Các bài văn so sánh tây tiến với việt bắc năm 2024

[Quang Dũng] Đề 1: Phân tích hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn 3. Từ đó, nhận xét tính chất bi tráng được thể hiện qua đoạn thơ. MB:

  • Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. “Tây Tiến” là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện sâu sắc phong cách thơ ông.
  • Nhà thơ khắc tạc thành công tượng đài nghệ thuật bằng ngôn từ về tập thể đoàn quân Tây Tiến trong sự hài hòa vẻ đẹp vừa hào hùng vừa hào hoa, đậm tính chất bi tráng ở đoạn thơ thứ 3. TB: LĐ 1: Giới thiệu vài nét về bài thơ và đoạn thơ
  • Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ: Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào, cũng như ở biên giới Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Tiến khá rộng từ Châu Mai - Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về phía Tây Thanh Hóa. Ngày ấy, nơi đây còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng có nhiều thú dữ. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, vô cùng thiếu thốn. Chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn. Tuy vậy, các chiến sỹ Tây Tiến vẫn phơi phới tinh thần lạc quan hào hùng. Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về Hòa Bình thành lập Trung đoàn 52, Quang Dũng là Đại đội trưởng ở đó từ đầu năm 1947 - 1948 rồi chuyển sang đơn vị khác. Nhà thơ nhớ đơn vị cũ mà viết bài thơ này. LĐ2: Hình tượng người lính Tây Tiến qua đoạn 3
  • Ngoại hình:
  • Thay vì dùng “đoàn quân” tg dùng “đoàn binh” – vừa chân xác vừa tài hoa, gợi sinh động hình ảnh những chiến binh có vũ khí đang trong tư thế xông trận oai phong – sẵn sàng tiến công chiến đấu, vừa gợi âm hưởng hào hùng, mang màu sắc sử thi hào hùng cho hình tượng thơ.
  • “Không mọc tóc”, “xanh màu lá”. Chi tiết tả thực, cách nói độc đáo:
  • Hình ảnh “không mọc tóc” gợi ta hình dung về những anh “vệ trọc”, “vệ túm” trong những năm đầu KCCP. Do thời tiết khí hậu, nhất là căn bệnh sốt rét rừng nơi Lam Sơn khiến hầu hết mọi người lính rụng tóc. . Điều kiện chiến đấu vất vả thiếu thốn buộc người lính phải cạo trọc đầu để thuận tiện trong sinh hoạt, đặc biệt là khi đánh giáp lá cà.
  • Hình ảnh “quân xanh màu lá” cũng vậy. Màu da xanh xao vì bệnh tật, vì những đêm thiếu ngủ, bữa thiếu ăn. Chính ở đây câu chữ chứa đựng sự hàm súc cao. Thơ ca chống Pháp viết về người lính dường như đều chối bỏ hiện thực này. Chính Hữu trong “Đồng chí” miêu tả chi tiết đến trần trụi hiện thực gian khổ của người lính: “Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá chân không giày” Tố Hữu khi vẽ chân dung người lính vệ quốc trong “Cá nước” chọn hình ảnh

“Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ” Hồng Nguyên có câu thơ gân guốc về hiện thực ấy trong “Nhớ”: “Lột sắt đường tàu, rèn thêm dao kiếm Áo vải chân không đi lùng giặc đánh” + Với TT cái hiện thực tàn khốc ấy không còn ở bên ngoài mà đã lặn vào trong tạo thành mái tóc, màu da.

