100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn nhạc phẩm “Chiều Vàng Với Mái Nhà Tranh” (“The House of the Rising Sun”, “Le Pénitencier”) một bài hát dân gian của Hoa Kỳ và các nhạc sĩ Vline Buggy, Hugues Aufray, Khánh Băng.

“The House of the Rising Sun” là một bài dân ca của Hoa Kỳ, đôi lúc được gọi là “Rising Sun Blues”, kể về đời sống nghèo khổ của người dân ở thành phố New Orleans, US. Bài hát được biết đến nhiều nhất nhờ bản cover vào năm 1964 của ban nhạc “The Animals” khi phiên bản này vượt lên vị trí hit #1 ở Anh, Mỹ, Thụy Điển, Phần Lan, Canada. Phiên bản này cũng rất quen thuộc với người hâm mộ ở Việt Nam.

Giống như những bài dân ca khác, không ai rõ tác giả của “The House of the Rising Sun” là ai, các nhà nghiên cứu âm nhạc học cho rằng nó được viết dựa trên bản dân ca “The Unfortunate Rake” vào thế kỷ 18. Những người Anh khi di cư sang Mỹ đã có sự thay đổi cho phù hợp khi đặt tên vùng đất trong bài là New Orleans. Riêng Alan Price khẳng định bài hát này nguyên gốc được lấy từ dân ca thế kỷ 16 về một nhà chứa ở Soho.

Bản ghi âm lâu đời nhất được biết đến là của các nghệ sĩ vùng Appalachian như: Clarence “Tom” Ashley. Clarence “Tom” Ashley cho biết ông biết bài hát qua ông nội của ông tên Enoch Ashley. Nghệ sĩ Gwen Foster thu âm lại nó cho hãng Vocalion Records vào năm 1934.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022
Nhạc sĩ Alan Lomax thập niên 1930s.

Bài hát cũng được nhà văn học dân gian Alan Lomax thu thập lại cùng cha ông, người đã từng làm quản lý về lĩnh vực nhạc dân gian Mỹ ở Thư Viện Quốc Hội Mỹ. Alan Lomax đã thu thập bài hát cùng vợ ông khi hai người làm một chuyến thám hiểm đến Kentucky ở nhà của Tilman Cadle ở Middlesborough, KY.

Năm 1937, ông ghi âm bài hát này với nữ ca sĩ 16 tuổi Georgia Turner dưới tên “Rising Sun Blues”, Alan Lomax còn thu âm lại 2 bản cover khác của 2 ca sĩ Bert Martin và Daw Henson. Theo lời ông viết kể lại sau này, giai điệu bài hát mang nét tương đồng với bài dân ca Anh “Matty Groves”.

Roy Acuff, bạn của Clarence “Tom” Ashley, lấy cảm hứng từ bản cover lâu đời này của bạn mình và thu âm lại dưới tên “Rising Sun”. Woody Guthrie cũng thu âm lại vào năm 1941. Bản thu âm năm 1947 của Josh White được sản xuất bởi hãng Mercury Records vào năm 1950, ông đã làm mới nhạc và lời, nhiều ca sĩ cũng đã thu âm lại phiên bản mới này.

Năm 1961, Bob Dylan thu âm bài hát trong album cùng tên, phát hành vào tháng 3 năm 1962, lấy cảm hứng từ phiên bản của Dave Van Ronk. Nina Simone cũng đã thu âm bài hát vào năm 1962 trong album “Nina at the Village Gate”, sau đó là với ban nhạc “Columbia Los Speakers” trong album “La Casa Del Sol Naciente”, bán được 15.000 bản.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022
Nhạc sĩ Bob Dylan.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022

Năm 1964, The Animals thu âm bài hát từ phiên bản của Bob Dylan nhưng mang chất rock, được nhà sản xuất Mickie Most phát hành trong album cùng tên. Đây là bản cover thành công nhất của “The House of the Rising Sun” cũng là bài hát thành công nhất trong lịch sử trình diễn của “The Animals” khi bản cover này vượt lên vị trí #1 ở Anh, Mỹ, Thụy Điển, Phần Lan, Canada, trong khi nhiều người cho rằng ca khúc này sẽ chết yểu vì có quá nhiều ca sĩ cover lại, nhưng bài hát đã trở thành một trong những kiệt tác hay nhất của blue rock thời sơ khai đầu thập kỷ 60.

Năm 1964, phiên bản “The House of the Rising Sun” của nhóm “The Animals” được Vline Buggy và Hugues Aufray đặt lời Pháp dưới tựa đề “Le Pénitencier”, có khi còn được gọi là “Les Portes du Pénitencier”.

Tiếp theo “The House of the Rising Sun”, “Le Pénitencier” du nhập vào Việt Nam và được nhạc sĩ Khánh Băng đặt lời Việt dưới tên “Chiều Vàng Với Mái Nhà Tranh”.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022
Ban nhạc “Dew Drop” với Khánh Băng (guitar, trái) và Phùng Trọng (trống) – hai nhạc sĩ rock gần như đầu tiên của Việt Nam.

Nhạc sĩ Khánh Băng tên thật là Phạm Văn Minh, sinh năm 1935 tại Thắng Tam, Vũng Tàu. Ông là tác giả của hai bài hát nổi tiếng “Sầu Đông” và “Vọng Ngày Xanh”.

Năm 1949, ông lên Sài Gòn học trung học ở trường Huỳnh Khương Ninh, Đa Kao. Cùng các bạn Vân Hùng, Tùng Lâm… ông lập một ban nhạc cùng nhau thường xuyên tập dượt và trình diễn miễn phí cho các đám cưới.

Ông thực sự khởi đầu sự nghiệp ca nhạc vào năm 1954, được sự hướng dẫn và giúp đỡ của nhạc sĩ Võ Đức Thu, với cây đàn mandoline Khánh Băng thi đậu vào làm nhạc công ở Đài Phát thanh Sài Gòn. Sau đó, ông được Tùng Lâm tiến cử với nghệ sĩ Trần Văn Trạch, ông chơi đàn ở đoàn Sầm Giang kế đến ở “Đài Phát Thanh Pháp Á”. Ông là người nhạc sĩ Việt Nam đầu tiên sử dụng đàn guitar điện trên sân khấu trong thập niên 1960s.

Nhạc sĩ Khánh Băng viết nhạc rất sớm, từ những năm học tiểu học, bản thân ông cũng không nhớ bản nhạc đầu tay của mình. Bài hát đầu tiên của ông được phát thanh là “Nụ Cười Thơ Ngây”, do hai ca sĩ Minh Trang và Anh Ngọc song ca trên Đài Phát thanh Sài Gòn ngày 15 tháng 3, 1955.

