100 trường o cấp hàng đầu ở zimbabwe năm 2022

Zimbabwe (tên chính thức là: Cộng hòa Zimbabwe, phát âm: Dim-ba-bu-ê, trước đây từng được gọi là Nam Rhodesia, Cộng hòa Rhodesia và sau đó là Zimbabwe Rhodesia) là một quốc gia không giáp biển nằm ở phía nam lục địa Phi, bị kẹp giữa hai con sông Zambezi và Limpopo. Zimbabwe có chung đường biên giới với các nước Nam Phi ở phía nam; Botswana ở phía tây bắc; Mozambique ở phía đông và Zambia ở phía tây nam c. Zimbabwe được đặt tên theo thành phố được xây bằng đá nổi tiếng vào thế kỷ XIV – Đại Zimbabwe nằm ở đông nam quốc gia này. Zimbabwe nổi tiếng với thác Victoria ở trên sông Zambezi và nhiều khu bảo tồn hoang dã. Quốc gia này có 16 ngôn ngữ chính thức,[2] trong đó tiếng Anh, tiếng Shona, và tiếng Bắc Ndebele được sử dụng phổ biến nhất.

Cái tên Zimbabwe xuất xứ từ “Dzimba dza mabwe,” có nghĩa “Nhà của đá” trong tiếng Shona.[5]

  • Địa lý và môi trường tự nhiên[sửa|sửa mã nguồn]
    • Các yếu tố môi trường tự nhiên[sửa|sửa mã nguồn]
    • Thời tiền thuộc địa ( 1000 – 1887 )[sửa|sửa mã nguồn]
    • Thời kỳ thuộc địa ( 1888 – 1965 )[sửa|sửa mã nguồn]
    • UDI và nội chiến ( 1965 – 1979 )[sửa|sửa mã nguồn]
  • Phân chia hành chính[sửa|sửa mã nguồn]
  • nhà nước và chính trị[sửa|sửa mã nguồn]
  • Các lực lượng vũ trang[sửa|sửa mã nguồn]
    • Quân đội Quốc gia Zimbabwe[sửa|sửa mã nguồn]
    • Siêu lạm phát kinh tế 2003 – 2009[sửa|sửa mã nguồn]
    • Quan điểm chính phủ nước nhà và những lệnh cấm vận quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]
    • Khủng hoảng người tị nạn[sửa|sửa mã nguồn]
  • Văn hoá và vui chơi[sửa|sửa mã nguồn]
    • Hướng đạo sinh[sửa|sửa mã nguồn]
  • Các hình tượng vương quốc, vật tượng trưng và quốc ca[sửa|sửa mã nguồn]
  • Xếp hạng quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]
  • Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Địa lý và môi trường tự nhiên[sửa|sửa mã nguồn]

Zimbabwe là một vương quốc nằm kín trong lục địa ở miền nam châu Phi. Đa phần nước này nằm ở TT cao nguyên TT ( thảo nguyên cao ) trải dài từ tây nam tới tây-bắc ở những cao độ trong khoảng chừng giữa 1200 và 1600 m. Vùng phía đông nhiều đồi núi với Núi Nyangani là điểm cao nhất ở độ cao 2,592 m. Khoảng 20 % vương quốc là thảo nguyên thấp dưới 900 m. Thác Victoria, một trong những thác nước lớn nhất và đẹp nhất quốc tế, nằm ở tây nam nước này như một phần của sông Zambesi. Zimbabwe có khí hậu nhiệt đới gió mùa với một mùa mưa thường từ tháng 11 tới tháng 3. Khí hậu ôn hoà nhờ độ cao .

Các yếu tố môi trường tự nhiên[sửa|sửa mã nguồn]

Nhiều vùng rộng lớn của Zimbabwe từng có rừng bao phủ, rừng cây bụi châu Phi, với đời sống hoang dã phong phú. Sự nghèo đói, tăng trưởng dân số và thiếu hụt nhiên liệu đã dẫn tới tình trạng phá rừng trên diện rộng cùng nạn săn bắn trộm đã làm suy giảm đáng kể thiên nhiên hoang dã. Phá rừng và sự xuống cấp đất là một vấn đề lớn[6] và đã dẫn tới tình trạng xói mòn làm giảm lượng đất màu mỡ. Việc khai thác mỏ quản lý kém đã dẫn tới sự nhiễm độc và ô nhiễm kim loại.[7]

Ở thời Trung Cổ, đã có một nền văn minh trong vùng, được biểu lộ rõ qua những tàn tích tại Đại Zimbabwe, gần Masvingo và những khu vực nhỏ hơn khác. Địa điểm khảo cổ học chính là một kiến trúc đá khô độc nhất. Khoảng đầu thế kỷ thứ X, thương mại tăng trưởng với những thương nhân Hồi giáo trên bờ biển Ấn Độ Dương, giúp tăng trưởng Vương quốc Mapungubwe ở thế kỷ XI. Đây là tiền thân của những nền văn minh Shona ấn tượng hơn sẽ thống trị vùng .

100 trường o cấp hàng đầu ở zimbabwe năm 2022
Các tháp của Đại Zimbabwe

Thời tiền thuộc địa ( 1000 – 1887 )[sửa|sửa mã nguồn]

Các xã hội nói tiếng Shona nguyên thủy lần đầu tiên xuất hiện ở trung tâm châu thổ Limpopo ở thế kỷ thứ IX trước khi di chuyển tới các cao nguyên Zimbabwe. Cao nguyên Zimbabwe cuối cùng trở thành trung tâm của các nhà nước Shona sau đó. Vương quốc Mapungubwe là quốc gia đầu tiên trong một loạt các quốc gia thương mại tinh vi đã phát triển ở Zimbabwe khi những nhà thám hiểm đầu tiên của châu Âu từ Bồ Đào Nha đặt chân tới. Họ trao đổi vàng, ngà voi và đồng để lấy vải vóc và thuỷ tinh. Từ khoảng năm 1250 cho tới năm 1450, Mapungubwe bị lấn át bởi Vương quốc Zimbabwe. Nhà nước Shona này tiếp tục phát triển và mở rộng kiến trúc đá của Mapungubwe, vẫn còn tồn tại tới ngày nay tại những tàn tích của kinh đô vương quốc Đại Zimbabwe. Từ khoảng 1450–1760, Zimbabwe nhường bước trước Vương quốc Mutapa. Nhà nước Shona cai trị hầu hết khu vực là lãnh thổ Zimbabwe hiện tại và nhiều vùng thuộc trung tâm Mozambique. Nó được gọi theo nhiều cái tên gồm cả Đế chế Mutapa, cũng được gọi là Mwene Mutapa hay Monomotapa cũng như “Munhumutapa” và nổi tiếng về những con đường buôn bán vàng với người Ả Rập và Bồ Đào Nha. Tuy nhiên, những người định cư Bồ Đào Nha đã phá huỷ nền thương mại và gây ra một loạt các cuộc chiến tranh khiến đế chế gần như sụp đổ vào đầu thế kỷ XVII.[8]
Như một sự phản ứng trực tiếp với sự gây hấn của người Bồ Đào Nha trong nội địa, một nhà nước Shona mới xuất hiện được gọi là Đế chế Rozwi. Dựa trên sự phát triển quân sự, chính trị và tôn giáo từ hàng thế kỷ, người Rozwi (có nghĩa “những kẻ huỷ diệt”) đã đẩy lùi người Bồ Đào Nha ra khỏi cao nguyên Zimbabwe bằng vũ lực. Người Rozwi tiếp tục truyền thống xây dựng công trình đá của các vương quốc Zimbabwe và Mapungubwe trong khi thêm vào kho vũ khí của mình súng ống và phát triển một đội quân chuyên nghiệp để bảo vệ các con đường thương mại của mình cũng như để đi chinh phục.

Năm 1834, người Ndebele Open sau khi phải bỏ chạy trước thủ lĩnh người Zulu là Shaka, lập ra đế chế mới của họ trong vùng, Matabeleland. Năm 1837 – 38, Đế chế Rozwi cùng với những vương quốc Shona bị người Ndebele, những người tới từ miền nam Limpopo chinh phục và buộc họ phải triều cống và sống tập trung chuyên sâu ở miền bắc Zimbabwe .

Thời kỳ thuộc địa ( 1888 – 1965 )[sửa|sửa mã nguồn]

Những năm 1880, người Anh Open với Công ty Đông Ấn Nam Phi Anh của Cecil Rhodes. Năm 1898, cái tên Nam Rhodesia được đồng ý. [ 9 ] Năm 1888, nhân vật thực dân Anh là Cecil Rhodes được nhượng những quyền khai mỏ từ Vua Lobengula của người Ndebele. [ 10 ] Cecil Rhodes đã đề trình sự nhượng quyền này để thuyết phục chính phủ nước nhà Vương quốc Anh trao một hiến chương hoàng gia cho Công ty Nam Phi Anh ( BSAC ) với Matabeleland, và những vương quốc nhờ vào của nó như Mashonaland. Rhodes tìm kiếm sự được cho phép đàm phán những sự nhượng quyền tựa như với mọi chủ quyền lãnh thổ giữa sông Limpopo và hồ Tanganyika, khi ấy được gọi là ‘ Zambesia ‘. Theo những pháp luật của những sự nhượng quyền và những hiệp ước ở trên, [ 11 ] Cecil Rhodes thôi thúc sự thực dân hoá đất đai trong vùng, với sự trấn áp của Anh về nhân công cũng như những sắt kẽm kim loại quý và những nguồn tài nguyên tài nguyên khác. [ 12 ] Năm 1895 BSAC gật đầu cái tên ‘ Rhodesia ‘ cho chủ quyền lãnh thổ Zambesia, để vinh danh Cecil Rhodes. Năm 1898 ‘ Nam Rhodesia ‘ trở thành tên gọi chính thức cho vùng nam Zambezi, [ 13 ] sau này trở thành Zimbabwe. Vùng phía bắc bị quản trị riêng không liên quan gì đến nhau bởi BSAC và sau này được đặt tên là Bắc Rhodesia ( hiện là Zambia ) .Người Shona đã tổ chức triển khai những cuộc nổi dậy nhưng không thành công xuất sắc ( được gọi là Chimurenga ) chống lại sự xâm lấn đất đai của họ, từ những người mua của BSAC và Cecil Rhodes năm 1896 và 1897. [ 14 ] Sau những cuộc nổi dậy bất thành năm 1896 – 97 những nhóm Ndebele và Shona trở thành đối tượng người tiêu dùng quản trị của Rhodes và do đó càng làm ngày càng tăng sự định cư trên diện rộng của người châu Âu dẫn tới sự phân phối lại đất đai với ưu tiên dành cho người châu Âu, buộc người Shona, Ndebele, và những nhóm người thổ dân khác phải dời bỏ chỗ ở .Nam Rhodesia trở thành một thuộc địa Anh tự quản tháng 10 năm 1923, sau một cuộc trưng cầu dân ý năm 1922. Những người Rhodesian đã chiến đấu cho Vương quốc Anh trong Thế Chiến II, hầu hết tại Chiến dịch Đông Phi chống lại những lực lượng Phe Trục tại Đông Phi Italia .Năm 1953, trước sự phản đối của châu Phi, [ 15 ] Anh hợp nhất hai thuộc địa Rhodesia với Nyasaland ( hiện là Malawi ) với sự yểu mệnh của Liên bang Rhodesia và Nyasaland bị thống trị bởi Nam Rhodesia. Sự tăng trưởng của chủ nghĩa vương quốc châu Phi và sự sự không tương đồng nói chung, đặc biệt quan trọng tại Nyasaland, đã khiến người Anh phải giải tán Liên minh năm 1963, hình thành nên ba thuộc địa. Khi sự quản lý thuộc địa chấm hết trên khắp lục địa châu Phi và khi những chính phủ nước nhà đa phần châu Phi nắm quyền tại hai vương quốc láng giềng là Bắc Rhodesia và Nyasaland, chính phủ nước nhà thiểu số da trắng tại Rhodesia dưới sự chỉ huy của Ian Smith đã triển khai một Đơn phương Tuyên bố Độc lập ( UDI ) khỏi Vương quốc Anh ngày 11 tháng 11 năm 1965, trọn vẹn bác bỏ kế hoạch của người Anh rằng nước này sẽ trở thành một nền dân chủ đa sắc tộc. Vương quốc Anh coi hành vi này như một sự phản loạn, nhưng không cố tìm cách tái lập trấn áp bằng vũ lực. nhà nước thiểu số da trắng công bố mình là một nền ” cộng hoà ” năm 1970. Một cuộc nội chiến diễn ra, với ZAPU của Joshua Nkomo và ZANU của Robert Mugabe với sự tương hỗ từ những chính phủ nước nhà Zambia và Mozambique. Dù công bố của Smith không được Vương quốc Anh cũng như bất kể một cường quốc lớn nào công nhận, Nam Rhodesia đã bỏ định danh ‘ Nam ‘, và công bố vị thế vương quốc là Cộng hoà Rhodesia năm 1970. [ 16 ] [ 17 ]