  • Sức mạnh nội tâm
  • Hiện thực ấy qua ngòi bút Quang Dũng dường như được tái hiện bằng cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn, tếu táo, tinh nghịch, làm chủ hoàn cảnh, chiến thắng hoàn cảnh: không cho tóc mọc, xanh quân phục, xanh lá ngụy trang.
  • “Mắt trừng”: Mắt mở to vừa thể hiện sự mỏi mệt vì thiếu ngủ do hành binh trận mạc vừa thể hiện nghị lực vượt lên chính mình của người lính Tây Tiến, khí thế quyết tâm trong từng người lính, luôn sẵn sàng, tập trung cao độ cho mọi nhiệm vụ. Hình ảnh này vừa thể hiện sự căm giận, phẫn nộ sục sôi với kẻ thù xâm lược.
  • Ba chữ “dữ oai hùm” chứa đựng sức mạnh, ẩn chứa một vẻ đẹp giàu chất sử thi – cái thần thái oai phong, lẫm liệt, kiêu hùng như chúa sơn lâm khiến kẻ thù phải khiếp sợ. -> Tạo nên sự tương phản giữa vẻ ngoài với vẻ đẹp sức mạnh tinh thần bên trong “oai phong” đầy dũng khí, Quang Dũng làm cho những người lính Tây Tiến toát lên vẻ đẹp đậm chất sử thi hào hùng.
  • Vẻ đẹp tâm hồn: Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn người chiến sỹ Tây Tiến là ước mơ hướng về quê hương
  • Gửi mộng, gởi mơ là gửi mơ ước, khao khát đằm thắm [mộng chiến công truy kích giặc, mơ về một đôi mắt huyền, một mái tóc thề, một tà áo trắng, một dáng kiều thơm, về Hà Nội...]. Đó là nỗi nhớ quê hương trong sâu thẳm trái tim những người lính Tây Tiến. Đặc biệt, nỗi nhớ bật trào từ những rạo rực khát khao yêu thương: “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Hai câu thơ chứa đựng hai từ như nhãn tự làm ngời lên vẻ đẹp những người lính Tây Tiến – “mộng”, “mơ”. Nó khiến người lính Tây Tiến trở nên thật tình tứ: không phải nỗi nhớ mộc mạc được biểu đạt dung dị hướng đến “người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh khuya” trong thơ Hồng Nguyên. Nỗi nhớ của người lính Tây Tiến hướng về thủ đô yêu dấu, dồn vào “dáng kiều thơm”. Ba chữ “dáng kiều thơm” được xây dựng bằng bút pháp chấm phá, gợi tả tài hoa, thâu tóm vẻ đẹp riêng, chứa đựng sự quyến rũ kỳ diệu của những thiếu nữ HN thanh lịch. Nỗi nhớ ấy làm nên bản sắc riêng trong tâm hồn những người lính ra đi từ một góc phố hoặc giảng đường đại học. Có một thời người ta cho rằng những câu thơ ấy là biểu hiện của “mộng rớt tiểu tư sản”. Nó chỉ khiến người ta yếu mềm, ủy mị, mất đi nhuệ khí chiến đấu song chính nỗi nhớ ấy mới là cội nguồn của sức mạnh tinh thần kỳ diệu, giúp người lính Tây Tiến vững bước vượt lên tất cả. Bởi họ hiểu rằng những bước hành quân gian khổ hôm nay là để dành, để giữ những dáng kiều thơm cho mai sau. Mục đích cầm súng giàu chất nhân văn của cả dân tộc ta trong cuộc KCCP và trong suốt thời kỳ lịch sử của dân tộc:

“Dù rằng đời ta thích hoa hồng Kẻ thù buộc ta ôm cây súng” Cách diễn đạt của tác giả có phần sách vở khi dùng hình ảnh dáng kiều thơm để nói về người phụ nữ đẹp, điều này lại có tác dụng phản ánh những người lính vốn xuất thân từ học sinh, sinh viên, cách nói “dáng kiều thơm" chứng tỏ tâm hồn họ thấm nhuần vẻ đẹp của những áng Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Hoa Tiên mà đã một thời họ được học khi ngồi trên ghế nhà trường.

  • Vẻ đẹp của lý tưởng cứu nước cao cả: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
  • “Đời xanh” là một hoán dụ nghệ thuật để chỉ quãng đời tuổi trẻ, quãng đời đẹp nhất, có ý nghĩa nhất của những người lính trí thức HN, vậy mà họ không hề phân vân, do dự khi cống hiến quãng đời ấy cho sự nghiệp cứu nước.
  • Cái ngữ khí biểu đạt bằng thứ ngôn từ đặc sắc, tự nhiên “mặc kệ”, “chẳng tiếc” lại trở thành những nhãn tự trong dòng thơ để biểu đạt sâu sắc, cảm động lý tưởng cứu nước, thái độ dứt khoát, ý chí quyết tâm sắt đá, dâng hiến những gì có giá trị nhất của đời mình cho cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những người lính. Họ ra đi từ những miền quê khác nhau nhưng đều có đích đến giống nhau – chiến trường – nơi phẩm chất anh hùng tiềm tàng trong họ sẽ được phát lộ, thử thách, tôi rèn.
    • Câu thơ có âm điệu rắn rỏi, lời thơ ít nhiều mang phong cách khẩu ngữ, buột ra như một lời nói thường tưởng không có gì là chau chuốt, là nghệ thuật vậy mà lại có khả năng làm xúc động lòng người. Thế mới biết một câu thơ hay bao giờ cũng là câu thơ được viết từ ngôn ngữ chân cảm của người nghệ sỹ. Không chỉ vậy cái điệu thơ ngang tàng ấy còn phảng phất lời thơ trong Kinh thi, Chinh Phụ ngâm khúc, Tống biệt hành...
  • Ta cũng tìm thấy sự đồng điệu này ở những người lính thời kỳ KCCP nơi hồn thơ Chính Hữu: “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” Dòng thơ là sản phẩm của hai nghệ sỹ có nguồn gốc xuất thân khác nhau nhưng có sự đồng điệu kỳ diệu trong cách biểu đạt cũng như trong nội dung trữ tình được thể hiện. Đối với những người lính xuất thân nghèo khó, gian nhà là tài sản lớn nhất, có giá trị nhất. Nó được tạo dựng bằng sự chắt chiu của nhiều thế hệ trong gia đình. Vậy mà những người lính nông dân ấy sẵn sàng để lại sau lưng, vững bước ra trận.
  • Sự hy sinh cao đẹp:
  • Cuộc trường chinh về Miền Tây khiến những người lính đối mặt với thử thách khốc liệt nhất – cái chết. Quang Dũng ghi lại hình ảnh đồng đội mình ngã xuống mang âm điệu ngậm ngùi: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” “Áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Những câu thơ gợi lên hình ảnh rùng rợn, hãi hùng của chiến trường. Ta hình dung đây đó những nấm mồ hoang lạnh nơi đất khách, xứ người. Các anh về nơi an nghỉ cuối cùng một manh chiếu che thi thể cũng không có... Nó như truyền đến ta những cảm giác lạnh rợn từ những lời thơ Đoàn Thị Điểm: “Hồn tử sỹ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi Chinh phu sỹ tử mấy người