Đầu thập niên 60 ông và nhạc sĩ Phùng Trọng thành lập Ban kích động nhạc “Khánh Băng Phùng Trọng” gồm các thành viên: Khánh Băng (guitar), Phùng Trọng (trống), Nguyễn Thành (saxo ténor), Sầm Sơn (guitar bass), Thu Phước (trompette). Đây là ban nhạc đầu tiên xuất hiện trên Đài Truyền Hình Sài Gòn. Ban kích động nhạc “Khánh Băng Phùng Trọng” được khán giả của HCV bình chọn là ban nhạc trình diễn xuất sắc nhất trong một cuộc thi tuyển của Hội Ký Giả Sài Gòn tổ chức năm 1966.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022

Ông thành danh với bài “Vọng Ngày Xanh” sáng tác năm 1956. Bài hát này được nhà văn nữ nổi tiếng Françoise Sagan viết lời Pháp và nhờ vậy, ông được Hội Tác Quyền Thế Giới mời gia nhập. “Vọng Ngày Xanh” được nhiều ca sĩ trình diễn như danh ca Thái Thanh, Minh Trang, Lệ Thu, Hùng Cường…, trong đó thành công hơn cả phải kể đến danh ca Thái Thanh.

Các sáng tác của ông chuyên về tiết tấu nhanh, sôi động, thường được gọi là thể loại “Nhạc Kích Động”. Những bài hát như “Sầu Đông”, “Có Nhớ Đêm Nào”, “Tiếng Mưa Rơi… do ông sáng tác khoảng năm 1962 được coi là những bài nhạc trẻ đầu tiên ở Việt Nam. Riêng bài “Sầu Đông” còn được ông viết thêm lời Pháp và còn có thêm lời Anh do một người khác viết.

Ông cũng viết nhiều ca khúc trữ tình với các bút danh Anh Minh, Nhật Hà… Trong khoảng thời gian từ 1991- 1996, trước khi bị khiếm thị do ảnh hưởng của bệnh tiểu đường, ông vẫn còn sáng tác được hơn 100 bài, trong đó có những bài hát rất phổ biến như “Trên Nhịp Cầu Tre”, “Chờ Người”, “Chiều Đồng Quê”… mang phong cách nhạc quê hương miền Nam. Về số lượng sáng tác trong sự nghiệp của ông, theo như ông kể: “500 thì quá ít mà 1.000 lại hơi nhiều”.

Ông qua đời ngày 9 tháng 2, 2005 tại nhà riêng, đường Chu Văn An, Sài Gòn. Ông được gia đình an táng ở Vũng Tàu – quê nhà của ông.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022
Ca sĩ Georgie Turner năm 1937.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022

Nhạc phẩm “The Rising Sun Blues” (Phiên bản của Geogia Turner)

There is a house in New Orleans they call the Rising Sun.
It’s been the ruin of many a poor girl and me, O God, for one.
If I had listened what Mama said, I’d be at home today.
Being so young and foolish, poor boy, let a rambler lead me astray.
Go tell my baby sister never do like I have done
To shun that house in New Orleans they call the Rising Sun.
My mother she’s a tailor, she sewed these new blue jeans.
My sweetheart, he’s a drunkard, Lord, Lord, drinks down in New Orleans.
The only thing a drunkard needs is a suitcase and a trunk.
The only time he’s satisfied is when he’s on a drunk.
Fills his glasses to the brim, passes them around.
Only pleasure he gets out of life is hoboin’ from town to town.
One foot is on the platform and the other one on the train.
I’m going back to New Orleans to wear that ball and chain.
Going back to New Orleans, my race is almost run.
Going back to spend the rest of my days beneath that Rising Sun.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022
Nhạc sĩ Bob Dylan.

Nhạc phẩm “The House of the Rising Sun” (Phiên bản của Bob Dylan)

There is a house down in New Orleans
They call the Risin’ Sun
And it’s been the ruin of many a poor girl
And me, oh god, Im a-one
My mother was a tailor
She sewed these new blue jeans
My sweetheart was a gambler, lord
Down in New Orleans
Now the only thing a gambler needs
Is a suitcase and a trunk
And the only time he’s satisfied
Is when he’s on a drunk

He fills his glasses up to the brim
And hell pass the cards around
And the only pleasure he gets out of life
Is ramblin from town to town
Oh tell my baby sister
Not to do what I have done
But shun that house in New Orleans
They call the Risin’ Sun
Well, it’s one foot on the platform
And the other foot on the train
Im goin back to New Orleans
To wear that ball and chain
Im a-goin back to New Orleans
My race is almost run
Im goin back to end my life
Down in the Risin’ Sun
There is a house in New Orleans
They call the Risin’ Sun
Its been the ruin of many poor girl
And me, oh god, Im a-one

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022

Nhạc phẩm “The House of the Rising Sun” (Phiên bản của The Animals)

There is a house in New Orleans they call the Rising Sun
And it’s been the ruin of many a poor boy and God, I know I’m one.
My mother was a tailor, sewed my new blue jeans,
My father was a gambling man down in New Orleans.
Now the only thing a gambler needs is a suitcase and a trunk
And the only time he’s satisfied is when he’s on a drunk.
Oh mothers tell your children not to do what I have done,
Spend your life in sin and misery in the House of the Rising Sun.
Well, I’ve got one foot on the platform, the other foot on the train
And I’m going back to New Orleans to wear that ball and chain.
Well, there is a house in New Orleans they call the Rising Sun
And it’s been the ruin of many a poor boy and God, I know I’m one.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022

Nhạc phẩm “Le Pénitencier” (Nhạc sĩ Vline Buggy, Hugues Aufray)

Les portes du pénitencier
Bientôt vont se refermer
Et c’est là que je finirai ma vie
Comme d’autres gars l’ont finie.
Pour moi ma mère m’a donné
Sa robe de mariée
Peux-tu jamais me pardonner
Je t’ai trop fait pleurer.
Le soleil n’est pas fait pour nous
C’est la nuit qu’on peut tricher
Toi qui ce soir as tout perdu
Demain, tu peux gagner.
Ô mères, écoutez-moi
Ne laissez jamais vos garçons
Seuls la nuit traîner dans les rues
Ils iront tout droit en prison
Toi la fille qui m’as aimé
Je t’ai trop fait pleurer
Les larmes de honte que tu as versées
Il faut les oublier.
Les portes du pénitencier
Bien tôt vont se refermer
Et c’est là que je finirai ma vie
Comme d’autres gars l’ont finie.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022

