xong, vẫn chắp tay tiếp tục tác ý thầm ba tâm hạnh) – Nguyện trên Chư Phật gia hộ cho con biết tôn kính Chư Phật, Chư Tổ, Chư Hiền Thánh Tăng với lòng tôn kính tuyệt đối vô lượng, vô biên. – Nguyện trên Chư Phật gia hộ cho con biết trải lòng thương yêu khắp tất cả chúng sinh, dù là thế giới hữu hình hay thế giới vô hình. Cho con thương yêu loài người, cũng như cỏ cây, chim thú trong rừng, cá trong nước, cho đến chúng sanh trong địa ngục. – Nguyện trên Chư Phật gia hộ cho con biết giữ lòng khiêm hạ, lúc nào cũng thấy mình như cỏ rác, cát bụi, thấy mình là vô minh và tội lỗi. (Nếu là người xuất gia, chúng ta tác ý thêm một tâm nguyện nữa): – Con nguyện lòng quyết tâm giữ được sự vô nhiễm trong sạch. (Sau khi tác ý 3 tâm hạnh xong, hành giả bắt đầu thực hiện công phu điều thân). Kể từ bước này trở đi, tùy thuộc vào trình độ tu tập mà độ dài ngắn cho thích hợp, nhưng đảm bảo là có đủ các bước. CÁC GIAI ĐOẠN CHÍNH 5. ĐIỀU THÂNGiai đoạn này thường kéo dài, càng điều thân kĩ chừng nào thì càng có thể tiến sâu trên con đường thiền định. A) GIỮ ĐÚNG TƯ THẾ
B) BIẾT TOÀN THÂNTâm luôn quay vào kiểm soát biết rõ toàn thân, biết từ đầu cho đến tay chân. Xem lưng có chùng xuống hay không; hai vai có bị lệch, đầu có bị nghiêng không; hai bàn tay có thẳng đẹp, hai cánh tay có bị ép sát hông không; mắt có nhìn chỗ khác, người có chồm về phía trước hay ngửa ra sau không. Luôn luôn tỉnh giác biết rõ toàn thân, buông lỏng toàn thân. Cơ thể mình bị sai lệch như thế nào thì phải biết rõ và điều chỉnh lại để luôn giữ đúng tư thế. C) GIỮ THÂN MỀM MẠI BẤT ĐỘNGSong song với việc biết rõ toàn thân, ta nhẹ nhàng buông lỏng toàn thân, giữ thân mềm mại bất động, không nhúc nhích, không gồng cứng. Luôn kiểm tra xem có bộ phận nào bị gồng cứng hay nhúc nhích không, toàn thân có được mềm mại, bất động chưa. Từng bắp thịt, ngón tay, ngón chân, bắp đùi, bắp vế bắp tay đều được giữ yên không cử động. Ta phải luôn kiểm soát toàn thân, vì sau khi ngồi yên một chút sẽ có những thớ thịt, ngón tay, vai, gáy, … tự nhiên gồng cứng lên, phải nhận ra và nhanh chóng thả lỏng lại. Kiểm tra thường xuyên như thế chính là công phu điều thân. Lưu ý:
6. QUÁN THÂN VÔ THƯỜNG, HƯ ẢONgồi yên theo dõi thân chừng vài phút, ta tự nhủ thầm “thân này là vô thường hư ảo”. Lâu lâu lại tự nhắc như vậy. Ta phải thấy sự biến đổi của thân từ trẻ đến già, từ già đến chết, từ chết đến tan hoại hoàn toàn. Đức Phật dạy, khi quán thân vô thường ta phải chiêm nghiệm vô thương thật kĩ cho đến nơi đến chốn, không được cạn cợt. Phải chiêm nghiệm thân này (không được quán thân người khác) một ngày nào đó sẽ tan hoại. Sau khi chết khoảng ba ngày, thân này sẽ sình trương. Qua mười ngày bốc mùi hôi thối và đầy dòi bọ. Một tháng sau, các lớp thịt bên ngoài và các cơ quan nội tạng bị phân hủy. Công trùng, chim thú,… đến rút rỉa, hình dáng không còn nguyên vẹn nữa. Còn lại xương khớp thì từ từ cũng rời rạc ra vì do tác động của mưa nắng, không khí… những khớp xương cũng mục dần và tan thành tro bụi, gió thổi cuốn đi. (Chúng ta phải thực hành quá thân vô thường kỹ lưỡng vài tháng trước khi thêm quán hơi thở). 7. QUÁN TÂM VÔ NGÃ, HƯ VỌNG
8. QUÁN HƠI THỞSau khi điều thân thuần thục, quán thân vô thường nhuần nhuyễn, ta bắt đầu thực hiện pháp tu hơi thở. Ta biết rõ hơi thở mà không hề can thiệp, không hề điều khiển.