UDI và nội chiến ( 1965 – 1979 )[sửa|sửa mã nguồn]

Sau Đơn phương Tuyên bố Độc lập ( UDI ), cơ quan chính phủ Anh nhu yếu Liên hiệp quốc cấm vận kinh tế tài chính chống lại Rhodesia khi những cuộc đàm phán với chính quyền sở tại Smith năm 1966 và 1968 chấm hết trong thế bế tắc. Chính quyền Smith công bố mình là một nền cộng hoà năm 1970 và chỉ được Nam Phi công nhận, [ 18 ] [ 19 ] khi ấy Nam Phi đang nằm dưới sự quản lý của chính sách apartheid. Theo thời hạn, cuộc cuộc chiến tranh du kích chống lại chính quyền sở tại UDI của Ian Smith dần ngày càng tăng. Vì thế, chính phủ nước nhà Smith đã mở những cuộc đàm phán với những chỉ huy của hai nhóm kháng chiến chính – Liên minh Quốc gia châu Phi Zimbabwe ( ZANU ), dưới sự chỉ huy của Robert Mugabe, và Liên minh Người Phi Zimbabwe ( ZAPU ), dưới sự chỉ huy của Joshua Nkomo .Tháng 3 năm 1978, khi chính sách của mình đã ở bờ vực sụp đổ, Smith ký một thoả thuận với ba nhà chỉ huy châu Phi, đứng vị trí số 1 bởi giám mục Abel Muzorewa, người yêu cầu sự bảo vệ cho những thường dân da trắng. Như một hiệu quả của Hoà giải Nội bộ, những cuộc bầu cử đã được tổ chức triển khai vào tháng 4 năm 1979. Đảng Hội đồng Quốc gia châu Phi Thống nhất ( UANC ) đã giành hầu hết trong cuộc bầu cử này. Ngày 1 tháng 6 năm 1979, chỉ huy của UANC, Abel Muzorewa, trở thành thủ tướng vương quốc và tên nước được đổi thành Zimbabwe Rhodesia. Hoà giải nội bộ vẫn để lại quyền trấn áp công an, những lực lượng bảo mật an ninh, dịch vụ dân sự và tư pháp trong tay người da trắng. Nó bảo vệ người da trắng có được khoảng chừng một phần ba ghế trong nghị viện. [ 20 ] Tuy nhiên, ngày 12 tháng 6, Thượng viện Hoa Kỳ bỏ phiếu chấm hết cấm vận kinh tế tài chính chống lại Zimbabwe Rhodesia .Sau cuộc họp lần thứ năm của nhà nước Lãnh đạo Khối thịnh vượng chung ( CHOGM ), được tổ chức triển khai tại Lusaka, Zambia từ mùng 1 tháng 8 tới mùng 7 tháng 8 năm 1979, chính phủ nước nhà Anh đã mởi Muzorewa và những chỉ huy của Mặt trận Ái Quốc tham gia vào hội nghị hiến pháp tại Tòa Lancaster. Mục đích của hội nghị là đàm đạo và đạt tới một thoả thuận về những lao lý của một hiến pháp độc lập và rằng những cuộc bầu cử sẽ được giám sát bởi chính quyền Anh để bảo vệ Rhodesia có được sự độc lập pháp lý và những đảng sẽ xử lý những độc lạ của họ bằng con đường chính trị. Peter Carrington, Nam tước Carington thứ sáu – Bộ trưởng Ngoại giao và những Vấn đề Khối thịnh vượng chung của Vương quốc Anh, đã chủ trì cuộc hội nghị. [ 21 ] Cuộc hội nghị diễn ra từ mùng 10 tháng 9 đến 15 tháng 12 năm 1979 với 47 phiên họp toàn thể. Ngày 1 tháng 12 năm 1979, những đoàn đại biểu của cơ quan chính phủ Anh và Rhodesian và Mặt trận Yêu nước đã ký kết Thoả thuận Tòa Lancaster, chấm hết nội chiến. [ 22 ]Abel Muzorewa giữ chức thủ tướng trong một thời hạn ngắn năm 1979 .
Bài cụ thể : GukurahundiNgài Soames người Anh đã được chỉ định làm toàn quyền trấn áp quy trình giải giáp lực lượng du kích cách mạng, tổ chức triển khai những cuộc bầu cử và trao độc lập cho một chính phủ nước nhà liên minh không không thay đổi với Joshua Nkomo, chỉ huy ZAPU. Trong cuộc bầu cử tháng 2 năm 1980, Mugabe và ZANU của mình giành một thắng lợi lớn. [ 23 ]Tuy nhiên vẫn có sự trái chiều với việc Shona giành thắng lợi tại Matabeleland. Tháng 11 năm 1980 Enos Nkala đưa ra những chú ý quan tâm tại một cuộc hoạt động tranh cử ở Bulawayo, trong đó ông cảnh báo nhắc nhở ZAPU rằng ZANU sẽ thực thi một số ít hành vi chống lại họ. Việc này đã khơi nguồn cho cuộc nổi dậy Entumbane lần thứ nhất, trong đó ZIPRA và ZANLA đã đánh nhau trong hai ngày. [ 24 ]Tháng 2 năm 1981 có một cuộc nổi dậy thứ hai, lan tới Glenville và cả Connemara ở vùng Midlands. Quân đội ZIPRA ở những vùng khác thuộc Matabeleland tiến về Bulawayo để tham chiến, và những đơn vị chức năng cũ của Rhodesia phải tới để ngăn ngừa cuộc xung đột. Hơn 300 người đã thiệt mạng .Những cuộc nổi dậy này đã dẫn tới cái sẽ được gọi là Gukurahundi ( Bản mẫu : Lang-sn rơm rác trước những cơn mưa mùa xuân ” [ 25 ] ) hay Những vụ thảm sát Matabeleland, diễn ra từ năm 1982 cho tới năm 1985. Mugabe đã sử dụng Lữ đoàn số 5 được huấn luyện và đào tạo tại Bắc Triều Tiên của mình để đàn áp mọi sự kháng cự tại Matabeleland. Ước tính 20,000 người Matabele đã bị giết hại và chôn trong những hố chôn tập thể họ bị buộc phải tự đào cho mình và hàng trăm người khác được cho là đã bị tra tấn. [ 26 ] Bạo lực chấm hết sau khi ZANU và ZAPU đạt một thoả thuận thống nhất năm 1988 hợp nhất hai bên, tạo ra ZANU-PF. [ 27 ] [ 28 ]Cuộc bầu cử tháng 3 năm 1990 mang lại một thắng lợi khác cho Mugabe và đảng của ông, giành được 117 trên 120 ghế tranh cử. Các nhà quan sát viên bầu cử ước tính lượng người tham gia bầu cử ở mức chỉ 54 % và rằng cuộc bầu cử không tự do và cũng không công minh. [ 29 ] [ 30 ]Trong thập niên 1990 những sinh viên, công đoàn và những công nhân thường tuần hành biểu lộ sự bất bình của họ với cơ quan chính phủ. Các sinh viên biểu tình năm 1990 phản đối những đề xuất kiến nghị tăng cường sự trấn áp của cơ quan chính phủ với những trường ĐH và một lần nữa năm 1991 và 1992 khi họ đụng độ với công an. Các công đoàn và công nhân cũng chỉ trích chính phủ nước nhà trong thời hạn này. Năm 1992 công an đã ngăn cản những thành viên công đoàn tổ chức triển khai những cuộc tuần hành chống chính phủ nước nhà. Năm 1994 thực trạng không ổn định trong ngành công nghiệp càng làm suy yếu nền kinh tế tài chính. Năm 1996 những nhân viên cấp dưới dân sự, y tá, và những junior doctor triển khai đình công về những yếu tố lương bổng. [ 31 ] [ 32 ] Tình trạng sức khoẻ nói chung của dân chúng khởi đầu sụt giảm đáng kể và tới năm 1997, tới 25 % dân số Zimbabwe đã bị tác động ảnh hưởng bởi HIV, virus AIDS. [ 33 ]
Các yếu tố đất đai, mà trào lưu giải phóng đã hứa hẹn sẽ xử lý, Open trở lại như yếu tố chính cho đảng cầm quyền từ năm 1999. Dù có hầu hết cầm quyền và sự hiện hữu của một chương trình cải cách ruộng đất ” người muốn bán người muốn mua ” từ những năm 1980, ZANU ( PF ) công bố rằng người da trắng chiếm chưa tới 1 % dân số nhưng chiếm hữu 70 % đất canh tác thương mại của vương quốc này ( dù những số lượng trên bị nhiều người bên ngoài nhà nước Zimbabwe tranh cãi ). [ 34 ] Mugabe khởi đầu tái phân phối ruộng đất cho người da đen năm 2000 với một sự bắt buộc tái phân phối .Tính hợp pháp và hợp hiến của quy trình tiếp tục bị tranh cãi tại Toà án Cao cấp và Toà án Tối cao Zimbabwe ; tuy nhiên, những cơ quan công an hiếm khi hành vi theo những phán quyết của toà án tương quan tới những yếu tố đó. Việc tịch thu đất canh tác bị tác động ảnh hưởng bởi những trận hạn hán liên tục và thiếu nguồn cung cũng như kinh tế tài chính dẫn tới một sự sụt giảm mạnh trong xuất khẩu nông nghiệp, vốn là ngành xuất khẩu số 1 của nước này. [ 35 ] Khai mỏ và du lịch đã vượt qua nông nghiệp. Vì thế, Zimbabwe đang trải qua thực trạng thiếu vắng ngoại tệ mạnh nghiêm trọng, dẫn tới thực trạng siêu lạm phát kinh tế và thiếu vắng kinh niên nguyên vật liệu và hàng hoá nhập khẩu. Năm 2002, Zimbabwe bị treo tư cách tại Khối thịnh vượng chung vì những cáo buộc vi phạm nhân quyền trong quy trình tái phân phối đất đai và gian lận bầu cử. [ 36 ]Sau cuộc bầu cử năm 2005, chính phủ nước nhà đưa ra ” Chiến dịch Murambatsvina “, một nỗ lực có mục tiêu vô hiệu những thị trường đen và những ngôi nhà không phép Open như những căn nhà ổ chuột tại những thị xã và thành phố. Hành động này đã bị phe trái chiều và những nhân vật quốc tế lên án can đảm và mạnh mẽ, họ cho rằng nó đã khiến một thành phần đáng kể người nghèo trong thành thành phố trở thành vô gia cư. [ 37 ] nhà nước Zimbabwe đã miêu tả chiến dịch như một nỗ lực nhằm mục đích cung ứng nhà tại hợp pháp cho dân cư dù họ vẫn chưa phân phối bất kể ngôi nhà mới nào cho những người bị buộc phải rời bỏ nhà cửa. [ 38 ]