Nhạc phẩm “Chiều Vàng Với Mái Nhà Tranh” (“The House of the Rising Sun” – Lời Việt: Nhạc sĩ Khánh Băng)

Chiều vàng nhẹ rơi khắp chân trời
Thấp thoáng cánh chim về nguồn
Dưới ánh nắng nhà tranh quá tiêu điều
Bao nhiêu năm hiên ngang đứng trơ nhìn chiều rơi

Kiếp sống hẩm hiu đời giang hồ
Cất tiếng hát quên chuyện đời
Tiếng hát xé tan làn mây chiều
Đem gieo rắc đau thương đến chân trời nào đâu

Nếu biết thế sẽ không còn đau lòng
Với kiếp sống nổi trôi bềnh bồng
Biết thế trách chi người vô tình
Khi nhân thế bon chen đổi thay đời bạc đen

Chuyện yêu đương như áng mây trời
Sớm đến tối đi mặc tình
Nếu có yêu thì xin người một lời thôi
Dù một lời dối gian ngoài đầu môi

Nếu biết thế kiếp sau thề xin làm
Làm vách lá dưới mái tranh nghèo nàn
Sớm tối gió sương đượm màu phong trần
Như không hay trước cuộc tình đổi thay.

Dưới đây mình có bài:

– THE HOUSE OF THE RISING SUN (Ngôi nhà trong ánh bình minh) – Dân ca Hoa Kỳ cải biên (trích)

Cùng với 12 clips tổng hợp nhạc phẩm “Chiều Vàng Với Mái Nhà Tranh” (“The House of the Rising Sun”, “Le Pénitencier”) do các ca sĩ nổi tiếng trên thế giới trình diễn để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Mời các bạn,

Túy Phượng

(Theo Wikipedia)

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022

THE HOUSE OF THE RISING SUN (Ngôi nhà trong ánh bình minh) – Dân ca Hoa Kỳ cải biên (trích)

(Hoài Nam)

Trong bài trước, chúng tôi đã bắt đầu viết về “Cuộc xâm lăng của Anh quốc” (British Invasion) vào nền nhạc phổ thông ở Hoa Kỳ, và giới thiệu ca khúc điển hình thứ nhất trong “cuộc xâm lăng” ấy về sau đã được đặt lời Việt: A World Without Love (Thương nhớ trong mưa). Kỳ này, chúng tôi xin tiếp tục với bản The House of the Rising Sun, được nhạc sĩ Lê Xuân Trường đặt lời Việt với tựa Căn nhà trong ánh bình minh.

Điều thú vị nhất là The House of the Rising Sun, một trong những ca khúc đầu tiên, và nổi tiếng nhất trong “Cuộc xâm lăng của Anh quốc” lại có xuất từ Hoa Kỳ; đó là một bản dân ca theo thể loại nhạc “blues” được cải biên thành một bản “blues rock” bất hủ.

The House of the Rising Sun do ban nhạc The Animals của Anh quốc thu đĩa tháng 5, 1964, tới tháng 7, lên No.1 trên bảng xếp hạng của Anh, tháng 9, lên No.1 tại Hoa Kỳ. Ca khúc này cũng đứng No.1 tại Gia-nã-đại, Thụy-điển và Phần-lan.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022

Trước ban The Animals – tên gọi đầy đủ là “Eric Burdon and The Animals” – đã có một số ca sĩ tên tuổi của Mỹ thu đĩa bản The House of the Rising Sun, chẳng hạn Joan Baez vào năm 1961, Bob Dylan vào năm 1962, và sau The Animals, con số ấy lên tới hàng trăm, nhưng trong nền nhạc phổ thông, một khi nhắc bản The House of the Rising Sun, trước hết và trên hết, phải nói tới The Animals.

Trong “Cuộc xâm lăng của Anh quốc” vào nền nhạc phổ thông ở Hoa Kỳ, The House of the Rising Sun được xem là ca khúc đầu tiên không dính dáng gì tới ban The Beatles (nhắc lại, bản A World Without Love do Peter and Gordon thu đĩa chúng tôi giới thiệu trong bài kỳ trước cũng là một sáng tác của Paul McCartney, một thành viên trong ban The Beatles); và với người yêu nhạc rock trên thế giới nói chung, The House of the Rising Sun là một trong những bản gây ấn tượng mạnh nhất, được ưa chuộng nhất trong những năm cực thịnh của nền nhạc rock.

Hiện nay, The House of the Rising Sun đang được xếp hạng 122 trong danh sách 500 ca khúc hay nhất của mọi thời đại (500 Greatest Songs of All Times) do tạp chí ca nhạc Rolling Stone thiết lập; nằm trong danh sách “500 ca khúc đã định hướng cho nền nhạc rock”; và đứng hạng 240 trong danh sách “500 ca khúc của thế kỷ 20” do RIAA (Hiệp hội các Nhà sản xuất đĩa nhạc tại Hoa Kỳ) bình chọn.

Tại giải âm nhạc Grammy năm 1999, The House of the Rising Sun đã được đưa vào Danh Dự sảnh Rock and Roll (Rock and Roll Hall of Fame), và trong cuộc lấy ý kiến khán giả Anh quốc của đài truyền hình Channel Five vào năm 2005, The House of the Rising Sun đã được đứng hạng tư trong danh sách tất cả những ca khúc đứng No.1 từ trước tới nay.

The House of the Rising Sun do The Animals thu đĩa cũng là một trong những ca khúc hiện đại được sử dụng làm nhạc nền cho phim ảnh nhiều nhất; chỉ trong khoảng hai thập niên qua đã có những cuốn phim nổi tiếng như Casino (1995), The Waterboy (1998), Remember the Titans (2000), 15 Minutes (2001), Confidence (2003), The Best of Youth (2003), và vô số show truyền hình.

* * *

The House of the Rising Sun nguyên là một bản dân ca Mỹ kể về kiếp sống khốn cùng của một cô gái ở thành phố New Orleans, tiểu bang Louisiana, Hoa Kỳ.

Trước khi được nhạc sĩ Alan Price, trưởng ban nhạc The Animals, cải biên thành một bản rock hiện đại, The House of the Rising Sun đã được xem là bản dân ca vùng núi Appalachian (Appalachian folk) có nhiều giai thoại và huyền thoại nhất. Như chúng tôi đã viết trong một bài trước đây, vùng núi Appalachian Mountains, gồm các tiểu bang Kentucky, Tennessee, Virginia, Maryland, West Virginia, North Carolina, và một phần của các tiểu bang Georgia, South Carolina, Pennsylvania, và Ohio, nơi mà thành phần dân cư đa số là di dân gốc Anh, Ái-nhĩ-lan, Tô-cách-lan, được xem là cái nôi của nền dân ca Hoa Kỳ, thường được gọi là Appalachian folk.