Tức là hơi thở dài hay ngắn, ta đều biết rõ. Nhưng điều quan trọng ở đây là biết rõ mà không can thiệp vào, không điểu hơi thở dài hay ngắn theo ý mình. Chỉ đơn giản biết mà thôi. Có khi hơi thở dài, có khi hơi thở ngắn, có khi hơi thở nhẹ, có khi hơi thở mạnh, nhưng ta chỉ biết chứ không được can thiệp. Có hai cực đoan cần phải tránh về hơi thở
Trung đạo của pháp tu hơi thở chính là biết rõ một cách thụ động, không can thiệp, không điều khiển. KẾT HỢP HƠI THỞ VỚI CÁC PHÉP QUÁN KHÁC.Sau khi đã thuần thục quán hơi thở, thường là rất lâu, ta kết hợp hơi thở lần lượt với các phép quán như sau: KẾT HỢP HƠI THỞ VỚI BIẾT RÕ TOÀN THÂN:
KẾT HỢP HƠI THỞ VỚI QUÁN THÂN VÔ THƯỜNG:
KẾT HỢP HƠI THỞ VỚI LỜI NGUYỆN:
KẾT HỢP HƠI THỞ VỚI BIẾT TÂM NÀY LÀ PHIỀN ĐỘNG:
Ghi chú: Mới ban đầu ta chỉ vừa thở vừa biết rõ toàn thân. Lâu ngày tự nhiên biết rõ thêm nội tâm dù không cố ý. Lúc đó, ta vừa biết hơi thở, vừa biết toàn thân, vừa biết nội tâm. Cùng một lúc biết cả ba điều mà vẫn nhẹ nhàng thoải mái. KẾT HỢP HƠI THỞ VỚI KHÍ CÔNG TÂM PHÁP VÀ CỐ CĂNSau khi đã thuần thục hơi thở với các phép quán trên, thời gian là rất lâu. Tới giai đoạn này, về phía thân đã tạm ổn định, chúng ta cần đi sâu vào điều tâm để thanh lọc dần dần tâm hồn của mình. Nhưng khi điều tâm, chúng ta lại bị mất chân âm, do phải tập trung trên đầu để gạn lọc tâm. Do đó, nếu chúng ta không có đủ chân âm thật sâu rộng, vững vàng thì quá trình điều tâm của ta rất cạn cợt, dễ bệnh, không đi sâu vào thiền định được. Tới lúc này chúng ta mới thấy tác dụng to lớn của Khí công đối với công phu tu tập thiền định. Tuy nhiên, tới giai đoạn này thì ngoài khí công ra, ta phải bổ sung thêm nguồn chân âm bằng phương pháp cố căn. Lưu ý là tới gian đoạn này, chúng ta phải dành thêm thời gian để luyện tập phương pháp cố căn này ngoài thời gian ngồi thiền hằng ngày. A) BƯỚC CHUẨN BỊ:
B) CÁCH DỤNG CÔNG:
C) KẾT QUẢDấu hiệu để biết ta tu đúng là nguyên vùng đáy của bụng dưới ấm dần lên, tâm rỗng nhẹ, dễ kiểm soát vọng tưởng, đi vào an định dần dần. Trong đời sống thì ta có sức khỏe hơn, trí óc minh mẫn hơn. Còn nhiều kết quả lý thú mà mỗi người chúng ta sẽ cảm nhận khi dụng công tập luyện. Lưu ý:
9. ĐIỀU TÂMSau khi người tu tập đã tích đủ nội lực, chân âm cần thiết để cho quá trình tu tập sau này, thời gian này thường rất lâu. Tùy thuộc vào công đức, đạo đức và khí công của mình mà thành tựu được mức độ này. Tiếp theo, hành giả bước vào giai đoạn điều tâm. A) BIẾT RÕ CẢM GIÁC HỶ THỌ:
B) BIẾT RÕ CẢM GIÁC LẠC THỌ:
C) Ý MUỐN BUÔNG BỎ VỌNG TƯỞNG:Phải có ý muốn buông bỏ vọng tưởng một cách dứt khoát. Có ba giai đoạn cần biết: o Vọng tưởng khởi lên hành giả không biết nên bị chìm theo. o Biết vọng tưởng đang khởi nhưng không muốn vọng tưởng chấm dứt. o Biết vọng tưởng khởi lên và muốn cho vọng tưởng tắt nên dừng lại được. D) CẢM GIÁC VỀ TÂM:
Đến đây, thì hành giả tiếp tục giai đoạn điều tâm này, cho đến khi chứng được chánh niệm tỉnh giác. Thời gian là rất lâu. Đa số, mọi người tu tập cần phải hết một đời mới đạt được chánh niệm tỉnh giác này. Nên hành giả đừng nản chí, cứ vững chắc trên con đường tu tập của mình. 10. XẢ THIỀN – HỒI HƯỚNGTrước khi xả thiền đọc bài kệ xả thiền và đọc bài hồi hướng (nếu ngồi một mình thì niệm thầm, nếu ngồi tập thể thì niệm lớn chung với đại chúng). KỆ XẢ THIỀNTam bảo gia hộ cho con Lúc thức cũng như lúc ngủ Ban ngày cũng như ban đêm Luôn nhớ thân này vô thường. Khi đi hoặc là khi đứng Khi ngồi hoặc là khi nằm Lúc làm việc hay nghỉ ngơi Luôn nhớ thân này vô thường. Khi nghe cũng như khi nói Đông người hay ở một mình Xem phim hay là đọc sách Luôn nhớ thân này vô thường. Lúc ăn cơm hay uống nước Khi tắm rửa hay vệ sinh Đắp y hay mang giày dép Luôn nhớ thân này vô thường. Những khi tâm con tỉnh giác Càng nhớ thân này vô thường Nguyện cho chúng sinh khắp chốn Luôn nhớ thân này vô thường. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần) (tiếp theo đọc bài hồi hướng) HỒI HƯỚNGNguyện pháp giới chúng sinh Cùng tinh tấn tu hành Thoát chấp ngã vô minh Đồng viên thành Phật đạo. XẢ THIỀN(Thao tác kế tiếp là những động tác xoa bóp nhẹ nhàng)
11. KINH HÀNHKhi đi bách bộ kinh hành vẫn giữ tâm yên tĩnh như khi ngồi thiền
B. HƯỚNG DẪN THIỀN VỚI NGƯỜI ÍT CÓ THỜI GIANTrong những buổi toạ thiền ở các dịp lễ hội đông người. Người mới tu lần đầu và thời gian thực tập không có nhiều thì ta vẫn linh động hướng dẫn những căn bản để sau đó khi về nhà người ta có thể áp dụng có kết quả: |