100 trường o cấp hàng đầu ở zimbabwe năm 2022
Một bản đồ biểu lộ sự mất bảo mật an ninh lương thực tại Zimbabwe tháng 6 năm 2008 .Cuộc khủng hoàng kinh tế tài chính và lương thực lúc bấy giờ ở Zimbabwe, được một số ít nhà quan sát miêu tả là cuộc khủng hoảng cục bộ nhân đạo lớn nhất từ khi giành được độc lập, được góp thêm phần ở nhiều Lever, từ việc trấn áp giá và tịch thu đất đai của chính phủ nước nhà, nạn dịch HIV / AIDS, và một nạn hạn hán ảnh hưởng tác động tới hàng loạt vùng. [ 39 ]Tuổi thọ khi sinh với phái mạnh ở Zimbabwe đã sụt giảm mạnh từ năm 1990 từ 60 xuống 44, ở mức thấp nhất quốc tế. Tuổi thọ với nữ thậm chí còn còn thấp hơn với 43 tuổi. Số người Zimbabwe sẽ sống khoẻ mạnh khi sinh là 34 với nam và chỉ 33 với nữ. [ 40 ] Trái lại, tỷ suất tử trận trẻ sơ sinh đã tăng từ 53 tới 81 trên 1,000 ca sinh sống trong cùng thời kỳ đó. Bản mẫu : Ở thời gian, 1.2 triệu người Zimbabwea sống chung với HIV. [ 41 ]Ngày 29 tháng 3 năm 2008, Zimbabwe đã tổ chức triển khai một cuộc bầu cử tổng thống cùng với một cuộc bầu cử nghị viện. Ba ứng viên chính là Robert Mugabe thuộc Liên minh Quốc gia châu Phi Zimbabwe – Mặt trận Yêu nước ( ZANU-PF ), Morgan Tsvangirai thuộc PHong trào Thay đổi Dân chủ – Tsvangirai ( MDC-T ), và Simba Makoni, một ứng viên độc lập. Kết của cuộc bầu cử này đã được giấu kín trong bốn tuần, sau đó mọi người được biết rằng MDC đã giành được đa phần ghế. Tuy nhiên, Mugabe vẫn giữ quyền trấn áp bởi Tsvangirai không giành thắng lợi theo tỷ suất lao lý của pháp luật Zimbabwe. Vì thế, những tác dụng cuộc bầu cử sẽ vô hiệu Mugabe khỏi quyền lực tối cao, không hề giúp sức phe trái chiều .Cuối năm 2008, những yếu tố tại Zimbabwe lên tới tình trang khủng hoảng cục bộ về những nghành nghề dịch vụ tiêu chuẩn sống, sức khoẻ công cộng ( với một trận bùng phát dịch tả lớn tháng 12 ) và nhiều yếu tố công khác. [ 42 ] Việc khai thác kim cương tại Marange ở Chiadzwa trở thành yếu tố được quốc tế chăm sóc khi Hội đồng Kim cương Quốc tế lôi kéo một chủ trương khẩn cấp về việc buôn lậu [ 43 ] và hơn 80 người khai thác lậu đã bị quân đội giết hại. [ 44 ]Tháng 9 năm 2008, một thoả thuận san sẻ quyền lực tối cao được đưa ra giữa Mugabe và Tsvangirai, theo đó Mugabe vẫn giữ chức tổng thống và Tsvangirai trở thành thủ tướng. Tuy nhiên, vì những độc lạ trong những bộ giữa những đảng chính trị, thoả thuận mãi tới ngày 13 tháng 2 năm 2009, hai ngày sau khi Tsvangirai tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng Zimbabwe, mới được thi hành rất đầy đủ .Mugabe được bầu làm tổng thống một lần nữa trong cuộc bầu cử tổng thống Zimbabwe tháng 7 năm 2013. Cuộc bầu cử này đã bị tờ The Economist cáo buộc là ” gian lận ” [ 45 ] và tờ Daily Telegraph cáo buộc là ” một sự gian dối mới ” [ 46 ] .Vào tháng 7 năm năm nay, nền kinh tế tài chính trong nước sụp đổ dẫn đến một loạt những cuộc biểu tình diễn ra trên toàn nước. [ 47 ] [ 48 ] Vào tháng 11 năm 2017, quân đội đã thực thi một cuộc thay máu chính quyền lật đổ Mugabe khỏi quyền lực tối cao sau khi Phó Tổng thống Emmerson Mnangagwa bị Mugabe sa thải, đặt Mugabe bị quản thúc tại gia. Mugabe đã chính thức công bố từ chức vào ngày 21 tháng 11 năm 2017, sau 37 năm chỉ huy quốc gia. Vào tháng 12 năm 2017, website Zimbabwe News đã đưa ra thống kê cho thấy rằng cơ quan chính phủ Mugabe đã trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra cái chết của tối thiểu 3 triệu người Zimbabwe trong 37 năm quản lý [ 49 ]

Phân chia hành chính[sửa|sửa mã nguồn]

Zimbabwe có một cơ quan chính phủ tập trung chuyên sâu và được chia thành tám tỉnh và hai thành phố với vị thế cấp tỉnh, cho những mục tiêu hành chính. Mỗi tỉnh có một thủ phủ nơi thường tập trung chuyên sâu những hoạt động giải trí kinh doanh thương mại chính thức. [ 50 ]
Những cái tên của hầu hết những tỉnh đều nguồn gốc từ Mashonaland và Matabeleland phân loại từ thời thực dân : Mashonaland là chủ quyền lãnh thổ tiên phong bị chiếm đóng bởi British South Africa Company Pioneer Column và Matabeleland chủ quyền lãnh thổ được chinh phục trong Chiến tranh Matabele lần thứ nhất. Nó gần tương ứng với chủ quyền lãnh thổ tiền thuộc địa của người Shona và người Matabele, dù có những hội đồng thiểu số kinh tế tài chính đáng chú ý quan tâm ở hầu hết những tỉnh. Mỗi tỉnh nằm dưới sự chỉ huy của một Thống đốc Tỉnh, được chỉ định bởi Tổng thống. [ 51 ] Chính quyền tỉnh được quản lý và điều hành bởi một Người quản trị Tỉnh, được chỉ định bởi Ủy ban Thương Mại Dịch Vụ Công. Các công dụng chính quyền sở tại khác tại cấp tỉnh được thực thi bởi những văn phòng tỉnh của những sở chính phủ nước nhà vương quốc. [ 52 ]Các tỉnh được chia thành 59 Q. và 1,200 khu ( đôi lúc được gọi là những khu đô thị ). Mỗi Q. thuộc quyền chỉ huy của một Người quản trị Quận, được chỉ định bởi Ủy ban Dịch Vụ Thương Mại Công. Cũng có một Hội đồng Quận Nông thôn, chỉ định Người đảm nhiệm hành pháp. Hội đồng Quận Nông thôn gồm những hội viên được bầu từ khu đô thị, Người quản trị Quận và một đại diện thay mặt của những chỉ huy ( những chỉ huy truyền thống cuội nguồn được bầu theo luật phong tục. Các tính năng chính quyền sở tại khác ở cấp Q. được triển khai bởi những văn phòng quân thuộc những sở của chính phủ nước nhà địa phương. [ 53 ]Ở mức độ khu có một Ủy ban Phát triển Khu, gồm những uỷ viên được bầu của khu, những kraalhead ( những chỉ huy truyền thống lịch sử thường trực những người chỉ huy ) và những đại diện thay mặt của Ủy ban Phát triển Làng. Các khu được phân loại thành những làng, mỗi làng có một UỶ ban Phát triển Làng được bầu và một Headman ( chỉ huy truyền thống lịch sử nhờ vào kraalhead ). [ 54 ]

nhà nước và chính trị[sửa|sửa mã nguồn]

Zimbabwe là một nước cộng hoà theo mạng lưới hệ thống bán tổng thống, với một chính phủ nước nhà nghị viện. Theo những biến hóa hiến pháp năm 2005, một thượng viện đã được tái lập. [ 55 ] Quốc hội Zimbabwe là hạ viện của Nghị viện .LIên minh Quốc gia châu Phi Zimbabwe – Mặt trận Yêu nước ( thường viết tắt là ZANU-PF ) của Robert Mugabe đã là đảng chính trị chủ chốt của Zimbabwe từ khi độc lập. [ 56 ] Năm 1987 Mugabe khi ấy là thủ tướng đã sửa đổi hiến pháp và tự phong mình làm tổng thống. Đảng ZANU đã giành thắng lợi trong mọi cuộc bầu cử từ khi độc lập. Đặc biệt, cuộc bầu cử năm 1990 đã bị cả người dân trong nước lên án là lừa đảo, với đảng đứng thứ hai, Phong trào Thống nhất Zimbabwe của Edgar Tekere chỉ giành được 16 % phiếu bầu. [ 57 ] Cuộc bầu cử tổng thống được tổ chức triển khai một lần nữa vào năm 2002 giữa những cáo buộc gian lận, thao túng và gian dối. [ 58 ] Cuộc bầu cử nghị viện Zimbabwe năm 2005 được tổ chức triển khai ngày 31 tháng 3 và cũng đã dẫn tới nhiều cáo buộc gian lận, lừa gạt và thao túng bầu cử từ phía MDC và Jonathan Moyo, lôi kéo tìm hiểu tại 32 trong 120 đơn vị chức năng bầu cử. [ 59 ] Jonathan Moyo đã tham gia vào cuộc bầu cử dù có những cáo buộc và giành một ghế như một ứng viên độc lập của nghị viện .Cuộc tổng tuyển cử một lần nữa được tổ chức triển khai tại Zimbabwe ngày 30 tháng 3 năm 2008. [ 60 ] Kết quả chính thức dẫn tới một cuộc cạnh tranh đối đầu trực tiếp giữa Mugabe và Morgan Tsvangirai, chỉ huy trái chiều, tuy nhiên MDC phản đối hiệu quả này, công bố sự gian lận trên diện rộng trong bầu cử từ phía chính phủ nước nhà Mugabe. Cuộc bỏ phiếu vòng hai được dự tính vào ngày 27 tháng 6 năm 2008. Tuy nhiên, vào ngày 22 tháng 6, dẫn ra sự liên tục không công minh trong quy trình tranh cử và phủ nhận thanh gia vào một ” quy trình bầu cử đấm đá bạo lực, không chính đáng “, Tsvangirai đã rút lui khỏi cuộc bầu cử vòng hai, giao lại thắng lợi cho Mugabe. [ 61 ]MDC-T dưới sự chỉ huy của Morgan Tsvangirai hiện là đảng lớn nhất trong nghị viện. MDC bị chia rẽ thành hai phái. Một phái ( MDC-M ), hiện dưới sự chỉ huy của Arthur Mutambara tham gia vào cuộc bầu cử Thượng viện, trong khi nhánh kia, dưới sự chỉ huy của Morgan Tsvangirai, phản đối cuộc bầu cử, nói rằng việc tham gia vào một cuộc bầu cử gian lận đồng nghĩa tương quan với việc xác nhận công bố của Mugabe rằng những cuộc bầu cử trong quá khứ là tự do và công minh. Tuy nhiên, những đảng trái chiều đã mở màn tham gia lại vào những cuộc bầu cử vương quốc và địa phương vào năm 2006. Hai phái MDC đã có đại hội chung vào năm 2006 với việc Morgan Tsvangirai được bầu chỉ huy MDC-T, và nhóm này đã trở nên nổi trội hơn so với nhóm kia. Mutambara, một giáo sư rôbốt và cựu chuyên viên rôbốt của NASA đã sửa chữa thay thế Welshman Ncube người từng là chỉ huy tạm quyền của MDC-M sau cuộc chia rẽ. Morgan Tsvangirai không tham gia vào cuộc bầu cử Thượng viện, trong khi phái của Mutambara có tham gia và giành năm ghế trong thượng viện. Tuy nhiên nhóm Mutambara đã bị suy yếu bởi những cuộc đào tẩu từ những nghị sĩ và những cá thể cảm thấy vỡ mộng vì tuyên ngôn của họ. Ở thời gian năm 2008, Mặt trận vì Thay đổi Dân chủ đã trở nên điển hình nổi bật nhất, với những đám đông lên tới 20,000 tham gia vào những cuộc tuần hành của họ so với trong khoảng chừng 500 – 5,000 với những nhóm khác. [ 62 ]Ngày 28 tháng 4 năm 2008, Tsvangirai và Mutambara thông tin tại một cuộc họp báo chung ở Johannesburg rằng hai nhóm MDC đang hợp tác với nhau, được cho phép MDC có đa phần rõ ràng trong nghị viện. [ 63 ] [ 64 ] Tsvangirai nói Mugabe không hề liên tục là tổng thống khi không nắm giữ hầu hết trong nghị viện. [ 64 ] Cùng ngày hôm ấy, Silaigwana thông tin rằng việc tái kiểm phiếu ở năm đơn vị chức năng bầu cử sau cuối đã triển khai xong, rằng tác dụng đang được so sánh, và rằng họ sẽ công bố nó vào ngày 29 tháng 4. [ 65 ]Giữa tháng 9 năm 2008, sau những cuộc đàm phán lê dài dưới sự giám sát của những chỉ huy Nam Phi và Mozambique, Mugabe và Tsvangirai đã ký một thoả thuận san sẻ quyền lực tối cao với việc Mugabe giữ lại quyền trấn áp quân đội. Các vương quốc viện trợ đã trải qua một thái độ ‘ chờ và xem ‘, muốn thấy những biến hóa thực sự từ hành vi này trước khi cam kết phân phối vốn cho những nỗ lực tái thiết, với ước tính cần tối thiểu 5 năm. Ngày 11 tháng 2 năm 2009 Tsvangirai tuyên thệ nhậm chức Thủ tướng trước Tổng thống Mugabe .Tháng 11 năm 2008, chính phủ nước nhà Zimbabwe đã chi $ 7.3 triệu viện trợ bởi Quỹ toàn thế giới phòng chống AIDS, bệnh Lao và dịch Tả. Một đại diện thay mặt của tổ chức triển khai đã khước từ nói rõ phương pháp số tiền được chi, ngoại trừ rằng nó không được chi cho mục tiêu đã dự tính, và chính phủ nước nhà đã không hề phân phối được nhu yếu hoàn trả lại số tiền đó. [ 66 ]
Zimbabwe triển khai đường lối đối ngoại không link ( KLK ), đa dạng hoá quan hệ quốc tế, giữ cân đối quan hệ với những nước lớn nhằm mục đích tranh thủ viện trợ, vốn, kỹ thuật, đồng thời coi trọng quan hệ với những nước châu Phi, đặc biệt quan trọng những nước tiền tuyến miền Nam châu Phi. Trong khuôn khổ SADC, cùng với Angola, Namibia, Zimbabwe đưa 12.000 quân vào Cộng hòa Dân chủ Congo giúp chính quyền sở tại nước này chống lại việc những nước láng giềng Rwanda, Uganda đưa quân vào giúp lực lượng trái chiều ở Congo .Là thành viên của 44 Tổ chức quốc tế lớn, đặc biệt quan trọng là ONU, IMF, G15, G77, WTO … Zimbabwe có vai trò quan trọng trong quy trình đấu tranh bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của những nước đang tăng trưởng trong quy trình toàn cầu hoá. Năm 1986, với cương vị quản trị Phong trào không link, Zimbabwe nỗ lực góp thêm phần tăng cường đoàn kết và duy trì tiềm năng trào lưu .
[67]Người biểu tình phản đối chế độ Mugabe ở nước ngoài; những người biểu tình bị cảnh sát Zimbabwe ngăn cản tại Zimbabwe.Có nhiều báo cáo giải trình về sự ngày càng tăng và vi phạm có mạng lưới hệ thống với nhân quyền tại Zimbabwe dưới chính quyền sở tại Mugabe và đảng của ông, ZANU-PF .Theo những tổ chức triển khai nhân quyền như Ân xá Quốc tế [ 68 ] và Human Rights Watch [ 69 ] chính phủ nước nhà Zimbabwe vi phạm quyền có nơi ở, thực phẩm, tự do đi lại và cư ngụ, tự do hội họp và bảo vệ pháp lý. Đã có những cáo buộc về những vụ tiến công vào tiếp thị quảng cáo, trái chiều chính trị, những nhà hoạt động giải trí xã hội dân sự, và những người bảo vệ nhân quyền .