Tương tự đa số bản dân ca khác, không ai được biết tác giả của The House of the Rising Sun, và kể cả nguồn gốc của nó cũng rất mù mờ. Một số giả thuyết cho rằng The House of the Rising Sun nguyên là một bản dân ca của Anh hoặc Ái-nhĩ-lan, được di dân mang theo sang vùng đất mới, lấy địa danh mới cho phù hợp: câu đầu trong bài hát nguyên thủy “There is a house in Lowestoft…” đã trở thành “There is a house in New Orleans…”

[Lowestoft là một thị trấn nghèo ở bờ biển phía đông Anh quốc]

Riêng nhạc sĩ Alan Price của ban The Animals, thì khẳng định nguyên gốc của The House of the Rising Sun là một bản dân ca Anh có từ thế kỷ thứ 16 nói về một “thanh lâu” ở Soho.

[Soho là một khu vực “xôi đậu” truyền thống ở phía tây thủ đô Luân-đôn, nổi tiếng với cuộc sống về đêm, lành mạnh (các rạp chiếu bóng) cũng như không lành mạnh (sex shops)]

Thực hư ra sao, không ai có câu trả lời; chỉ biết một điều chắc chắn: tại Hoa Kỳ, những đĩa thu âm bản The House of the Rising Sun đầu tiên đều là của các nghệ sĩ vùng núi Appalachian Mountains, những người có nguồn gốc di dân Anh, Ái-nhĩ-lan, hoặc Tô-cách-lan.

Đĩa đầu tiên là của ca nhạc sĩ Clarence “Tom” Ashley (1895-1967) và nhạc sĩ khẩu cầm (harmonica) Gweb Foster (1903-1954), được thu âm năm 1934. Clarence “Tom” Ashley cho biết ông học được bài dân ca này từ ông nội của mình, Enoch Ashley.

Ba năm sau, ca khúc này đã được nhà sưu tầm dân ca Alan Lomax thu âm với tiếng hát của một cô bé 16 tuổi.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022
Alan Lomax (1915-2002).

Alan Lomax (1915-2002), cùng với cha ông, là nhân viên quản thủ Thư khố Ca khúc Dân ca Mỹ (Archive of American Folk Song) tại Thư viện Quốc hội (Library of Congress). Trong một chuyến du hành cùng vợ tới miền đông tiểu bang Kentucky để khám phá, tìm hiểu dân ca, Alan Lomax đã thiết trí các dụng cụ ghi âm tại nhà một ca sĩ địa phương kiêm nhà phục hưng dân ca ở thị trấn Middlesboro. Chính tại phòng thu âm “dã chiến” này, vào năm 1937, Alan Lomax đã thu được bản The House of the Rising Sun do Georgia Turner, cô con gái 16 tuổi của một phu mỏ địa phương hát, mà ông đặt tựa là The Rising Sun Blues.

Sau đó, Alan Lomax thu âm thêm hai phiên bản khác do hai ca sĩ dân ca địa phương Bert Martin và Daw Henson hát. Năm 1941, lời hát của bản The Rising Sun Blues được Alan Lomax phổ biến lần đầu tiên trong tập nhạc Our Singing Country, mà ông cho biết là ghi lại lời hát của Georgia Turner. Trong một bài viết sau này, Alan Lomax đã nhận xét giai điệu của The Rising Sun Blues có những nét tương đồng với ca khúc dân gian truyền thống “Matty Groves” của Anh quốc.

The Rising Sun Blues (Geogia Turner)

There is a house in New Orleans they call the Rising Sun.
It’s been the ruin of many a poor girl and me, O God, for one.
If I had listened what Mama said, I’d be at home today.
Being so young and foolish, poor boy, let a rambler lead me astray.
Go tell my baby sister never do like I have done
To shun that house in New Orleans they call the Rising Sun.
My mother she’s a tailor, she sewed these new blue jeans.
My sweetheart, he’s a drunkard, Lord, Lord, drinks down in New Orleans.
The only thing a drunkard needs is a suitcase and a trunk.
The only time he’s satisfied is when he’s on a drunk.
Fills his glasses to the brim, passes them around.
Only pleasure he gets out of life is hoboin’ from town to town.
One foot is on the platform and the other one on the train.
I’m going back to New Orleans to wear that ball and chain.
Going back to New Orleans, my race is almost run.
Going back to spend the rest of my days beneath that Rising Sun.

Từ năm 1941 tới đầu thập niên 1960, đã có hàng chục ca sĩ dân ca thu đĩa bản The Rising Sun Blues, tức The House of the Rising Sun theo lời hát của Geogia Turner. Vì nội dung ca khúc là lời tự thuật của một cô gái, cho nên những đĩa thành công nhất cũng là của các nữ ca sĩ chuyên hát dân ca, trong số đó có Joan Baez, hát trong album đầu tay của cô vào năm 1960, do chính cô soạn hòa âm và đàn guitar.

Tới đây, chúng tôi xin điểm qua một vài giai thoại, huyền thoại về bản The House of the Rising Sun.

Trước hết, tại sao bối cảnh lại là New Orleans mà không phải một thành phố nào khác?

Hiện nay, nhắc tới New Orleans rất có thể một số người chỉ biết đây là thành phố đã hứng chịu cơn bão Katrina năm 2005, với mức độ thiệt hại được ghi nhận là khủng khiếp nhất trong lịch sử Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ, nhưng thực ra trước đó, New Orleans đã nổi tiếng quốc tế, và được xem là thành phố có sắc thái và sinh hoạt độc đáo nhất (the most unique city) ở Hoa Kỳ.

Hai nhân tố chính tạo nên những độc đáo đó là ảnh hưởng văn hóa Pháp và kiếp sống cùng khổ của người nô lệ Phi châu.

Trước hết nói về ảnh hưởng văn hóa Pháp, có thể viết: nếu không có những tình cờ của lịch sử thì Hoa Kỳ đã không có tiểu bang Louisiana, không có thành phố New Orleans, và lẽ dĩ nhiên cũng không có… ca khúc The House of the Rising Sun!