Nào ai mặc mặc, nào ai gọi hồn”

  • Viết về chiến tranh trong thơ ca CM, mấy ai dám đưa những hình ảnh thê lương ấy vào trang văn, trang thơ bởi có một thời người ta ngỡ rằng những hình ảnh ấy khiến người đang sống chùn bước, nhụt ý chí nhưng Quang Dũng lại dám viết bởi nhà thơ có lối nói riêng. Xuất phát từ những cảm xúc rất thật của mình, tài năng, thành công của Quang Dũng là ở chỗ nhà thơ chiến sỹ ấy viết về nó để làm ngời lên vẻ đẹp hào hùng của hình tượng mình đang khắc họa. Ngay sau dòng thơ này, Quang Dũng đẩy vẻ kiêu dũng của đồng đội đến cực điểm: “Áo bào thay chiếu anh về đất” Ở đây, nếu Quang Dũng chọn lối viết tả thực câu thơ sẽ phải là: “Áo sờn thay chiếu anh vùi đất” Thay vào đó là hình ảnh “áo bào”, “về đất” được bao bọc trong nguồn xúc cảm đầy chất lãng mạn. “Áo bào” là kết quả sự tái tạo một thi liệu cổ điển, giúp Quang Dũng tô đậm vẻ đẹp tráng sỹ trượng phu của người lính Tây Tiến – ngã xuống như những dũng tướng, vẫn oai phong, lẫm liệt, kiêu dũng.
  • Chữ “về” – sản phẩm của cách nói giảm, nói tránh diễn tả tư thế ngạo nghễ, tâm thế thản nhiên, thư thái của người lính Tây Tiến khi đón nhận cái chết, không còn mang nét nghĩa nặng nề bi thương, mất mát của sự tổn thất mà hàm chứa niềm tự hào của những con người ý thức rằng: hoàn thành nhiệm vụ với đất nước, tổ quốc, nếu có ngã xuống cũng là được trở về với đất mẹ, sống trong vòng tay bao dung yêu thương của đất mẹ.
  • “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Con sông Mã lần hai xuất hiện. Lần một nó gợi nhớ, gợi thương, lần hai nó được chọn để khép lại khúc độc hành về những người lính Tây Tiến. Người lính ra đi dẫu không có tiếng kèn đưa tiễn của đám quân nhạc thì đã có khúc độc hành của dòng sông Mã. Với chữ “gầm”, sông Mã đã gầm lên, tác giả đã trao cho con sông khúc nhạc hồn tử sĩ vừa đau thương vừa uất hận. Dường như cả đất trời, cả quê hương đang nghiêng mình tiễn đưa người lính về nơi an nghỉ cuối cùng. Lời thơ gợi không khí chiến trận của bản anh hùng ca trong lời thơ cổ. Câu thơ nói cái bi mà vẫn hùng. => Với những câu thơ thấm đẫm cảm xúc lãng mạn, bi tráng, Quang Dũng làm hiện lên hình tượng người lính Tây Tiến trong vẻ đẹp chói ngời lí tưởng cứu nước, tinh thần quả cảm khi đối mặt với thử thách nơi chiến trường. Đó thực sự là những con người làm chủ hoàn cảnh. Không chỉ vậy, họ còn là những con người tiềm tàng khả năng cải tạo hoàn cảnh.