Những cuộc tụ tập của phe đối lập thường là mục tiêu của những vụ tấn công bạo lực của lực lượng cảnh sát, như vụ dẹp một cuộc tuần hành ngày 11 tháng 3 năm 2007 của Phong trào vì Thay đổi Dân chủ (MDC) và nhiều cuộc tuần hành khác trong chiến dịch tranh cử năm 2008.[70] Trong những vụ tấn công năm 2007, lãnh đạo đảng Morgan Tsvangirai và 49 nhà hoạt động đối lập khác đã bị cảnh sát bắt giữ và đánh đập tàn ác. Sau khi được thả, Morgan Tsvangirai đã nói với BBC rằng ông bị nhiều vết thương ở đầu và ở tay, đầu gối và lưng, và răng ông đã mất một lượng máu đáng kể.[71] Hành động của cảnh sát đã bị Tổng thư ký Liên hiệp quốc, Ban Ki-moon, Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ lên án mạnh mẽ.[71] Tuy lưu ý rằng các nhà hoạt động đã phải chịu nhiều thương tích, nhưng không đề cập tới nguyên nhân của chúng,[72] tờ báo The Herald thuộc quyền kiểm soát của chính phủ Zimbabwe tuyên bố rằng cảnh sát đã can thiệp sau khi những người biểu tình “điên cuồng cướp phá các cửa hiệu, phá hoại tài sản, đánh dân thường và tấn công các sĩ quan cảnh sát và các nhân viên công cộng vô tội”. Tờ báo cũng cho rằng đối lập đã “cố tình vi phạm lệnh cấm các cuộc tuần hành chính trị”.[72]

Cũng có một sự vi phạm nhân quyền trong truyền thông. Chính phủ Zimbabwe đã đàn áp tự do báo chí và tự do ngôn luận.[68] Họ cũng nhiều lần bị buộc tội sử dụng công ty truyền hình nhà nước, Zimbabwe Broadcasting Corporation, như một công cụ tuyên truyền.[73] Những tờ báo chỉ trích chính quyền, như tờ Daily News, đã phải đóng cửa sau khi những quả bom phát nổ tại các văn phòng của họ và chính phủ từ chối cấp mới giấy phép cho họ.[74][75] BBC News, Sky News, và CNN bị cấm quay phim và đưa tin từ Zimbabwe. Năm 2009 các giới hạn đưa tin với BBC và CNN đã được dỡ bỏ.[76] Sky News tiếp tục đưa tin nhờ những sự giúp đỡ bên trong Zimbabwe từ các nước láng giếng như Nam Phi.[77][78]

Các lực lượng vũ trang[sửa|sửa mã nguồn]

Sự sống sót của Các lực lượng Vũ trang Zimbabwe ( ZDF ) được lao lý trong Hiến pháp Zimbabwe, Chương X, 96 ( 1 ), viết rằng ,

Vì các mục đích bảo vệ Zimbabwe, sẽ có các lực lượng quốc phòng gồm một lục quân, một không quân và các nhánh khác, nếu có, của các lực lượng quốc phòng như có thể được quy định cho bởi hay theo một đạo luật của nghị viện.[79]

ZDF được lập ra bởi sự sáp nhập của ba lực lượng tham chiến, Quân đội giải phóng Zimbabwe châu Phi, ( ZANLA ) và Quân đội Cách mạng Nhân dân Zimbabwe, ( ZIPRA ) một bên và Các lực lượng An ninh Rhodesian bên kia ở cuối cuộc Chiến tranh cây bụi Rhodesian năm 1980. Giai đoạn sáp nhập tận mắt chứng kiến sự xây dựng Quân đội Quốc gia Zimbabwe ( ZNA ) và Không quân Zimbabwe ( AFZ ) như những thực thể riêng không liên quan gì đến nhau dưới quyền chỉ huy của Tướng Solomon Mujuru ( ZNA ) và Thống chế không quân Norman Walsh ( AFZ ). Norman Walsh đã nghỉ hưu năm 1982, và được sửa chữa thay thế bởi Thống chế không quân Azim Daudpota, người sau đó đã trao lại quyền chỉ huy cho Trưởng Thống chế không quân Josiah Tungamirai năm 1985. Dù sự sáp nhận diễn ra trong ZNA, không có sự sáp nhập trong Không quân Zimbabwe. Các thành viên ZIPRA và ZANLA cũ đã gia nhập Không quân, đặc biệt quan trọng trong khoảng chừng thời hạn 1980 và đầu năm 1982, triển khai việc này với tư cách cá thể. Trái lại, nhiều người không triển khai cái gọi là ” cấp bậc ” và đã giải ngũ khỏi AFZ không giống như những bạn đồng sự của mình trong ZNA, những người được bảo vệ bởi nghị định sáp nhập. Trước khi Norman Walsh rời Không quân, máy bay quân đội đã bị phá huỷ trong cuộc phá hoại tại Căn cứ Không quân Thornhill ở Gweru. Những vụ bắt giữ đã được triển khai và nó đã dẫn tới việc trục xuất những sĩ quan người da trắng khỏi AFZ. nhà nước phản ứng bằng cách chuyển Thiếu tướng Josiah Tungamirai khỏi ZNA sang AFZ, trở thành một Phó thống chế không quân, người sau này là trợ lý cho Thống chế không quân Daudpota, được thuyên chuyển từ Không quân Pakistan. Các chỉ huy sáp nhập đã trao lại những lá cờ Zimbabwe cho Trung tướng Vitalis Zvinavashe, người sau này trở thành Tư lệnh tiên phong của Các lực lượng Phòng vệ ( 1993 ), và Thống chế không quân Perrance Shiri năm 1992, và sau đó trong ZNA cho Trung tướng Constantine Chiwenga năm 1993 .Việc trải qua Dự luật Sửa đổi Quốc phòng đã dẫn tới việc lập ra một bộ tư lệnh duy nhất cho Các lực lượng Phòng vệ năm 1995. Tướng Vitalis Zvinavashe trở thành chỉ huy tiên phong của Các lực lượng Phòng vệ Zimbabwe, với những chỉ huy của cả Lục quân và Không quân đều thuộc dưới quyền chỉ huy của ông. Sau khi ông nghỉ hưu tháng 12 năm 2003, Tướng Constantine Chiwenga, được thăng chức và được chỉ định làm Chỉ huy Các lực lượng Phòng vệ Zimbabwe. Trung tướng P. V. Sibanda sửa chữa thay thế ông trở thành Chỉ huy Lục quân. [ 79 ]ZNA hiện có số lượng binh sĩ thường trực 30,000 người. Không quân có khoảng chừng 5,139 người. [ 80 ] Cảnh sát Cộng hoà Zimbabwe ( gồm cả Đơn vị Cảnh sát Hỗ trợ, Cảnh sát Bán vũ trang ) cũng là một phần của lực lượng quốc phòng Zimbabwe và có quân số 25,000 người. [ 81 ]Năm 1999, nhà nước Zimbabwe đã gửi một lực lượng quân đội khá lớn tới Cộng hoà Dân chủ Congo để tương hỗ cơ quan chính phủ của Tổng thống Laurent Kabila trong cuộc Chiến tranh Congo lần thứ hai. Các lực lượng này đã rút hầu hết vào năm 2002 .

Quân đội Quốc gia Zimbabwe[sửa|sửa mã nguồn]

100 trường o cấp hàng đầu ở zimbabwe năm 2022
Lá cờ của Quân đội Quốc gia ZimbabweQuân đội Quốc gia Zimbabwe hay ZNA được lập ra năm 1980 từ những thành phần của Quân đội Rhodesian, được sáp nhập ở một mức độ ít hay nhiều với những chiến binh từ những trào lưu ZANLA và ZIPRA du kích ( những phái vũ trang của ZANU và ZAPU ) .Sau khi đảng đa phần cầm quyền vào đầu năm 1980, những huấn luyện viên của Quân đội Anh đã quản trị việc sáp nhập những chiến binh du kích vào trong cơ cấu tổ chức một tiểu đoàn được lập ra trên cơ sở những lực lượng vũ trang Rhodesian sẵn có. Trong năm tiên phong một mạng lưới hệ thống được đưa ra theo đó những ứng viên số 1 sẽ trở thành chỉ huy tiểu đoàn. Nếu anh hay chị ta từ ZANLA, thì người phụ tá thứ nhất sẽ là ứng viên tốt nhất từ ZIPRA, và ngược lại. [ 82 ] Điều này bảo vệ sự cân đối giữa hai trào lưu trong cơ cấu tổ chức chỉ huy. Từ đầu năm 1981 mạng lưới hệ thống này đã bị huỷ bỏ nhường chỗ cho việc chỉ định chính trị, và những chiến binh ZANLA / ZANU sau đó nhanh gọn chiếm đa phần lực lượng chỉ huy tiểu đoàn bên trong ZNA .ZNA khởi đầu được xây dựng thành bốn sư đoàn, gồm tổng số 28 tiểu đoàn. Các đơn vị chức năng tương hỗ sư đoàn gồm phần đông hàng loạt những chuyên viên từ Quân đội Rhodesian cũ, trong khi những tiểu đoàn sáp nhập của Rhodesian African Rifles được biên chế thành những lữ đoàn số 1, số 3 và số 4. Lữ đoàn số 5 nổi tiếng được xây dựng năm 1981 và đã bị giải tán năm 1988 sau những cáo buộc tra tấn và giết hại trong thời hạn Lữ đoàn chiếm đóng Matabeleland trong cái đã được gọi là Gukurahundi ( Bản mẫu : Lang-sn ). [ 25 ] [ 83 ] Tuy nhiên tới năm 2006 Lữ đoàn đã được tái lập, với chỉ huy, Tướng John Mupande ca tụng ” lịch sử dân tộc nhiều mẫu mã ” của nó. [ 84 ]
Bản mẫu : Out of date
100 trường o cấp hàng đầu ở zimbabwe năm 2022
Xuất khẩu năm 2006 của Zimbabwe
100 trường o cấp hàng đầu ở zimbabwe năm 2022
Sản xuất ngũ cốc tại Zimbabwe đã sụt giảm đáng kể trong những năm gần đâyZimbabwe là nước có tiềm năng kinh tế tài chính, giàu tài nguyên vạn vật thiên nhiên với crom và vàng là tài nguyên chính của nước này. Thuốc lá, bông và đường là những mẫu sản phẩm xuất khẩu số 1 của Zimbabwe .Sau độc lập, chính quyền sở tại mới chủ trương thiết kế xây dựng nền kinh tế tài chính độc lập, duy trì vận tốc tăng trưởng, thực thi cấp ruộng đất cho người da đen, phát hành luật lao động, định cư, nâng lương tối thiểu, kiến thiết xây dựng cơ sở y tế, giáo dục ; thực thi chủ trương ôn hoà với người da trắng, sử dụng kinh nghiệm tay nghề, vốn, kỹ thuật và cơ cấu tổ chức kinh tế tài chính, kinh tế tài chính của họ nhằm mục đích duy trì sản xuất, tránh trộn lẫn tình hình .Chính quyền mới từng bước tái tạo nền kinh tế tài chính theo khunh hướng xoá dần tệ phân biệt chủng tộc, hạn chế bóc lột sức lao động. Nhà nước nắm những nghành nghề dịch vụ kinh tế tài chính quan trọng như ngân hàng nhà nước, hầm mỏ, tài nguyên vạn vật thiên nhiên, xuất nhập khẩu ; lập hợp tác xã nông nghiệp, xí nghiệp sản xuất công nghiệp ; triển khai tự do hoá nền kinh tế tài chính, khuyến khích khu vực tư nhân, xoá bỏ cấp giấy phép nhập khẩu, trấn áp Chi tiêu những mặt hàng tiêu dùng, thả lỏng quản trị trao đổi ngoại tệ để lôi cuốn góp vốn đầu tư và khuyến khích liên kết kinh doanh với quốc tế. Tranh thủ vốn góp vốn đầu tư, kỹ thuật và viện trợ của những nước để duy trì hoạt động giải trí của nền kinh tế tài chính. Xúc tiến hợp tác khu vực, kiến thiết xây dựng ống dẫn dầu qua cảng Becca, Maputo của Mozambique, phục sinh đường tàu luân chuyển qua những nước, từng bước tăng quan hệ kinh tế tài chính hợp tác với châu Phi .Zimbabwe tích cực tham gia đấu tranh nhằm mục đích thiết lập một trật tự kinh tế tài chính quốc tế mới, thôi thúc hợp tác Nam – Nam, hợp tác khu vực .Xuất khẩu khoáng chất, nông nghiệp, và du lịch là những nguồn thu ngoại tệ chính của Zimbabwe. [ 85 ] Lĩnh vực khai mỏ vẫn mang lại nhiều doanh thu, với 1 số ít trữ lượng platinum lớn nhất quốc tế đang được khai thác bởi Anglo-American và Impala Platinum. [ 86 ] Zimbabwe là đối tác chiến lược thương mại lớn nhất của Nam Phi trên lục địa châu Phi. [ 87 ]