Xưa kia, “vùng đất Louisiana” (tiếng Pháp: Louisiane), trong đó có lãnh thổ tiểu bang Louisiana ngày nay, là một thuộc địa rộng lớn của Pháp, được đặt tên “Louisiane” để vinh danh Vua Louis XIV, còn thành phố New Orleans nguyên là “Nouvelle Orléans”, đặt theo tên Quận công xứ Orléans (Duke of Orleans), vị Nhiếp chính đại diện triều đình Pháp cai trị vùng Louisiane từ năm 1715 tới năm 1723.

Vùng đất bao la ấy ngày nay là lãnh thổ các tiểu bang Arkansas, Missouri, Iowa, Oklahoma, Kansas, Nebraska, phần lớn lãnh thổ các tiểu bang North Dakota, South Dakota, và một phần lãnh thổ các tiểu bang Minnesota, New Mexico, Texas, Montana, Wyoming, Colorado, cùng với phần lãnh thổ của tiểu bang Louisiana ở tây ngạn sông Mississippi, bao gồm thành phố New Orleans.

Năm 1789, xảy ra cuộc Cách mạng Pháp lật đổ vua Louis XVI, vị vua cuối cùng của dòng tộc Bourbon. Tới đầu thế kỷ thứ 18, thời ông Thomas Jefferson làm Tổng thống Hoa Kỳ, để dồn mọi nỗ lực vào việc đương đầu với Liên quân Âu châu, và cũng để đám hậu duệ và các cựu thần của hoàng tộc Bourbon không còn “căn cứ địa” để mưu dựng lại vương triều, năm 1803, Hoàng đế Nã-phá-luân đệ Nhất đã bán vùng đất Louisiane cho Hoa Kỳ với giá 15 triệu đô-la, tương đương với 263 triệu ngày nay (chưa tới 42 xu một acre).

Sau khi mua vùng đất “Louisiane”, người Mỹ đổi tên thành “Louisiana”, và thủ phủ “Nouvelle Orléans” đổi thành “New Orleans”.

Sau khi vùng Louisiana trở thành lãnh thổ của Hoa Kỳ, người da trắng ở các vùng đất khác cũng như từ Âu châu đổ xô tới lập nghiệp, khai phá, các đồn điền được mở ra, nô lệ da đen được đưa tới, New Orleans trở thành một thành phố thương mại sầm uất, và cũng là nơi tụ tập của giới nghệ sĩ, dân giang hồ ở miền Nam.

Vì thế ngày nay, bên cạnh những kiến trúc độc đáo theo kiểu “thuộc địa” của Pháp, đặc biệt là khu phố cổ French Quarter (Quartier Francais), New Orleans còn nổi tiếng với những di sản của một nền văn hóa đa nguyên (multicutural) và đa ngữ (multilingual). Di sản ấy là ẩm thực (cusine), là âm nhạc, là lễ hội quanh năm, trong đó có hội mùa xuân “Mardi Gras” kéo dài hai tuần lễ, mỗi năm thu hút hàng trăm ngàn du khách từ khắp nơi trên thế giới.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022
French Quarter (Quartier Francais), New Orleans.

Nhưng bên cạnh đó, New Orleans còn là thành phố của những kiếp sống nghèo khổ, đường phố nhớp nhúa, tội phạm tràn lan. Mới đây, vào năm 2011, New Orleans đã bị tạp chí Travel+Leisure cho đứng đầu danh sách những thành phố dơ bẩn nhất Hoa Kỳ (America’s Dirtiest City).

Về tội phạm, thống kê năm 1994 cho thấy New Orleans có tỷ lệ tội phạm tính trên đầu người cao nhất nước Mỹ, với 84 vụ sát nhân cho mỗi 100.000 dân. Tới năm 2012, tuy tỷ lệ ấy đã giảm xuống còn 53.2 vụ, New Orleans vẫn nằm trong “Top 5” ở Hoa Kỳ!

Theo Bách khoa tự điển Wikipedia, người da đen gần như “giữ độc quyền” về tội phạm ở New Orleans với 97%, trong số đó có tới 95% là nam giới.

Người da đen ở Louisiana nói chung, New Orleans nói riêng, đa phần là hậu duệ của những người nô lệ gốc Tây Phi, được đưa tới Louisiana làm phu đồn điền. Có cùng nguồn gốc, cùng một nền văn hóa, cùng một số phận, những người nô lệ này đã phối hợp các thể loại dân ca của người da trắng, cùng với những giọt nước mắt tủi nhục, những uất nghẹn trong tim thành những dòng nhạc nức nở quằn quại, mà sau này được gọi là nhạc “blues”; để rồi từ “blues” đã phát sinh ra các thể loại jazz, rhythm and blues (R&B), và rock and roll.

Riêng thành phố New Orleans đã được ghi nhận là nơi ra đời của jazz, thể loại được nhiều người liệt vào hàng “âm nhạc nghệ thuật” (art music).

The House of the Rising Sun là một bản dân ca blues (blues folk) điển hình, cho dù nhân vật trong lời hát là một cô gái da trắng, cho dù người hát không có gốc gác Phi châu, người nghe vẫn thấy được cái chất, vẫn cảm được cái hồn “African-American” trong đó.

Qua lời hát trong ca khúc nguyên thủy (do Georgia Turner hát và Alan Lomax ghi lại), chúng ta được biết đây là lời tự thuật của một cô gái dại dột bỏ nhà đi theo gã tình nhân say sưa, cờ bạc tới New Orleans, rồi trở thành một cô gái buôn hương bán phấn trong một thanh lâu có tên là “The Rising Sun”.

Cũng có một số người dựa vào mấy chữ “ball and chain” (xiềng xích tù tội” trong câu I’m going back to New Orleans to wear that ball and chain) để đi tới kết luận “The House of the Rising Sun” là một ngục thất.

Cho tới nay, và có lẽ nghìn sau, không ai có thể biết đích xác “The House of the Rising Sun” là một thanh lâu, một sòng bài, một ngục thất, hay trại cải huấn, hoặc viện phục hồi cho những cô gái điếm bị bệnh hoa liễu. Bởi tất cả chỉ là những giai thoại, huyền thoại.

Huyền thoại phổ biến nhất nói rằng “The House of the Rising Sun” là một thanh lâu, tọa lạc ở số 826-830 St. Louis Street, trong French Quarter, chủ nhân là một tú bà người Pháp tên là Marianne Le Soleil Levant. “Le Soleil Levant” là tiếng Pháp, dịch sang tiếng Anh là “The Rising Sun” cho nên chủ nhân thanh lâu (hoặc khách mua hoa) mới lấy mấy chữ này để đặt tên cho cơ sở giái trí… không lành mạnh ấy!