LĐ 3: Đánh giá chung: Đoạn thơ khắc họa rõ nét chân dung người lính đậm chất bi tráng

  • “Bi”: Buồn, đau thương. “Tráng”: Mạnh mẽ, hùng tráng.
  • Người lính Tây Tiến có sự hi sinh, mất mát nhưng không làm giảm đi tinh thần mạnh mẽ, quyết tâm sẵn sàng hi sinh để bảo vệ đất nước.
  • Giọng thơ trang trọng, hào sảng cùng hệ thống từ Hán Việt, thủ pháp nói giảm nói tránh,... KB:
  • Khẳng định: là đoạn thơ đặc sắc của bài.
  • Quang Dũng kế thừa thành tựu nghệ thuật của thơ ca Trung đại, lãng mạn trong việc khắc họa những con người lý tưởng của thời đại. Hình tượng người lính Tây Tiến vừa anh hùng

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Âm hưởng nhịp nhàng, nhè nhẹ của những thanh bằng cộng với cách ngắt nhịp câu thơ 2- 2-3 như kéo dài âm điệu mượt mà trong lời thơ, vẽ ra một không gian mênh mang, bao la. Không gian ấy được thu vào tầm mắt người lính Tây Tiến từ một thế đứng rất “lính”. Người lính đã nhìn lên, nhìn xuống, đến đây như dừng chân bên dốc núi phóng tầm mắt nhìn ngang ra xa để thấy nhà ai đó thấp thoáng, ẩn hiện sau một không gian mịt mùng, sương rừng mưa núi. Hai câu thơ có sự phối hợp bằng trắc rất tài tình.

  • Hai câu thơ tiếp theo sau đó, vừa tiếp nối mạch cảm xúc về thiên nhiên Tây Bắc vừa làm nổi rõ hình ảnh người lính: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêungười” Tây Bắc dữ dội hoang sơ không chỉ được mở ra theo chiều không gian, theo những địa danh xứ lạ: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch..à còn được khám phá ở cả chiều dài thời gian. “Chiều chiều”, “đêm đêm” là những điệp từ nhấn mạnh cái hoang vu, dữ dội và cái uy lực ghê rợn của thiên nhiên, dường như chỉ có thác gầm và cọp hú ngự trị ngày đêm.
  • Hình ảnh người lính và kỉ niệm tình quân dân ấm áp Trên nền thiên nhiên kì vĩ hoang dã, nỗi nhớ của nhà thơ với đồng đội của mình trở nên day dứt, trầm lắng đi, khi nghĩ đến những người bạn đã “bỏ quên đời” giữa chặng đường hành quân gian khổ: “Anh bạn giãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời” Không nên hiểu câu thơ theo ý nghĩa người lính mệt mỏi gục lên súng mũ quên hết thảy sự đời. Hiểu như thế e làm mất đi vẻ hào hùng, khí phách đẫm chất bi tráng của người lính nổi bật trên nền núi rừng hiểm trở. Ở đây Quang Dũng miêu tả cái chết của đồng đội như một sự xả thân cho lí tưởng. Người lính chết mà vẫn cầm chắc tay súng, chết trong tư thế lên đường, tư thế hành quân. Đây là hình ảnh vừa bi vừa hùng làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của người lính Giữa những kỉ niệm đầy gian nan khổ ải, đoạn thơ Quang Dũng khép lại bằng những kỉ niệm ấm áp, vút cao như một tiếng hát vui: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp sôi”. Âm điệu đang căng thẳng bi thương, bỗng chuyển sang êm ả thanh bình. Nhớ về Tây Tiến, nhà thơ không thể quên tình cảm quân dân trong những tháng ngày hành quân dãi dầu gian khổ. Trên con đường gian lao, một hôm nào đó người lính đã dừng chân ở một bản làng giữa rừng sâu. Nơi đây, các anh đã được đồng bào, đặc biệt là các cô gái: Mèo, Mán, Mường... xinh đẹp như những bông hoa rừng đón tiếp niềm nở bằng những bữa cơm nếp xôi mà khói hương từ đấy cứ thơm ngát mỗi bước quân hành. Câu thơ của Quang Dũng có từ “ôi” để gợi lên nỗi nhớ, “nhớ ôi” như tiếng nói hoài niệm, sao xuyến cháy bỏng trong trái tim nhà thơ. Bữa cơm đầu lên khói tỏa lan mùi nếp xôi gợi nhớ tới không khí gia đình đầm ấm, xua tan đi cảm giác heo hút trống vắng ở tâm hồn những người chiến sĩ còn rất trẻ. Cách nói của Quang Dũng trong câu thơ rất lạ, không phải Mai Châu nhà em mà là “Mai Châu mùa em”. “Mùa” ở đây phải chăng là mùa của nỗi nhớ về những tấm lòng thơm

thảo, của kỉ niệm một mốc thời gian đã trở thành dấu ấn in sâu trong trái tim người chiến sĩ. LĐ 3: Đánh giá chung

  • Nội dung:
    • Cảnh hành quân trên nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ, thơ mộng miền Tây.
    • Sự gắn bó sâu sắc, nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ về những tháng ngày kháng chiến – một thời mãi mãi để nhớ và tự hào.
  • Nghệ thuật: Nhận xét về chất nhạc, họa trong đoạn thơ

+ Chất liệu của hội họa là đường nét, màu sắc, hình

khối..ất liệu của âm nhạc là âm thanh, nhịp điệu, tiết

tấu...

Nghĩa là nhà thơ dùng màu sắc, đường nét, âm thanh làm

phương tiện diễn đạt tình cảm của mình.