Zimbabwe vẫn duy trì được mức độ tăng trưởng kinh tế dương trong suốt những năm 1980 (tăng trưởng 5.0% GDP hàng năm) và 1990 (tăng trưởng 4.3% GDP hàng năm). Tuy nhiên, nền kinh tế đã suy giảm từ năm 2000: giảm 5% năm 2000, 8% năm 2001, 12% năm 2002 và 18% năm 2003.[88] Chính phủ Zimbabwe phải đối mặt với nhiều vấn đề kinh tế sau khi đã từ bỏ các nỗ lực trước kia nhằm phát triển một nền kinh tế theo định hướng thị trường. Các vấn đề bao gồm thiếu hụt ngoại tệ, lạm phát tăng vọt, và thiếu nguồn cung hàng hoá. Việc Zimbabwe tham gia vào cuộc chiến tranh tại Cộng hoà Dân chủ Congo từ năm 1998 tới năm 2002 đã làm nền kinh tế nước này thiệt hại hàng trăm triệu dollar.[89]

Vòng xoáy suy giảm của nền kinh tế tài chính có nguyên do hầu hết từ sự quản trị kém và tham nhũng của chính quyền sở tại Mugabe và sự tịch thu gia tài phạm pháp của hơn 4,000 chủ trại da trắng trong chiến dịch phân phối lại đất đai gây nhiều tranh cãi năm 2000. [ 90 ] [ 91 ] [ 92 ] [ 93 ] Zimbabwe trước kia là một nước xuất khẩu ngô nhưng hiện đã phải nhập khẩu. [ 86 ] Xuất khẩu thuốc lá và những loại sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu khác cũng sụt giảm nghiêm trọng .Du lịch từng là một ngành công nghiệp quan trọng của quốc gia, nhưng đã sụt giảm trong những năm gần đây. Zimbabwe Conservation Task Force đã ra một bản báo cáo giải trình vào tháng 7 năm 2007, ước tính 60 % đời sống hoang dã tại Zimbabwe đã mất từ năm 2000 vì thực trạng săn bắn trộm và phá rừng. Báo cáo cảnh báo nhắc nhở rằng sự mất mát đời sống hoang dã cộng với thực trạng phá rừng trên diện rộng có rủi ro tiềm ẩn phá huỷ ngành công nghiệp du lịch. [ 94 ]

Siêu lạm phát kinh tế 2003 – 2009[sửa|sửa mã nguồn]

Lạm phát đã tăng từ một tỷ suất hàng năm 32 % năm 1998, lên mức ước tính chính thức cao tới 11.200.000.000 % vào tháng 8 năm 2008 theo Văn phòng Thống kê Trung ương. [ 95 ] Đây là một thực trạng siêu lạm phát kinh tế, và ngân hàng nhà nước TW đã đưa ra một đồng xu tiền 100 tỷ dollar mới. [ 96 ] Ở thời gian tháng 11 năm 2008, những số lượng không chính thức đưa ra tỷ suất lạm phát kinh tế hàng năm của Zimbabwe là 516 nhân 10 mũ 18 Xác Suất, với Ngân sách chi tiêu tăng gấp đôi sau mỗi 1.3 ngày. Cuộc khủng hoảng cục bộ lạm phát kinh tế của Zimbabwe hiện ( 2009 ) là cuộc lạm phát kinh tế tồi tệ thứ hai trong lịch sử vẻ vang, sau cuộc khủng hoảng cục bộ siêu lạm phát kinh tế ở Hungary năm 1946, với giá thành tăng gấp đôi sau mỗi 15.6 giờ. [ 97 ] Tới năm 2005, nhu cầu mua sắm của người dân trung bình Zimbabwe đã giảm xuống mức thực tương tự thời gian năm 1953. [ 98 ] Những người dân địa phương hầu hết phải mua những đồ vật thiết yếu từ những vương quốc Botswana, Nam Phi và Zambia láng giềng .Năm 2005, chính phủ nước nhà, theo sự hướng dẫn của thống đốc ngân hàng nhà nước TW Gideon Gono, đã mở màn những cuộc đàm phán để những người chủ trại da trắng hoàn toàn có thể quay lại. Họ chỉ còn khoảng chừng 400 tới 500 người vẫn còn ở lại trong nước, nhưng hầu hết đất đai đã bị tịch thu không còn hoàn toàn có thể canh tác được nữa. [ 99 ] Tháng 1 năm 2007, chính phủ nước nhà thậm chí còn còn để một số ít chủ trang trại da trắng ký những hợp đồng thuê đất dài hạn. [ 100 ] Nhưng, cơ quan chính phủ một lần nữa hòn đảo ngược lại quy trình này và mở màn nhu yếu toàn bộ những người chủ trại da trắng còn lại phải rời quốc gia hoặc sẽ phải đương đầu với việc bị bỏ tù. [ 101 ] [ 102 ]Tháng 8 năm 2006, một đồng dollar Zimbabwe mới đã được nhìn nhận lại được phát hành tương tự với 1.000 dollar trước kia. Tỷ lệ trao đổi đã giảm từ 24 dollar Zimbabwe cũ trên U.S. dollar ( USD ) năm 1998 tới 250.000 dollar trước kia hay 250 dollar Zimbabwe mới trên 1 dollar Mỹ theo tỷ giá chính thức, [ 103 ] và ước tính 120.000.000 dollar cũ hay 120.000 dollar Zimbabwe mới 1 dollar Mỹ trên chợ đen, [ 104 ] tháng 6 năm 2007 .

Tờ 100 nghìn tỷ đô la Zimbabwe mặt trước và mặt sau

Tháng 1 năm, 2009, Zimbabwe đưa ra đồng tiền giấy USD 100 nghìn tỷ ( 1014 ). [ 105 ] Ngày 29 tháng 1, trong một nỗ lực đối phó với thực trạng lạm phát kinh tế của quốc gia, quyền Bộ trưởng Tài chính Patrick Chinamasa thông tin rằng người dân Zimbabwe sẽ được phép sử dụng những đồng tiền tệ khác, không thay đổi hơn ( ví dụ Sterling, Euro, Rand Nam Phi và Dollar Mỹ ) trong trao đổi, bên cạnh đồng dollar Zimbabwe. [ 106 ]Ngày 2 tháng 2 năm 2009, RBZ thông tin thêm 12 số không nữa sẽ bị bỏ khỏi đồng tiền tệ, với 1.000.000.000.000 dollar ( thế hệ ba ) Zimbabwe đổi được một dollar mới. Các đồng xu tiền mới ( thế hệ bốn ) được đưa ra với mệnh giá mới Z USD 1, Z USD 5, Z USD 10, Z USD 20, Z USD 50, Z $ 100 và Z USD 500. Các đồng tiền thế hệ bốn được lưu hành cùng với những đồng thế hệ ba, vẫn được sử dụng cho tới ngày 30 tháng 6 năm 2009. [ 107 ]Lạm phát tại Zimbabwe đã không thay đổi sau khi chính phủ nước nhà được cho phép giao dịch thanh toán bằng đồng đô la Mỹ, tuy nhiên nền kinh tế tài chính này lại rơi vào một thực trạng khó khăn vất vả đặc biệt quan trọng khác khi thiếu đô la Mỹ để thanh toán giao dịch. Điều này đã làm cho rất nhiều người dân tại đây tìm đến Bitcoin như một phương tiện đi lại thanh toán giao dịch thay thế sửa chữa. [ 108 ]

Quan điểm chính phủ nước nhà và những lệnh cấm vận quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]

Mugabe chỉ ra các chính phủ nước ngoài và cái gọi là “sự phá hoại ngầm” là nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của kinh tế Zimbabwe, cũng như tỷ lệ thất nghiệp chính thức lên tới 80% ở nước này.[109] Những lời chỉ trích với chính quyền Mugabe, gồm cả đại đa số cộng đồng quốc tế, buộc tội chương trình gây tranh cãi của Mugabe, tìm cách chiếm đoạt đất đai từ những nông dân da trắng.[cần dẫn nguồn] Mugabe đã nhiều lần lên án các lệnh cấm vận áp đặt lên Zimbabwe bởi Cộng đồng châu Âu và Hoa Kỳ gây ra tình trạng hiện tại của nền kinh tế Zimbabwe. Tuy nhiên, theo Hoa Kỳ, những mục tiêu cấm vận chỉ nhắm tới bảy lĩnh vực kinh doanh riêng biệt thuộc sở hữu hay dưới quyền kiểm soát của các quan chức chính phủ chứ không phải những công dân bình thường.[110] Trong một cuộc họp của Cộng đồng Phát triển Miền nam châu Phi năm 2007, đã có một lời kêu gọi dỡ bỏ các lệnh cấm vận được đưa ra.[111]

Các tỷ suất thuế và phí rất cao với những doanh nghiệp tư nhân, trong khi những doanh nghiệp nhà nước được trợ cấp rất lớn. Chi tiêu quản trị nhà nước với những công ty rất đắt đỏ ; việc khởi đầu hay đóng của một doanh nghiệp rất lừ đừ và tốn ngân sách. [ 112 ] Chi tiêu chính phủ nước nhà được Dự kiến chiếm 67 % GDP năm 2007. [ 113 ] Con số này thường được bù đắp một phần nhờ việc in thêm tiền, dẫn tới thực trạng siêu lạm phát kinh tế. Thị trường lao động được lao lý rất ngặt nghèo ; việc thuê một nhân công rất rắc rối, việc sa thải nhân công rất khó khăn vất vả, và tỷ suất thất nghiệp đã lên tới 80 % ( 2005 ). [ 112 ]

Trong một nỗ lực nhằm đương đầu với lạm phát và khuyến khích tăng trưởng kinh tế đồng dollar Zimbabwe đã bị đình chỉ vĩnh viễn ngày 12 tháng 4 năm 2009.[114] Hiện Zimbabwe cho phép thực hiện giao dịch thương mại bằng đồng dollar Mỹ và nhiều đồng tiền tệ khác như đồng Rand của Nam Phi, đồng Euro, Sterling, và đồng Pula của Botswana. Việc sử dụng đồng dollar Mỹ đã mang lại nhiều kết quả to lớn trong vòng vài tuần khi lạm phát thực tế đã giảm xuống dưới 0 ở mức -3%.[cần dẫn nguồn]