Năm 1997, trong cuốn Bizarre New Orleans, tác giả F. G. Fox cũng ghi lại y như thế, chỉ có địa chỉ là khác: số 1614 Esplanade Avenue – một con đường “vừa danh tiếng vừa tai tiếng”, tương tự khu nghệ sĩ Montmartre với những “người em tóc vàng sợi nhỏ” ở kinh thành ánh sáng Ba-lê.

Trong khi đó, ca nhạc sĩ dân ca Dave van Ronk (1936-2002), người đã cải biên lời hát và soạn hòa âm cho phiên bản “The House of the Rising Sun” được Bob Dylan thu đĩa, thì ủng hộ giả thuyết cho rằng “The House of the Rising Sun” là một ngục thất, bởi vì chính ông đã được xem một tấm hình xưa cũ chụp nhà tù dành cho phụ nữ ở New Orleans, trên cổng vào có huy hiệu mặt trời mọc; từ đó ông tin rằng “The House of the Rising Sun” là tiếng lóng để chỉ nhà tù.

Những người phản bác lập luận của Dave van Ronk thì cho rằng mấy chữ “ball and chain” trong lời hát không có nghĩa đen là “xiềng xích tù tội” mà mang nghĩa bóng là “khổ lụy tình ái” mà cô gái bị vương vào!

Trước những giai hoại và huyền thọai nói trên, một số nhà nghiên cứu đã cố gắng tìm hiểu tới nơi tới chốn qua những cuốn hướng dẫn (directories) và báo cũ. Kết quả, người ta được biết vào thế kỷ thứ 19, ở New Orleans có ít nhất ba cơ sở mang tên “Rising Sun”:

– Rising Sun Hotel, một khách sạn nhỏ ở Conti Street, trong French Quarter, bị thần hỏa thiêu rụi năm 1822. Năm 2005, khi khai quật di tích, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một số lượng chai lọ, hộp đựng son phấn, nước hoa nhiều quá mức bình thường; đồng thời trên báo cũ có một mục quảng báo bóng gió cho biết nơi đây có các nàng Kiều thời đại.

– Rising Sun Hall, vào cuối thế kỷ thứ 19 ở một khu vực nay là Cherokee Street, thường được cho mướn để tổ chức các party, dạ vũ, và có các sinh hoạt cờ bạc, đĩ điếm.

– The Rising Sun Coffee House, ở một vị trí nay là Decatur Street, có lúc được quảng cáo trên báo là “Restaurant”, có khi lại là “Lager Beer Salon”. Cũng nên biết tại New Orleans, các cơ kinh doanh được gọi là “coffee houses” trên thực tế cũng bán rượu, và lẽ dĩ nhiên cũng có thể trở thành địa điểm “đón khách” của các cô gái mại dâm.

Tuy nhiên, kết quả tìm hiểu của các nhà nghiên cứu cũng không đủ để đi tới kết luận “The House of the Rising Sun” được nhắc tới trong bản dân ca nổi tiếng có phải là một trong ba cơ sở thương mại có tên “Rising Sun” nói trên hay không?!

* * *

Cuối năm 1961, ca khúc The House of the Rising Sun với lời hát đã sửa đổi đôi chút được Bob Dylan thu đĩa và phổ biến vào tháng 3 năm 1962 trong album đầu tay của chàng, trong đó chỉ ghi đây là một ca khúc truyền thống (traditional), chứ không ghi tác giả hòa âm (arrangement); việc này được hiểu ngầm là chính Bob Dylan đã tự soạn hòa âm cho đĩa hát của mình. Tuy nhiên sau này, trong cuốn phim tài liệu No Direction Home (2005) nói về sự nghiệp của Bob Dylan, người ta đã dẫn lại lời ca nhạc sĩ dân ca Dave van Ronk, theo đó, lời hát và hòa âm trong bản The House of the Rising Sun do Bob Dylan thu đĩa là của chính ông.

Một cách chi tiết, Dave van Ronk cho biết ông đã nghe được ca khúc này từ đĩa hát của nữ ca sĩ dân ca Hally Wood (1922-1989) ở Texas, hát theo lời hát và giai điệu nguyên thủy trong đĩa của Georgia Turner. Sau đó, Dave van Ronk mới thêm vào chút chất “jazz” và sửa đổi lời hát cho phù hợp.

Cũng theo lời Dave van Ronk, tới đầu thập niên 1960, phiên bản The House of the Rising Sun của ông đã trở nên rất phổ biến trong giới ca sĩ dân ca.

[Sở dĩ chúng tôi hơi chi tiết về vụ “copy” này là vì về sau, khi bản The House of the Rising Sun do The Animals thu đĩa làm mưa gió trên khắp thế giới, đã nổ ra một cuộc tranh luận khá gay gắt về việc “ai đạo nhạc của ai?”]

Lời hát trong bản The House of the Rising Sun do Bob Dylan thu đĩa, so với lời hát trong The Rising Sun Blues của Georgia Turner tuy có nhiều đoạn khác nhau nhưng ý nghĩa ca khúc không thay đổi, và nhân vật chính vẫn là một cô gái.

The House of the Rising Sun (Bob Dylan)

There is a house down in New Orleans
They call the Risin’ Sun
And it’s been the ruin of many a poor girl
And me, oh god, Im a-one
My mother was a tailor
She sewed these new blue jeans
My sweetheart was a gambler, lord
Down in New Orleans
Now the only thing a gambler needs
Is a suitcase and a trunk
And the only time he’s satisfied
Is when he’s on a drunk

He fills his glasses up to the brim
And hell pass the cards around
And the only pleasure he gets out of life
Is ramblin from town to town
Oh tell my baby sister
Not to do what I have done
But shun that house in New Orleans
They call the Risin’ Sun
Well, it’s one foot on the platform
And the other foot on the train
Im goin back to New Orleans
To wear that ball and chain
Im a-goin back to New Orleans
My race is almost run
Im goin back to end my life
Down in the Risin’ Sun
There is a house in New Orleans
They call the Risin’ Sun
Its been the ruin of many poor girl
And me, oh god, Im a-one

Trong số những nghệ sĩ nổi tiếng của Mỹ thu đĩa bản The House of the Rising Sun (theo phiên bản của Bob Dylan) phải kể tới Nina Simone (1933-2003), một nữ ca sĩ nhạc jazz, nhà viết ca khúc, nhạc sĩ dương cầm Mỹ gốc Phi châu nổi tiếng bậc nhất, và cũng là một nhà hoạt động nhân quyền không biết mệt mỏi. Bản The House of the Rising Sun, cũng như nhiều ca khúc nổi tiếng khác của Nina Simone, đã được thu “live” trong các buổi trình diễn của bà tại phòng trà ca nhạc Village Gate ở khu nghệ sĩ Greenwich Village, New York.