+ Tây Tiến của QD có sự kết hợp hài hòa giữa nhạc và

họa:

. Đoạn thơ sử dụng nhiều từ ngữ tạo hình, kết hợp với

nghệ thuật tương phản và những nét vẽ gân guốc: khúc

khuỷu, thăm thẳm, heo hút, súng ngửi trời, ngàn thước

lên cao, ngàn thước xuống...đã vẽ được một bức tranh

núi rừng Tây Bắc hiểm trở, dữ dội

. Xen vào những nét vẽ gân guốc giàu tính tạo hình là

những nét vẽ mềm mại, gam màu lạnh xoa dịu cả khổ

thơ. Câu thơ sử dụng toàn thanh bằng: Nhà ai Pha Luông

mưa xa khơi

. Chất nhạc được tạo ra bởi những âm hưởng đặc biệt, những thanh trắc tạo cảm giác trúc trắc, khó đọc kết hợp với những thanh bằng làm nhịp thơ trầm xuống tạo cảm giác thư thái, nhẹ nhàng. KB:

  • Đoạn thơ hay trong bài làm sống dậy cả một thời đau thương mà anh dũng.
  • Đóng góp cho sự phong phú, đa dạng của thơ văn chống Pháp.

Đề 3 : Cảm nhận đoạn thơ: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ... Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” Từ đó, nhận xét về cái nhìn thiên nhiên của nhà thơ Quang Dũng.

MB: Giới thiệu:

  • QD
  • Bài thơ TT
  • Dường như tất cả đặc sắc nghệ thuật nổi bật của tác phẩm, cái nhìn thiên nhiên độc đáo đã được chưng cất trong 8 câu thơ: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ... Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” TB: LĐ1: Tổng quát
  • Hoàn cảnh ra đời, địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến.
  • Về đoạn thơ: vị trí.
  • Đoạn thơ nằm trong mạch thơ tập trung tái hiện bức tranh thiên nhiên cuộc sống con người miền Tây trong sự hài hòa hai

vẻ đẹp vừa hoang vu, hiểm trở, dữ dội, hùng vĩ, vừa rất đỗi thơ mộng, mỹ lệ, trữ tình. 8 câu thơ tập trung làm bật lên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình, đượm vẻ hoang sơ của thiên nhiên, cuộc sống, con người miền Tây qua cái nhìn của những người lính Tây Tiến.