Tuy nhiên, dù đã có sự nỗ lực kinh tế tài chính, vẫn không có đủ việc làm cho nhiều người, và tỷ suất thất nghiệp ở mức cao nhất quốc tế, với 95 % dân số không có việc làm. Và hiện cơ quan chính phủ vẫn phải đương đầu với những khó khăn vất vả trong việc tạo thêm công ăn việc làm .Gần đây, tình hình nội bộ Zimbabwe không không thay đổi, kế hoạch cải cách ruộng đất đã gây ra làn sóng đấm đá bạo lực ở Zimbabwe, ngân sách đưa 12.000 quân sang giúp Cộng hoà Dân chủ Congo chiếm khoảng chừng 10 % GDP và nạn dịch AIDS hoành hành càng làm tăng thêm khó khăn vất vả cho kinh tế tài chính nước này .Từ đầu năm 2009, Ngân hàng Trung ương Zimbabwe định kỳ phát hành lượng tiền lớn để bù đắp thâm hụt ngân sách đã dẫn đến thực trạng siêu lạm phát kinh tế ở nước này, lên tới trên hơn 100.000 %. Đến tháng 2 năm 2009, việc san sẻ quyền lực tối cao trong nhà nước mới xây dựng đã giúp cải tổ tình hình kinh tế tài chính, thực trạng siêu lạm phát kinh tế dần bị khống chế trải qua việc hạn chế phát hành thêm đồng đô-la Zimbabwe và dỡ bỏ việc trấn áp giá thành. Nền kinh tế tài chính Zimbabwe ghi nhận sự tăng trưởng lần tiên phong trong thập kỷ sau nhiều năm suy thoái và khủng hoảng. Người dân kỳ vọng việc không thay đổi tình hình chính trị sẽ giúp tăng trưởng kinh tế tài chính can đảm và mạnh mẽ hơn nữa trong thời hạn tới .Năm 2010, GDP của Zimbabwe đạt 4,27 tỷ USD, vận tốc tăng trưởng 5,9 % và lạm phát kinh tế là 5,03 %, GDP trung bình đầu người của nước này ở mức thấp, chỉ khoảng chừng 400 USD, tỷ suất thất nghiệp ở mức kỷ lục với 95 % .Nông nghiệp lôi cuốn 66 % lực lượng lao động nhưng chỉ góp phần 17,9 % vào GDP. Các loại nông sản hầu hết là : ngô, sợi bông, thuốc lá, bột mày, mía đường, thịt cừu, thịt dê, thịt lợn …Công nghiệp lôi cuốn 10 % lực lượng lao động và góp phần vào 24,3 % GDP. Các ngành công nghiệp chính là : khai khoáng, quần áo và giầy da, thực phẩm và đồ uống …Dịch Vụ Thương Mại lôi cuốn 24 % lực lượng lao động và góp phần tới 57,95 % GDP. Du lịch là một ngành dịch vụ quan trọng của Zimbabwa nhưng hiện đang gặp khủng hoảng cục bộ vì những khách du lịch phương Tây tránh nước này do quan ngại tâm ý bài da trắng .Về ngoại thương, năm 2010, Zimbabwe xuất khẩu 2,54 tỷ USD trong đó đa phần là platin, bông, thuốc lá, vàng, kim loại tổng hợp sắt, hàng dệt may. Các bạn hàng chính của Zimbabwe là Congo, Nam Phi, Botswana, Trung Quốc, Đức …Năm 2010, Zimbabwe nhập khẩu 4,04 tỷ USD. Các mẫu sản phẩm nhập khẩu của nước này là máy móc và thiệt bị vận tải đường bộ, hóa chất, xăng dầu, lương thực. Các đối tác chiến lược nhập khẩu chính của Zimbabwe là Nam Phi ( 62,2 % ), Trung Quốc .

Tôn giáo tại Zimbabwe
tôn giáo tỷ lệ
Tin lành 63%
Công giáo Roma 17%
Tín ngưỡng 11%
Vô thần 7%
Khác 2%

Tổng dân số Zimbabwe là 12 triệu người. [ 115 ] Theo Tổ chức Y tế Thế giới của Liên hiệp quốc, tuổi thọ dự trù cho nam là 37 và tuổi thọ dự trù cho nữ là 34, ở mức thấp nhất quốc tế năm 2006. [ 116 ] Một hiệp hội bác sĩ tại Zimbabwe đã đưa ra những lôi kéo với Tổng thống Mugabe nhằm mục đích có những hành động tương hỗ nghành y tế đang yếu kém. [ 117 ] Tỷ lệ lây nhiễm HIV tại Zimbabwe được ước tính ở mức 20.1 % với những người trong độ tuổi 15 – 49 năm 2006. [ 118 ] UNESCO đã báo cáo giải trình một sự sụt giảm trong mức độ có HIV ở những phụ nữ có thai từ 26 % năm 2002 xuống còn 21 % năm 2004. [ 119 ]Khoảng 85 % dân số Zimbabwe là Fan Hâm mộ Thiên Chúa giáo ; 62 % liên tục tham gia những hoạt động giải trí tôn giáo. [ 120 ] Các giáo hội Thiên Chúa giáo lớn nhất là Anh giáo, Công giáo Rôma, Giáo hội Chúa giáng sinh bảy ngày [ 121 ] và Hội giám lý. Như ở những vương quốc châu Phi khác, Thiên Chúa giáo hoàn toàn có thể trộn lẫn với những đức tin truyền thống cuội nguồn từ thời xưa. Bên cạnh Thiên Chúa giáo, sự thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng phi Thiên Chúa giáo có nhiều người triển khai nhất, tương quan tới sự cầu nguyện linh hồn ; Mbira Dza Vadzimu, có nghĩa ” Giọng nói của tổ tiên “, một dụng cụ tương quan tới nhiều lamellophone xuất hiện khắp nơi ở châu Phi, là TT của nhiều hình thức nghi lễ. Mwari đơn thuần mang nghĩa ” Thánh của sự phát minh sáng tạo ” ( musika vanhu in Shona ). Khoảng 1 % dân số là tín đồ Hồi giáo. [ 122 ]Các nhóm sắc tộc da đen chiếm 98 % dân số. Là sắc tộc hầu hết, người Shona, chiếm 80 tới 84 %. Người Ndebele đông thứ hai với 10 tới 15 % dân số. [ 123 ] [ 124 ] Người Ndebele là hậu duệ của những người di cư Zulu ở thế kỷ XIX và những bộ tộc khác mà họ kết hôn cùng. Lên tới một triệu người Ndebele hoàn toàn có thể đã rời bỏ quốc gia trong năm năm qua, hầu hết tới Nam Phi. Các nhóm sắc tộc Bantu khác đứng thứ ba với 2 tới 5 %. Họ gồm Venda, Tonga, Shangaan, Kalanga, Sotho, Ndau và Nambya. [ 124 ]Các nhóm sắc tộc thiểu số gồm Người da trắng ở Zimbabwe, đa phần có nguồn gốc Anh, nhưng 1 số ít cũng có nguồn gốc Afrikaner, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Hà Lan, chiếm chưa tới 1 % tổng dân số. Số người da trắng đã giảm từ đỉnh điểm khoảng chừng 296,000 người năm 1975 xuống còn khoảng chừng 120,000 năm 1999 và được ước tính còn không hơn 50,000 năm 2002, và hoàn toàn có thể còn ít hơn. [ 125 ] Chủ yếu họ đã di cư tới Vương quốc Anh ( khoảng chừng 200,000 tới 500,000 người Anh có nguồn gốc Zimbabwe ), Nam Phi, Botswana, Zambia, Canada, nước Australia và New Zealand. Những công dân là người lai chiếm 0.5 % dân số và nhiều nhóm sắc tộc châu Á khác, hầu hết là người Ấn Độ và Trung Quốc và cũng chiếm 0.5 %. [ 126 ] Những người nhập cư châu Á có tác động ảnh hưởng trong nghành kinh tế tài chính .

Tiếng Shona, tiếng Bắc Ndebele và tiếng Anh là những ngôn ngữ chính của Zimbabwe. Dù tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức, chưa tới 2.5%, chủ yếu là các cộng đồng da trắng và da màu (người lai), coi nó là tiếng mẹ đẻ của mình. Số dân cư còn lại nói các ngôn ngữ Bantu như Shona (76%), Ndebele (18%) và các ngôn ngữ thiểu số khác như Venda, Tonga, Shangaan, Kalanga, Sotho, Ndau và Nambya.[127] Shona có một nền văn học truyền thống truyền khẩu giàu có, đã được đưa vào trong tiểu thuyết tiếng Shona đầu tiên, Feso của Solomon Mutswairo, được xuất bản năm 1956.[128] Tiếng Anh chủ yếu được sử dụng tại các thành phố, ít thấy ở các vùng nông thôn. Đài phát thanh và vô tuyến được phát bằng tiếng Shona, Ndebele và tiếng Anh.

Khủng hoảng người tị nạn[sửa|sửa mã nguồn]

Sự tan rã kinh tế tài chính cùng những giải pháp đàn áp chính trị tại Zimbabwe đã dẫn tới một làn sóng người tị nạn đổ tới những vương quốc láng giềng. Ước tính 3.4 triệu người Zimbabwe, một phần tư dân số, đã chạy ra quốc tế ở thời gian giữa năm 2007. [ 129 ] Khoảng 3 triệu người trong số đó đã tới Nam Phi. [ 130 ]Ngoài những người đã phải bỏ chạy tới những vương quốc lân cận, có tới 1 triệu người phải dời bỏ nhà cửa ở trong nước ( IDPs ). Hiện không có hiệu quả tìm hiểu hàng loạt, [ 131 ] nhưng có những số lượng sau :

Điều tra Số lượng Ngày Ngồn
Điều tra quốc gia 880–960,000 2007 Zimbabwe Vulnerability Assessment Committee [132]
Nhân công nông nghiệp cũ 1,000,000 2008 UNDP [131]
Những nạn nhân của Chiến dịch Murambatsvina 570,000 2005 UN [133]
Người phải dời bỏ nhà cửa vì bạo lực chính trị 36,000 2008 UN [131]

Những cuộc tìm hiểu trên không gồm có những người phải dời bỏ nhà cửa bởi Chiến dịch Chikorokoza Chapera hay những người được hưởng lợi từ chương trình cải cách fast-track nnhưng từ đó đã bị đuổi khỏi đất đai. [ 131 ]