Nhưng phải đợi tới khi xảy ra “Cuộc xâm lăng của Anh quốc”, bản The House of the Rising Sun mới đạt tới đỉnh cao của nó, qua tài nghệ của ban nhạc Anh The Animals, một ban nhạc chuyên trình diễn các ca khúc “blues rock”, “folk rock”, R&B (rhythm and blues).

The Animals – một cách đầy đủ là Eric Burdon and The Animals – nguyên là ban nhạc “Alan Price Combo” được nhạc sĩ (đàn organ) Alan Price thành lập năm 1958 tại Newscastle, thành phố của kỹ nghệ than đá ở đông bắc nước Anh. Tới đầu thập niên 1960, “Alan Price Combo” được đổi tên thành “The Animals”.

Đầu năm 1964, The Animals lên thủ đô Luân-đôn lập nghiệp, và chỉ mấy tháng sau đã nổi tiếng khắp thế giới với đĩa hát The House of the Rising Sun.

Nguyên vào tháng 5 năm ấy, The Animals đi lưu diễn chung với ca nhạc sĩ Mỹ Chuck Berry. Thay vì kết thúc chương trình với một ca khúc quen thuộc nào đó, họ muốn có một cái gì mới lạ, và Eric Burdon chợt nhớ tới một bản dân ca chàng đã được nghe nam ca sĩ Anh Johnny Handle trình diễn tại một câu lạc bộ ở Newscastle trước đây, đó chính là The House of the Rising Sun. Alan Price liền soạn hòa âm cho ca khúc và sửa lại lời hát, nhân vật chính là cô gái có gã tình nhân rượu chè cờ bạc nay trở thành một thanh niên có người cha say sưa và mê đen đỏ.

The House of the Rising Sun (The Animals)

There is a house in New Orleans they call the Rising Sun
And it’s been the ruin of many a poor boy and God, I know I’m one.

My mother was a tailor, sewed my new blue jeans,
My father was a gambling man down in New Orleans.
Now the only thing a gambler needs is a suitcase and a trunk
And the only time he’s satisfied is when he’s on a drunk.

Oh mothers tell your children not to do what I have done,
Spend your life in sin and misery in the House of the Rising Sun.
Well, I’ve got one foot on the platform, the other foot on the train
And I’m going back to New Orleans to wear that ball and chain.
Well, there is a house in New Orleans they call the Rising Sun
And it’s been the ruin of many a poor boy and God, I know I’m one.

* * *

The House of the Rising Sun do The Animals trình bày trên sân khấu đã được khán giả đón nhận một cách nồng nhiệt, có thể nói là tới mức điên cuồng. Trước sự kiện này, nhà sản xuất đĩa nhạc Mickie Most, một đại diện của hãng đĩa Columbia Records, đã lợi dụng lúc The Animals nghỉ xả hơi giữa các buổi trình diễn, cấp tốc đưa họ về một phòng thu âm ở Luân-đôn, và chỉ thu một lần duy nhất (one take).

Hôm đó là ngày 18 tháng 5 năm 1964, ngày mà theo nhà phê bình âm nhạc nổi tiếng Dave Marsh của Mỹ, “ca khúc đầu tiên của thể loại folk-rock ra đời”, ca khúc mà ký giả Ralph McLean của đài BBC gọi là “ca khúc cách mạng, đã thay đổi vĩnh viễn bộ mặt của ca nhạc hiện đại”.

Viết tới đây, chúng tôi bỗng hồi tưởng cảm giác “rúng động” trong lần đầu tiên được nghe The House of the Rising Sun do The Animals trình bày, và tin rằng đó cũng là cảm giác của đại đa số “baby boomers” ngày ấy.

Mở đầu (intro) bằng tiếng đàn guitar điện của Hilton Valentine “rải” bộ hợp âm La thứ (A minor chord arpeggio) theo thứ tự Am, C, D, F, Am, E7, Am. Vẫn biết bất cứ ai có chút căn bản hòa âm cũng đều thuộc lòng bộ hợp âm nói trên, nhưng sao tiếng đàn của Hilton Valentine lại có sức thu hút mãnh liệt đến như thế?!

[Hilton Valentine chỉ “chế” một chút xíu là thay vì Dm (Ré thứ), anh đã chơi D (Ré trưởng)]

Rồi tới giọng hát của Eric Burdon, một giọng hát rất có hồn, khàn khàn, sâu thẳm, gào thét…, như thể nó vang vọng từ thành phổ mỏ Newcastle, nơi xuất thân của chàng.

Tới giữa bản là tiếng đàn organ điện vừa lả lướt vừa dồn dập vừa ma quái của Alan Price.

Có thể viết, cả ba yếu tố nói trên đều là những thứ “đầu tiên” trong nền nhạc rock hiện đại, và đóng vai trò quan trọng ngang nhau trong thành công của bản The House of the Rising Sun do The Animals thu đĩa.

The House of the Rising Sun của The Animals không chỉ làm mưa gió trên các bảng xếp hạng mà còn gây sóng gió trong kỹ nghệ ca nhạc với những cáo buộc “đạo nhạc”.

Trước hết, vì lời hát và giai điệu trong đĩa hát của The Animals rất giống đĩa của Bob Dylan, trong khi trên nhãn đĩa lại chỉ ghi “Ca khúc truyền thống (traditional), hòa âm: Alan Price”, The Animals đã bị nhiều người, nhất là những người ái mộ Bob Dylan, lên án là đạo nhạc của Bob Dylan.

Nhưng sau đó Dave van Ronk đã lên tiếng, ông nói rằng xét tới nơi tới chốn, nếu buộc The Animals vào tội “đạo nhạc” thì họ đã không đạo nhạc của Bob Dylan, bởi chính ông mới là người đã cải biên lời hát và soạn hòa âm cho phiên bản The House of the Rising Sun mà Bob Dylan thu đĩa. Nói cách khác, nếu quả thật The Animals “đạo nhạc” thì họ đã “đạo nhạc của một người đạo nhạc”! (Sở dĩ trước kia Dave van Ronk không lên tiếng là vì The House of the Rising Sun do Bob Dylan thu đĩa không được xem là một thành công đáng kể).