  • Là một nghệ sỹ đa tài, hồn thơ của Quang Dũng rất nhạy cảm với những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của thiên nhiên, cuộc sống, con người nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy hiện lên trong một không gian, thời gian làm nổi bật nhất vẻ lung linh, huyền ảo, trữ tình của nó. Đó là khung cảnh một đêm liên hoan đầy tình nghĩa quân dân và một buổi chiều sông nước miền Tây gắn với một cuộc chia tay đầy lưu luyến. LĐ2: Đặc sắc đoạn thơ
  • Bức tranh miền Tây trong khung cảnh đêm hội liên hoan đầy tình nghĩa quân dân
  • Hồi ức nhà thơ sống dậy bằng những kỷ niệm khó quên về một đêm hội liên hoan đậm bản sắc miền Tây: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ..ạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
  • Dòng thơ như cũng sáng lên bởi câu chữ, hình ảnh chứa đầy ánh sáng. Hai chữ “bừng lên” rất giản dị mà lại vô cùng hàm súc. Trước hết, nó gợi chính xác sự hiện diện bất ngờ của ánh sáng đêm rừng. Không chỉ vậy, dường như nó còn gợi được cả sự bừng tỉnh của thiên nhiên ở một vùng đất hoang sơ khi có con người xuất hiện. Hình như những người lính Tây Tiến đang thổi hồn và đem đến sức sống cho vùng đất khuất thấp, hẻo lánh này. Hai chữ “bừng lên” còn diễn tả chân thực và đầy ấn tượng không khí náo nức, tưng bừng của đêm hội.
  • Khung cảnh đêm hội được thể hiện bằng hệ thống chi tiết vừa rất thực, vừa rất ảo, “đuốc hoa”, “xiêm áo”, “man điệu”, “e ấp”. Qua ánh sáng lung linh của lửa đuốc, những âm thanh réo rắt, tình tứ của những điệu khèn có phần hoang dã, cái nhìn của những người lính Tây Tiến với cảnh và con người nơi đây thấm đẫm cảm xúc lãng mạn.
  • Chữ “đuốc hoa” là kết quả nhà thơ đã mỹ lệ hóa một hình ảnh vốn rất dân dã, bình dị - những bó đuốc được đốt sáng bằng chất liệu như nứa, rơm, bỗng trở nên “đuốc hoa”, vừa có ánh sáng, màu sắc, hình ảnh gợi ta liên tưởng đến thứ ánh sáng ấm áp, tình tứ được đốt lên trong những dịp con người thực sự hạnh phúc – một đêm tân hôn hoặc một đêm dạ hội. Theo đó mà hình ảnh con người Miền Tây hiện lên thật quyến rũ, diễm lệ - “kìa em xiêm áo”, “e ấp”. Hai chữ “kìa em” chứa đựng cảm xúc đầy ngỡ ngàng, ngạc nhiên xen lẫn mê say, vui sướng của những người lính Tây Tiến trước sự xuất hiện bất ngờ của những cô gáiọ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy, với những cử chỉ e lệ, giàu chất nữ tính, trong những vũ điệu sôi động, đầy màu sắc xứ lạ. Họ giống như những tiên nữ giáng trần vậy.
  • Vẻ đẹp lý tưởng, sự trẻ trung, hồn nhiên của họ đã khơi dậy những cảm xúc lãng mạn, bay bổng, có chút đã tình trong tâm hồn những người lính vốn xuất thân từ tầng lớp trí thức thủ đô.
  • Cảnh đêm hội còn truyền đến người đọc cảm giác ngất ngây, mê say như chính mình đang sống hòa nhập với khung cảnh ấy.
  • Bức tranh Miền Tây trong chiều sông nước gắn với buổi chia tay
  • Khép lại bức tranh đêm hội Miền Tây là dòng hoài niệm đầy lưu luyến về một buổi chiều sông nước gắn với cuộc chia tay đầy nhung nhớ “Người đi Châu Mộc chiều sương ấy ... Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
  • Giọng thơ không còn cái náo nức, rộn ràng, thay thế vào đó là một giai điệu trữ tình sâu lắng, bồi hồi, xốn xang, được gửi vào những dòng thơ đầy tài hoa, mở ra trước mắt người đọc là một không gian Miền Tây trong chiều sương gắn với một sự kiện thành kỷ niệm: một cuộc chia tay tiễn biệt người đi. Sự kiện này bản thân nó chứa đựng nỗi buồn bởi lẽ cuộc chia tay nào cũng là sự xa cách, có thể là tạm thời, có thể là vĩnh viễn. Cuộc chia tay ấy lại diễn ra vào buổi chiều, hơn thế lại là một buổi chiều sương. Nỗi buồn càng chất chứa, đong đầy.
  • Những cuộc chia tay được ghi lại trong thơ ca Trung Đại thường diễn ra ở một điểm cao bởi ở điểm nhìn ấy, cả người tiễn và người đi đều có thể nhìn thấy nhau trong thời gian lâu nhất. Điều đó giúp mỗi người bớt đi cảm giác chống chếnh, cô đơn khi phải rời xa những người thân yêu hoặc những người thân thiết của mình. Vậy mà cuộc chia tay, trong ký ức của QD lại diễn ra trong một không gian che khuất tầm nhìn bởi những làn sương chiều giăng mắc. Câu chữ ko có từ nào trực tiếp diễn tả nỗi buồn vậy mà nỗi buồn nơi lòng người như chứa chan trong câu chữ mà còn thấm đẫm tâm hồn người đọc. Đây là dấu ấn lối “tả cảnh ngụ tình” vừa tinh tế, tài hoa, vừa chân thực, xúc động.