100 trường o cấp hàng đầu ở zimbabwe năm 2022
Một bản đồ biểu lộ sự lan tràn của dịch tả trong và xung quanh Zimbabwe được tổng hợp từ nhiều nguồn .Khi mới độc lập, những chủ trương bất bình đẳng chủng tộc được phản ánh qua những quy mô bệnh dịch của hội đồng da đen hầu hết. Năm năm tiên phong sau khi độc lập tận mắt chứng kiến sự tăng trưởng nhanh gọn trong tỷ suất tiêm chủng, mức độ tiếp cận dịch vụ y tế và tỷ suất người sử dụng những giải pháp tránh thai. [ 134 ] Vì thế Zimbabwe được quốc tế coi là đã hoàn thành xong tiềm năng chăm nom y tế với tác dụng tốt. [ 135 ] Tuy nhiên, những thành tựu này đã bị xói mòn bởi những kiểm soát và điều chỉnh cơ cấu tổ chức trong thập niên 1990, [ 136 ] the impact of the HIV / AIDS pandemic [ 86 ] và cuộc khủng hoảng kinh tế từ năm 2000. Zimbabwe hiện có mức tuổi thọ thấp nhất quốc tế – 44 tuổi với phái mạnh và 43 với phái đẹp, [ 137 ] giảm từ 60 năm 1990. Sự sụt giảm nhanh gọn được cho hầu hết bởi dịch HIV / AIDS. Tử vong trẻ nhỏ đã tăng từ 5.9 % cuối thập niên 1990 lên 12.3 % năm 2004. [ 86 ]Hệ thống chăm nom y tế không ít đã suy sụp : Tới cuối tháng 11 năm 2008, ba trong số bốn bệnh viện chính của Zimbabwe đã đóng cửa, cùng với Trường Y Zimbabwe và bệnh viện lớn thứ tư có hai khoa và không có phòng mổ đang hoạt động giải trí. [ 138 ] Bởi thực trạng siêu lạm phát kinh tế, những bệnh viện này vẫn Open nhưng không có được những loại thuốc cơ bản. [ 139 ] Cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị đang diễn ra cũng góp thêm phần vào nạn di cư của những bác sĩ và những người có kiến thức và kỹ năng y khoa. [ 140 ]Tháng 8 năm 2008, nhiều vùng to lớn của Zimbabwe bị dịch tả tiến công. Tới tháng 12 năm 2008 hơn 10,000 người đã mắc bệnh dịch đã lan tới những nước Botswana, Mozambique, Nam Phi và Zambia. [ 141 ] [ 142 ] Ngày 4 tháng 12 năm 2008 chính phủ nước nhà Zimbabwe công bố vụ bùng phát dịch là thực trạng khẩn cấp vương quốc, và đã nhu yếu sự trợ giúp quốc tế. [ 143 ] [ 144 ] Tới ngày 9 tháng 3 năm 2009 Tổ chức Y tế Thế giới ( WHO ) ước tính 4,011 người đã chết vì bệnh dịch lây lan do dùng nước bẩn từ khi bệnh dịch bùng phát tháng 8 năm 2008, và tổng số ca được ghi nhận lên tới 89,018. [ 145 ] Tại Harare, hội đồng thành phố đã phân phối nơi chôn cất không lấy phí cho những nạn nhân dịch tả. [ 146 ] Đã có những tín hiệu cho thấy bệnh dịch đang dịu bớt, với số ca nhiễm dịch tả giảm khoảng chừng 50 % xuống khoảng chừng 4,000 ca mỗi tuần. [ 145 ]
100 trường o cấp hàng đầu ở zimbabwe năm 2022
Tỷ lệ biết chữ người lớn của Zimbabwe nằm ở mức cao nhất tại châu PhiZimbabwe có tỷ suất biết chữ người lớn xê dịch 90 % ở mức cao nhất châu Phi. [ 147 ] [ 148 ] [ 149 ] Tuy nhiên, từ năm 1995 tỷ suất biết chữ ở người lớn của Zimbabwe đã giảm liên tục, một xu thế cũng Open ở nhiều vương quốc châu Phi khác. [ 150 ] Bộ giáo dục đã phát biểu rằng 20,000 giáo viên đã rời Zimbabwe từ năm 2007 và rằng một nửa số trẻ nhỏ Zimbabwe không liên tục đi học sau cấp tiểu học. [ 151 ]Tỷ lệ dân cư giàu nhất thường gửi con em của mình mình tới những trường độc lập trái ngược với những trường nhà nước là nơi đại đa số trẻ nhỏ theo học và được nhận trợ cấp từ phía chính phủ nước nhà. Giáo dục đào tạo tại những trường đã được phổ cập vào năm 1980, nhưng từ năm 1988, cơ quan chính phủ đã liên tục tăng những khoản thu cho việc ĐK vào trường cho tới mức hiện nó đã vượt quá giá trị thực của giá trị những khoản phí vào năm 1980. Bộ giáo dục Zimbabwe duy trì và quản lý những trường công nhưng những khoản phí do những trường độc lập thu được nội các Zimbabwe quản trị .Hệ thống giáo dục Zimbabwe gồm 7 năm cấp một và 6 năm cấp hai trước khi học viên hoàn toàn có thể vào trường ĐH trong nước hay quốc tế. Năm học tại Zimbabwe diễn ra từ tháng 1 tới tháng 12, với những kỳ học ba tháng, xen giữa là một tháng nghỉ, với tổng số 40 tuần học tập mỗi năm. Các kỳ thi vương quốc là thi viết ở kỳ học thứ ba vào tháng 11, với những môn học Lever ” O ” và Lever ” A ” cũng được tổ chức triển khai vào tháng 6. [ 152 ]Có bảy trường ĐH công và bốn trường ĐH có tương quan tới nhà thời thánh tại Zimbabwe được công nhận trọn vẹn trên bình diện quốc tế. [ 152 ] Đại học Zimbabwe, ĐH số 1 và lớn nhất, được thiết kế xây dựng năm 1952 và nằm ở khu ngoại ô Harare của Mount Pleasant. Những nhân vật đáng chú ý quan tâm tốt nghiệp từ những trường ĐH Zimbabwe gồm Welshman Ncube ; Peter Moyo ( của Amabhubesi ) ; Tendai Biti, Tổng thư ký cho MDC ; Chenjerai Hove, nhà thơ, nhà văn và người viết tiểu luận Zimbabwe ; và Arthur Mutambara, quản trị một phái của MDC. Nhiều chính trị gia hiện tại trong cơ quan chính phủ Zimbabwe đã nhận bằng cấp từ những trường ĐH ở Hoa Kỳ hay những trường khác ở quốc tế .Ban chuyên nghiệp cấp cao nhất huấn luyện và đào tạo những kế toán viên là Institute of Chartered Accountants of Zimbabwe ( ICAZ ) với quan hệ trực tiếp với những cơ quan tương tự như tại Nam Phi, Canada, Vương quốc Anh và nước Australia. Một Chartered Accountant có bằng cấp tại Zimbabwe cũng là một thành viên của những cơ quan tương tự như tại những vương quốc đó sau khi viết một giấy quy đổi. Ngoài ra, những bác sĩ được giảng dạy tại Zimbabwe chỉ cần có đủ một năm cư trú để trở thành bác sĩ được phép hoạt động giải trí tại Hoa Kỳ. Viện Kỹ sư Zimbabwe ( ZIE ) là cơ quan cấp cao nhất đào tạo và giảng dạy kỹ sư .Tuy nhiên, giáo dục tại Zimbabwe đã mở màn bị đe doạ bởi những biến hóa kinh tế tài chính năm 2000 với việc những giáo viên thực thi đình công bởi lương thấp, những sinh viên không hề tập trung chuyên sâu bởi nạn đói và giá thành đồng phục tăng vọt khiến nó trở thành một loại hàng xa xỉ. Các giáo viên cũng là một trong những tiềm năng chính của những cuộc tiến công của Mugabe bởi ông ta cho rằng họ không phải là những người ủng hộ mình can đảm và mạnh mẽ. [ 153 ]
Truyền thông Zimbabwe, vốn một thời phong phú, đã ở dưới sự quản trị ngặt nghèo của cơ quan chính phủ trong những năm gần đây, đặc biệt quan trọng trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế và chính trị diễn ra trong nước. Định chế của Zimbabwe bảo vệ sự tự do tiếp thị quảng cáo và bộc lộ. Trên thực tiễn, truyền thông online đã gặp phải sự can thiệp chính trị và việc áp đặt những bộ luật truyền thông online nghiêm khắc. Trong báo cáo giải trình năm 2008 của mình, Phóng viên Không Biên giới xếp hạng tiếp thị quảng cáo Zimbabwe ở mức 151 trên 173. [ 154 ] nhà nước cũng cấm nhiều đài phát thanh truyền hình quốc tế từ Zimbabwe, gồm cả Đài truyền hình BBC ( từ năm 2001 ), CNN, CBC, Sky News, Channel 4, American Broadcasting Company, Australian Broadcasting Corporation ( ABC ) và Fox News. Các cơ quan tiếp thị quảng cáo và báo chí truyền thông từ những vương quốc phương Tây và Nam Phi khác cũng đã bị cấm ở nước này. Tháng 7 năm 2009 Đài truyền hình BBC và CNN đã hoàn toàn có thể nối lại hoạt động giải trí và đưa tin một cách hợp pháp và cởi mở từ Zimbabwe. CNN nhìn nhận cao hành động này. Bộ Truyền thông, Thông tinn và Quảng cáo Zimbabwe phát biểu rằng, ” cơ quan chính phủ Zimbabwe không khi nào cấm Đài truyền hình BBC triển khai những hoạt động giải trí hợp pháp bên trong Zimbabwe “. [ 76 ] Đài truyền hình BBC cũng nhìn nhận cao hành động khi phát biểu ” chúng tôi hân hạnh khi một lần nữa được phép hoạt động giải trí cởi mở tại Zimbabwe “. [ 155 ]

Báo chí tư nhân vốn một thời đông đảo, tuy nhiên từ năm 2002 Đạo luật Tiếp cận Thông tin và Bảo vệ Riêng tư (AIPPA) đã được thông qua, một số tờ đã bị chính phủ đóng cửa, gồm cả tờ The Daily News với giám đốc điều hành là Wilf Mbanga thành lập ra tờ báo The Zimbabwean nhiều ảnh hưởng.[154][156] Vì thế, nhiều người Zimbabwe lưu vong đã lập ra tổ chức báo chí tại các quốc gia láng giềng và cả ở phương Tây. tuy nhiên, bởi internet hiện không bị giới hạn, nhiều người Zimbabwe được phép tiếp cận với các site tin tức do các nhà báo lưu vong lập ra.[157] Phóng viên Không Biên giới coi môi trường báo chí tại Zimbabwe có sự “giám sát, đe doạ, bỏ tù, kiểm duyệt, hăm doạ tống tiền, lạm dụng quyền lực và từ chối pháp lý tất cả được thực thi để giữ quyền kiểm soát chặt chẽ với báo chí.”[154]

Năm 2010 Ủy ban Truyền thông Zimbabwe được xây dựng bởi cơ quan chính phủ san sẻ quyền lực tối cao. Tháng 5 năm 2010 Ủy ban được cho phép ba tờ báo tư nhân mới, gồm cả tờ Daily News vốn bị cấm trước kia, được xuất bản. [ 158 ] Phóng viên Không Biên giới miêu tả những quyết định hành động như một sự ” tân tiến lớn “. [ 159 ] Tháng 6 năm 2010 NewsDay trở thành tờ báo ngày độc lập tiên phong được xuất bản tại Zimbabwe trong bảy năm. [ 160 ]

Văn hoá và vui chơi[sửa|sửa mã nguồn]

Zimbabwe có nhiều văn hoá khác nhau hoàn toàn có thể gồm có những đức tin và nghi lễ, một trong số chúng là Shona. Nhóm sắc tộc lớn nhất của Zimbabwe là Shona. Người Shona có nhiều tác phẩm điêu khắc và khắc đá về những vị thần ( thần tượng ) được triển khai với những vật tư tốt nhất họ có .
Tập tin:Masvingo Bus Terminus.jpg Một khu chợ và ga đầu cuối xe buýt tại ZimbabweZimbabwe lần tiên phong kỷ niệm đợt nghỉ lễ độc lập ngày 18 tháng 4 năm 1980. [ 161 ] Những buổi lễ được tổ chức triển khai hoặc tại Sân hoạt động Thể thao Quốc gia hoặc tại Sân vận động Thể thao Rufaro ở Harare. Những buổi lễ kỷ niệm ngày độc lập tiên phong được tổ chức triển khai năm 1980 tại Zimbabwe Grounds. Tại buổi lễ này những chú chim bồ câu được thả ra tượng trưng cho hoà bình và những máy bay phản lực chiến đấu bay ngang qua trong khi bài quốc ca được tấu lên. Ngọn lửa độc lập được tổng thống châm lên sau khi mái ấm gia đình tổng thống và những thành viên những lực lượng vũ trang Zimbabwe diễu hành. Tổng thống cũng đọc một bài diễn văn trước nhân dân Zimbabwe và được truyền hình trực tiếp cho những người không hề xuất hiện tại sân hoạt động. [ 162 ]
Nghệ thuật truyền thống lịch sử tại Zimbabwe gồm làm đồ gốm, đan rổ rá, dệt may, đồ trang sức đẹp và điêu khắc. Một trong những đặc trưng riêng không liên quan gì đến nhau là những mẫu hình đối xứng trên những rổ nung và những công cụ được khắc ra từ một mảnh gỗ duy nhất. Điêu khắc Shona đã trở nên nổi tiếng quốc tế trong những năm gần đây sau khi lần tiên phong Open trong thập niên 1940. Hầu hết những chủ đề điêu khắc là những hình chim hay người cách điệu và những hình khác được làm bằng những loại đá trầm tích như soapstone, và cả những loại đá lửa cứng hơn như serpentine và cả loại đá hiếm verdite. Điêu khắc Shona về thực chất đã trở thành một sự hợp nhất văn hoá dân gian châu Phi với những tác động ảnh hưởng châu Âu. Những nhà điêu khắc người Zimbabwe nổi tiếng quốc tế gồm Nicholas, Nesbert và Anderson Mukomberanwa, Tapfuma Gutsa, Henry Munyaradzi và Locardia Ndandarika. Trên bình diện quốc tế, những nhà điêu khắc người Zimbabwe đã gây ảnh hưởng tác động tới một thế hệ những nghệ sĩ mới, đặc biệt quan trọng là những người Mỹ da đen, qua những thời kỳ học việc dài với những bậc thầy điêu khắc tại Zimbabwe. Những nghệ sĩ đương đại như nhà điêu khắc New York M. Scott Johnson và nhà điêu khắc California Russel Albans đã học cách trộn lẫn cả thẩm mỹ học châu Phi và Phi-Do Thái theo một cách vượt quá sự bắt chước đơn thuần của nghệ thuật và thẩm mỹ châu Phi của một số ít nghệ sĩ da đen ở những thế hệ nghệ sĩ trước tại Hoa Kỳ .