  • Ba chữ “chiều sương ấy” như gợi không gian hoài niệm vừa thăm thẳm, vừa vời vợi. Cảnh sông nước Miền Tây còn được tái hiện với “hồn lau nẻo bến bờ”. Bến bờ vốn đã xa nẻo, càng khuất người, tất cả gợi lên một không gian xa vắng, quên lãng. Chữ “hồn lau” rất gợi, rất sống động. Thủ pháp nhân hóa làm lời thơ vốn dùng để đặc tả sắc màu trắng bạc của hoa lau - một loài hoa gợi về vùng không gian hoang sơ, hoang dại, đã trở thành ám ảnh trong thơ Quang Dũng. Trong khúc ca “Những làng đi qua”, Quang Dũng kịp ghi lại một sắc hoa lau thi vị, gợi cảm như thế: “Hoa lau trắng bạc trời Yên Thế” Giờ đây, hoa lau trở thành một sinh thể có điệu hồn, có nỗi lòng, tâm trạng riêng. Ta có cảm giác nếu không có bước chân người lính Tây Tiến đặt lên vùng đất này, hoa lau có đẹp đến đâu cũng chỉ nở, chỉ phô bày vẻ đẹp như chưa từng có. Bởi vậy điệu thơ như có gì xa xót trước một vẻ đẹp bị lãng quên. Đó là chất thi sỹ, chất lãng mạn của người lính Tây Tiến được đánh thức trong phút giây giao cảm bất ngờ giữa hồn người và hồn tạo vật. Điều đáng chú ý, trong cảm nhận của những người lính ấy, hồn lau kia phải chăng còn là mảnh hồn người lính Tây Tiến gửi lại Mai Châu khi giã từ theo quy luật tình cảm rất kì diệu mà Chế Lan Viên đã chiêm nghiệm: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn” LĐ3: Cái nhìn thiên nhiên của nhà thơ Quang Dũng Cái nhìn thiên nhiên được thể hiện một cách đầy thơ mộng, trữ tình với một hồn thơ đầy tinh tế, nhạy cảm; tạo cho người đọc một cảm giác bâng khuâng, nao lòng trước cảnh đẹp của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc. Bằng chính cái tôi lãng mạn
  • “Ai” : đại từ phiếm chỉ, câu thơ mang âm hưởng ca dao, đồng thời gợi 1 không gian gần gũi, thân thương [Tiếng ai tha thiết bên cầu... - cd ]
  • Những từ láy “bâng khuâng”, “bồn chồn” gợi rất đúng không khí và tâm trạng biệt li. à Từ dùng rất tinh tế: “bâng khuâng”: gợi nỗi niềm, cảm xúc bên trong tâm hồn. “bồn chồn”: diễn tả tâm trạng, cảm xúc biểu lộ ra bên ngoài ở thái độ, hành động. Hai từ dùng cân xứng trong câu thơ có tiểu đối tạo âm điệu dìu dặt, xao xuyến.
  • Cảnh tiễn đưa đầy xúc động qua hình ảnh: Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay...
  • “Áo chàm” : đơn sơ , bình dị mà khó phai - hình ảnh hoán dụ - gợi về con người Việt Bắc chân chất, mộc mạc mà nghĩa tình bền chặt.
  • Nhịp của câu thơ lục bát ở đây đã có sự xáo trộn [3/3/2]: Cầm tay nhau/ biết nói gì/ hôm nay... à Diễn tả thần tình cái ngập ngừng, bối rối lúc chia tay.
  • Cầm tay nhau biết nói gì...: xúc động không nên lời, ngôn ngữ dường như đã trở nên bất lực,
  • Hình ảnh cầm tay gợi tình cảm thắm thiết, yêu thương, không muốn rời xa của người đi, kẻ ở [So sánh: Cầm tay hỏi hết xa gần.../ Nguyễn Khuyến, Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.../ Chính Hữu...]
  • “Biết nói gì”: diễn tả cái không lời nhưng thể hiện được nhiều nhất tình cảm dạt dào, dâng trào trong nỗi xúc động. +Dấu chấm lửng [...] cuối dòng như một nốt lặng đọng lại biết bao cảm xúc, tình cảm vấn vương. è Cảnh chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn. Một cuộc chia tay lớn mang tính chất chính trị trọng đại trong hình thức cuộc chia tay tình tứ của lứa đôi. LĐ 3: Đánh giá chung
  • Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu - giọng tâm tình như tiếng nói “đồng tâm, đồng tình, đồng chí”, lời thơ là tiếng lòng thiết tha.
  • Nhà thơ đã thể hiện nghĩa tình thắm thiết với Việt Bắc – quê hương cách mạng, với đất nước và nhân dân, với cuộc kháng chiến nay đã trở thành kỷ niệm khiến niềm vui trong hiện tại luôn gắn kết với nghĩa tình trong quá khứ và niềm tin ở tương lai. Bài thơ là khúc hát tâm tình của con người Việt Nam trong kháng chiến mà chiều sâu của nó là truyền thống ân nghĩa, là đạo lý thủy chung của dân tộc.
  • Nhận xét về tính dân tộc thể hiện qua đoạn thơ: Tính dân tộc thấm đẫm trong đoạn thơ trên nói riêng và trong thơ Tố Hữu nói chung. Nó trở thành đặc trưng phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu.
  • Đề tài: chia ly -> quen thuộc.
  • Thể thơ lục bát truyền thống, lối đối đáp, xưng hô mình - ta mang đậm màu sắc ca dao.
  • Cách nói giàu hình ảnh, giọng điệu ngọt ngào, giàu nhạc tính, mang chất liệu dân gian...

KB:

  • Đoạn thơ/bài thơ là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, cũng là một trong những thành công xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
  • Qua đoạn thơ, ta thấu hiểu và trân trọng nghĩa tình cách mạng của những con người Việt Bắc và những người cán bộ Cách mạng miền xuôi. Đó chính là nguồn sức mạnh đặc biệt giúp Cách mạng của ta giành thắng lợi dù phải trải qua muôn vàn gian khó.

Đề 2: Phân tích đoạn thơ sau trong tác phẩm Việt Bắc để làm sáng tỏ thơ Tố Hữu là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất chính trị: “Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy. Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi... Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.” [Việt Bắc - Tố Hữu] MB:

  • Thơ ca kết tinh vẻ đẹp của thời đại. Âm vang của lịch sử thường đọng lại đẹp nhất, rực rỡ nhất trên những trang thơ. Hồn sông núi như ngưng tụ vào trong hình ảnh thơ, trong mỗi câu chữ. Hạnh phúc nhất của người cầm bút có lẽ là in dấu ấn nghệ thuật trên những trang thơ không phai mờ trong tâm trí người đọc. Có thể nói “Việt Bắc”của Tố Hữu là những vần thơ như thế.
  • Việt Bắc là bản trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp. Bài thơ đi vào lòng người bằng giọng điệu trữ tình như ca dao, thể hiện sâu sắc nỗi niềm của những người con rời “thủ đô kháng chiến” với bao lưu luyến nhớ thương. Nỗi nhớ ấy được cất lên thật cảm động: [Trích đoạn thơ]. TB : LĐ 1: Giới thiệu khái quát.
  • Hoàn cảnh sáng tác: [đề 1].
  • Đoạn thơ trên là những vần thơ đẹp của bản tình ca “Việt Bắc”. Tiếp nối mạch cảm xúc toàn bài, nỗi nhớ ở đây đã thể hiện sâu sắc và cảm động tình cảm của người cán bộ kháng chiến đối với đất và người Việt Bắc. LĐ 2 : Phân tích đoạn thơ.
  • Bao trùm cả đoạn là nỗi nhớ mênh mang, da diết:
    • Điệp ngữ: Nhớ gì... Nhớ từng...
    • So sánh: “ Nhớ gì như nhớ người yêu » à Cách diễn đạt trữ tình, ý nhị, sâu sắc, nhớ Việt Bắc như nỗi nhớ trong tình yêu: thường trực, sâu lắng, mãnh liệt.
  • Nỗi nhớ được thể hiện ở nhiều tầng bậc:
    • Hiện hữu cùng bước đi thời gian: trăng lên – nắng chiều – sớm - khuya
    • Trải ra với các không gian: bản khói cùng sương – bếp lửa – rừng nứa – bờ tre – ngòi Thia – sông Đáy – suối Lê... +“Nhớ từng”: từ ngữ dùng tinh tế, điểm lại một cách tỉ mỉ, không bỏ sót ...
  • Nhớ thiên nhiên VB : . Nhớ những đêm trăng huyền ảo, mảnh trăng lấp ló nơi đầu núi, những buổi chiều nắng trải vàng ấm áp trên nương -> Hai khoảnh khắc đẹp nhất của núi rừng VB. . Nhớ cảnh núi đèo, bản làng chìm trong sương khói bồng bềnh. . Cảnh bếp lửa bập bùng trong mỗi đêm đông. . Nhớ cảnh những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa [Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê]. Có lẽ đó không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm cảm xúc. Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi. --> Không miêu tả chi tiết, Tố Hữu chỉ chấm phá, khơi gợi mà hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa đơn sơ vừa thi vị, gợi rõ nét độc đáo riêng biệt của Việt Bắc, khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những người đã từng sống, gắn bó máu thịt với Việt Bắc mới có cái nhìn toàn diện có nỗi nhớ da diết và cảm nhận sâu sắc, thấm thía như thế
  • Nhớ con người VB rất đỗi thân thương : Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. . Hình ảnh thơ gợi tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu khó của những cô gái nuôi quân nơi chiến khu Việt Bắc. . Hình ảnh bếp lửa gợi những buổi đoàn tụ ấm cúng và nghĩa tình quân dân nồng đượm. Tình quân dân, cách mạng mà mang không khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình.
  • Sâu nặng nhất là nỗi nhớ về nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc:
  • Đại từ “mình - ta” đan xen kết hợp với đại từ chỉ vị trí “đây
  • đó” à Gợi sự gắn bó, kề vai sát cánh bên nhau...
  • Thành ngữ “đắng cay ngọt bùi” khái quát những gian khổ, vất vả để nhấn mạnh sự đồng cam cộng khổ...
  • Những hình ảnh: “chia củ sắn lùi”, “ bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng” là những chi tiết chân thực từ đời sống kháng chiến hóa thành thơ gợi nghĩa tình sâu nặng của những con người trong kháng chiến. è Đoạn thơ là khúc hát nghĩa tình của người kháng chiến đối với chiến khu Việt Bắc, khơi gợi ở người đọc nghĩa tình đồng bào, đạo lý “ uống nước nhớ nguồn”. LĐ 3: Đánh giá chung
  • Bức tranh Việt Bắc hiện lên qua nỗi nhớ, trong hoài niệm có ba mảng thống nhất và hòa nhập vào nhau: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng Việt Bắc, nỗi nhớ con người, cuộc sống ở Việt Bắc và những kỉ niệm về cuộc kháng chiến gian khổ mà chan chứa nghĩa tình.
  • Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, điệp từ “nhớ” cùng cách ngắt nhịp của câu thơ lục bát tạo nên nét nhạc thơ thật đằm thắm, những hình ảnh chân thực, bình dị mà giàu sức gợi cảm ... => Chuyện nghĩa tình cách mạng, chuyện kháng chiến đến với người đọc bằng tiếng nói của tình yêu.
  • Đọan thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình chính trị, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc.

Câu chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và “mình”.

Chủ Đề