Nhiều tác gia nổi tiếng ở cả tại Zimbabwe và nước ngoài. Charles Mungoshi nổi tiếng tại Zimbabwe vì đã viết những câu chuyện truyền thống bằng tiếng Anh và cả tiếng Shona và những bài thơ và sách của ông được bán chạy trong cả những cộng đồng người da trắng và da đen.[163] Catherine Buckle đã có được sự công nhận quốc tế với hai cuốn sách của bà African Tears (Nước mắt châu Phi) và Beyond Tears (Vượt qua Nước mắt) kể lại sự thử thách mà bà đã vượt qua trong cuộc Cải cách ruộng đất năm 2000.[164] Cựu Thủ tướng Rhodesia, Ian Smith, cũng viết hai cuốn sách — The Great Betrayal và Bitter Harvest. Cuốn The House of Hunger của Dambudzo Marechera đã giành một giải thưởng tại Anh năm 1979 và tác phẩm đầu tiên, The Grass Is Singing, của tác gia đoạt giải Nobel Doris Lessing cũng đặt bối cảnh tại Rhodesia.

Những nghệ sĩ nổi tiếng quốc tế gồm Henry Mudzengerere và Nicolas Mukomberanwa. Một chủ đề thường được đề cập trong thẩm mỹ và nghệ thuật Zimbabwe là sự đổi khác hình dạng của con người trở thành ác thú. [ 165 ] Những nhạc sĩ người Zimbabwe như Thomas Mapfumo, Oliver Mtukudzi, nhóm Bhundu Boys và Audius Mtawarira đã có được sự công nhận quốc tế. Trong số những thành viên của hội đồng da trắng thiểu số, Theatre có số ngươi hâm mộ phần đông, với nhiều công ty trình diễn trình diễn tại những khu vực đô thị Zimbabwe .

Như nhiều quốc gia châu Phi khác, đa số dân Zimbabweans sống dựa vào một số loại thực phẩm chính. Thịt, thịt bò và ở một mức độ thấp hơn là thịt gà là những nguyên liệu đặc biệt phổ thông, dù mức tiêu thụ đã sụt giảm dưới chính quyền Mugabe vì mức thu nhập giảm.[cần dẫn nguồn] “Bột Mealie”, cũng được gọi là bột ngô, được dùng chế biến món sadza hay isitshwala và bota hay ilambazi. Sadza là một món cháo đặc được làm bằng cách trộn bột ngô với nước để tạo ra một thứ bột nhão và đặc. Sau khi bột đã được nấu một thời gian, người ta thêm bột ngô nữa để món cháo thêm đặc. Món này thường được ăn như bữa trưa và bữa tối, thường với các loại rau (như rau bina, chomolia, collard greens), đậu và thịt hầm, nướng, hay quay. Sadza cũng là một món phổ thông được dùng với sữa đông, thường được gọi là lacto (mukaka wakakora), hay Tanganyika sardine khô, tại Zimbabwe được gọi là kapenta hay matemba. Bota là một loại cháo ít đặc hơn, được nấu mà không cho thêm bột ngô và thường được thêm bơ đậu phộng, sữa, bơ, hay, thỉnh thoảng, mứt.[166] Bota thường được dùng như bữa sáng.

Các buổi lễ tốt nghiệp, cưới xin, và nhiều dịp tụ tập mái ấm gia đình khác thường được ăn mừng với việc giết một chú dê hay bò, và thịt sẽ được những thành viên mái ấm gia đình nướng nguyên con hay quay .Các loại thực đơn của người Afrikaner khá phổ cập dù họ chỉ là một nhóm nhỏ ( 0.2 % ) bên trong hội đồng da trắng. Biltong, một kiểu thịt bò khô, là một món ăn nhẹ thông dụng, được làm bằng cách treo những miếng thịt đã ướp để khô trong bóng râm. [ 167 ] Boerewors ( phát âm tiếng Afrikaans : [ børəvɞɾs ] ) được dùng với sadza. Đây là một loại xúc xích dài, thường được tẩm nhiều gia vị, chứa nhiều thịt bò hơn thịt heo và được nướng lên .Bởi Zimbabwe từng là một thuộc địa của Anh, nước này đã gia nhập một số ít thói quen Anh Quốc. Ví dụ, hầu hết người dân sẽ ăn cháo đặc vào buổi sáng, tuy nhiên họ vẫn sẽ có bữa trà vào 10 giờ ( trà trưa ). Họ sẽ ăn trưa, hoàn toàn có thể là đồ còn lại từ bữa tối hôm trước, sadza nấu mới, hay sandwiches ( rất phổ cập trong những thành phố ). Sau bữa trưa họ thường có bữa trà lúc 4 giờ chiều trước bữa tối. Thường họ không uống trà sau bữa tối .

Hướng đạo sinh[sửa|sửa mã nguồn]

Các hình tượng vương quốc, vật tượng trưng và quốc ca[sửa|sửa mã nguồn]

Xếp hạng quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

100 trường o cấp hàng đầu ở zimbabwe năm 2022

Tên trung tâm vị tríCandidature % Lớp C+ 5+ Chủ đề
1. Trường trung học Monte Cassino83 100
2. & NBSP; Trường trung học Kriste Mambo 109 98.17
3. Trường trung học Nyanga 96 97.92
4. St. Dominic's [Chishawasha] 95 96.84
5 St. Trường trung học Bonda của David 189 96.83
6. Cảnh sát Cộng hòa Zimbabwe 137 94.89
7. St. Ignatius College 73 94.52
8. Trường trung học Anderson 65 93.85
9. Trường trung học Regina Mundi & NBSP;138 93.48
10. Học viện Kiến thức57 92.98
11. Trường trung học John Tallach142 92.96
12. St. Trường trung học Faith 140 92.86
13. Anh em trường trung học Marist Dete121 92.56
14. Augustine's Penhalonga St167 92.22
15. Trường trung học Moleli & NBSP;123 91.87
16. , Trường trung học Pamushana 239 91.63
17. Trường trung học Langham 82 91.46
18. Cơ đốc phục lâm cao Nyazura140 90.71
19. Trường trung học Mazowe142 90.14
20. St. Trường trung học Anthony 149 88.59
21. Trường học Chikwingwizha SEC35 88.57
22. Trường trung học Bradley 132 87.88
23. Trường trung học Goromonzi205 87.8
24. Trường trung học Marondera 167 87.43
25 Trường trung học Baptist Sanyati 160 186.88
26. Trường trung học Hartzell202 86.63
27. St. Trường trung học của Columbia 176 86.36
28. Trường trung học Emmanuel 102 86.27
29. Đại học Bernard Mzeki 72 86.11
30. Trường trung học Daramombe 135 85.93
31. Trường trung học Mtshabezi 173 85.55
32. Trường Sec của St Albert 125 84.8
33. Trường trung học Nyamuzuwe 125 84.8
34. Trường trung học Howard 172 83.72
35. St. Francis of Assisi High139 83.45
36. Trường trung học Waddilove 157 83.44
37. Trường trung học Lundi 120 83.33
38. Trường trung học Nyadire103 82.52
39. Trường trung học Sandringham & NBSP;165 82.42
40. St. Francis Xavier's Kutama 205 81.95
41 Trường trung học Mandedza 93 81.72
42. Trường trung học Mavuradona71 81.69
43. Trường trung học Johns 185 81.62
44. Trường Nữ hoàng Elizabeth 180 80.56
45. Trường trung học Gokomere 236 180.15
46. Trường trung học Pakame 126 80.16
47. Trường trung học Rusununguko 179 179.89
48. Trường trung học Serima 151 79.47
49. St. Trường trung học James 110 79.09
50. Nyahuni [Makunde] thứ cấp101 78.22
51. Trường trung học Marange 181 77.9
52. Trường trung học Mutendi 171 76.02
53. St. Thứ cấp của Mary Magdalene160 75.63
54. St. Trường trung học của Dominic 237 75.11
55. David Livingstone Sec School 104 74.04
56. Trường trung học Gutu 168 73.81
57. Trường trung học Hama 125 73.6
58. Trường trung học Shungu 94 73.4
59. Trường trung học Zimuto 214 73.36
60. St. Paul's Musami 160 73.13
61. St. Trường trung học Mary MT140 72.86
62. Trường trung học Makumbe 138 72.46
63. Trường trung học Mukaro172 71.51
64. Trường trung học Nyashanu 141 70.92
65 Trường trung học Presbyterian 88 70.45
66. Đại học Nyatsime130 70
67. Trường trung học Ngezi 129 169.23
68. Trường trung học Chegato 142 69.01
69. Trường trung học Manama128 68.75
70. Trường trung học Cơ đốc phục lâm Ruya 134 68.66
71. Trường trung học Murewa239 68.62
72. Trường SEC Cơ đốc phục lâm Hanke 98 68.37
73. Trường trung học Chibi200 68
74. Trường trung học Chindunduma130 67.69
75. Ghost College Holy129 67.44
76. Trường trung học Fletcher 128 67.49
77 Trường trung học Dadaya 168 66.67
78. Anne's Goto Sec School St.117 66.67
79. Fowl High School Guinea143 65.73
80. Trường trung học Msengezi 142 65.49
81 Trường trung học Makumbi 159 65.41
82. Trường trung học Jameson 141 64.54
83. Trường trung học Mutare Girls & NBSP;153 64.05
84. Rio Tinto Zhombe Sec 132 63.64
85. Trường trung học Silveira189 63.49
86. St. Trường trung học của Benedict92 63.04
87. Trường trung học Minda94 62.77
88. Trường trung học Loreto 142 62.68
89. Trường học Cơ đốc phục lâm Maranatha155 61.94
90. Trường trung học mở ra135 61.48
91. Nhà Nagle 93 61.29
92. St. Trường SEC của Patrick 149 60.4
93. Trường học Driefontontein 76 59.21
94. Trường trung học Kwenda 162 58.64
95. Trường trung học Mutambara 152 58.55
96. Trường trung học Green Gables 41 58.54
97. Trường trung học Biriiri 147 58.5
98. St. Trường trung học Michael's 118 58.47
99. Tất cả các linh hồn trường trung học 101 58.42
100. Trường trung học Mabelreign Girl 185 58.43

Trường trung học tốt nhất ở Zimbabwe là gì?

Các trường khác...
Trường Cao đẳng Falcon ..
Trường trung học Hoàng tử Edward ..
Trường trung học Gateway ..
Lomagandi College ..
Cornway College ..
Trường trung học Gokomere ..
Trường trung học Pamushana ..

Tỷ lệ vượt qua mức O là bao nhiêu?

Kết quả mức thông thường của năm ngoái hiện đã được đưa ra với tỷ lệ vượt qua đối tượng là 26,34 phần trăm cao hơn so với 24,77 % được ghi nhận vào năm 2020, năm đầu tiên của đại dịch và học sinh của CoVID-19.26,34 percent that is marginally higher than the 24,77 percent recorded in 2020, the first year of the Covid-19 pandemic and curtailedschooling.

Người Zimbabwe bắt đầu đi học ở độ tuổi nào?

Giáo dục tiểu học Chu kỳ giáo dục Zimbabwe mất 13 năm để hoàn thành trong 2 giai đoạn, cụ thể là trường tiểu học và trung học.Lớp 1 bắt đầu khi đứa trẻ ở độ tuổi khoảng 6. môi trường ngôn ngữ ở khu vực thành thị là tiếng Anh, trong khi ở khu vực nông thôn, giáo viên chuyển sang điều này từ Shona hoặc Ndebele chỉ ở Lớp 3.approximately 6. The language medium in urban areas is English, while in rural areas teachers switch over to this from Shona or Ndebele only in grade 3.

Mẫu 1 ở Zimbabwe lớp nào?

Học sinh vào Mẫu I, thường ở độ tuổi 12-13, cạnh tranh cho các địa điểm trong Ngày tư nhân và nhiệm vụ và các trường nội trú dựa trên kết quả kiểm tra lớp 7 của họ, cũng như các cuộc phỏng vấn tại trường và bài kiểm tra vị trí.Grade 7 examination results, as well as school-based interviews and placement tests.