Từ đó, Bob Dylan không bao giờ trình diễn ca khúc này nữa, trong khi ban The Animals thì vẫn tiếp tục, bởi vì Eric Burdon khẳng định anh chưa bao giờ nghe đĩa hát của Bob Dylan, đồng thời, như đã viết ở một đoạn trên, Alan Price (trưởng ban kiêm nhạc sĩ organ) luôn tin rằng nguyên gốc của The House of the Rising Sun là một bản dân ca Anh có từ thế kỷ thứ 16 nói về một “thanh lâu” ở Soho, sau này được di dân mang theo sang Tân thế giới!

Cho tới nay, các tác giả khi viết về ca khúc The House of the Rising Sun vẫn chưa đi tới một sự đồng thuận về việc trên các bản in, trên đĩa hát, sau chữ “traditional”, phải ghi tên ai, hoặc những ai. Nhưng có một điều ai cũng phải đồng ý: The House of the Rising Sun do The Animals thu đĩa là “ca khúc đầu tiên của thể loại folk-rock”, là “ca khúc cách mạng, đã thay đổi vĩnh viễn bộ mặt của ca nhạc hiện đại”, như nhà phê bình âm nhạc Dave Marsh của Mỹ, và ký giả Ralph McLean của đài BBC đã xưng tụng.

Chính Bob Dylan đã kể lại rằng lần đầu tiên được nghe The House of the Rising Sun của The Animals qua radio trên xe, anh đã “nhảy nhổm khỏi ghế vì thích bản này quá chừng!”

Một số nhà phê bình âm nhạc còn đi xa hơn khi cho rằng, với The House of the Rising Sun và những ca khúc thu đĩa sau đó như Don’t Let Me Be Misunderstood, We Gotta Get Out of This Place, It’s My Life, See See Rider…, The Animals còn được xem là một trong hai ban nhạc tiên phong của thể loại “hard rock”. Ban kia là The Rolling Stones, cũng của Anh quốc.

Theo các tài liệu tham khảo, chỉ tính lời hát bằng tiếng Anh, sau The Animals, đã có hàng trăm ca sĩ, ban nhạc thu đĩa House of the Rising Sun.

[Một điều đáng lưu ý là trong số nói trên không có một ca sĩ hay ban nhạc nào của Anh quốc cùng thời với The Animals; rất có thể vì họ không muốn “cạnh tranh” với “đồng hương”, cũng có thể vì họ sợ mình hát không “đạt” cho bằng. Riêng đĩa single The House of the Rising Sun của The Animals, khi được tái phát hành vào các năm 1972 và 1982, đã lên tới hạng 25 và 11]

Năm 1970, ban Frijid Pink, một ban nhạc rock của Mỹ ở vùng Detroit đã vụt nổi tiếng với đĩa The House of the Rising Sun trình bày dưới hình thức “psychedelic rock”. Bản này lên tới hạng 7 trong danh sách Billboard Hot 100, đứng No.1 tại Đức và ở trong Top 10 của hầu hết các quốc gia Tây Âu.

[“Psychedelic” từ chữ “Psychedelia”, là một hiện tượng văn hóa bắt đầu vào cuối thập niên 1960, trong đó các loại “drug” được sử dụng để tạo ảo giác trong việc thưởng thức. Hai lĩnh vực phổ biến nhất của Psychedelia là tranh ảnh (psychedelic artwork) và âm nhạc (psychedelic music). Mặc dù các ca sĩ, ban nhạc “psychedelic rock” không nhất thiết phải là người sử dụng “drug” như khán thính giả của họ, hai tên tuổi lớn nhất của “psychedelic rock” của Mỹ là Jimi Hendrix (1942-1970) và Janis Joplin (1943-1970) đều chết vì overdosed. Tới cuối thập niên 1970, cùng với phong trào hippy, “psychedelic rock” đã tàn lụi]

Tới cuối năm 1981, Dolly Parton, nữ ca nhạc sĩ nhạc country thời danh kiêm diễn viên hài kịch của Mỹ, thu đĩa bản The House of the Rising Sun lời hát của Dave van Ronk đã được Dolly sửa lại ở một vài đoạn, và phát hành trong album “9 to 5 and Odd Jobs” (“9 to 5” cũng là tựa cuốn phim hài kịch nổi tiếng phát hành vào đầu năm 1981, nói về ba cô thư ký văn phòng trả thù các “big boss”, do Dolly Parton, Jane Fonda và Lily Tomlin thủ vai chính.

Mặc dù chỉ lên tới hạng 14 trong bảng xếp hạng nhạc country, The House of the Rising Sun cũng đã trở thành một trong những ca khúc cầu chứng của Dolly Parton.

The House Of The Rising Sun (Dolly Parton)

There is a house in New Orleans
Down in the Vieux Carr’e
A house they call the “Rising Sun”
Where love and money are made
My father, he was a gambler
Mama died when I was young
And I’ve worked since then to pleasure the men
At the house of the Rising Sun
There is a house in New Orleans
They call the “Rising Sun”
It’s been the ruin of many a good girl
And, oh God, you know I’m one
So mothers, you go tellin’ all your daughters
Not to do what I have done
To live a life of sin, shame, and strife
In the “House of the Rising Sun”
There is a house in New Orleans
They call the “Rising Sun”
It’s been the ruin of many a good girl
And, oh God, you know I’m one
Oh God, you know I’m one
Oh God, you know I’m one

Gần đây nhất, Shotgun Sunday, một ban “blues rock” ở thành phố Manchester, Anh quốc, đã một sớm một chiều nổi tiếng quốc tế và làm mưa gió trên YouTube với bản The House of the Rising Sun do họ trình bày với một phong cách mới lạ.

Cuối cùng, nói về các ca sĩ từng trình bày bản The House of the Rising Sun lời Anh, không thể không nhắc tới cô bé Anna Christine 10 tuổi ở tiểu bang Nevada, tham dự cuộc tuyển lựa tài năng America’s Got Talent (8) năm 2013. Mặc dù sau đó cô bé chỉ vào tới vòng tứ kết, ngay trong lần xuất hiện đầu tiên của Anna, không chỉ có ban giám khảo, khán giả hiện diện tại hội trường, mà còn hàng chục triệu người khác theo dõi qua màn ảnh truyền hình đã phải “rúng động” khi xem và nghe cô bé vừa đàn piano vừa hát bản The House of the Rising Sun. Thậm chí một người thuộc thế hệ “baby boomers” đã phải thú nhận: từ ngày nghe ban The Animals hát tới nay, chưa có ai trình bày The House of the Rising Sun khiến ông thích thú cho bằng Anna Christine!

Hiện nay trên YouTube, Anna Christine cũng là một trong những “ca sĩ” hát bản The House of the Rising Sun được xem nhiều nhất.

Tới đây, nói về các phiên bản The House of the Rising Sun tiếng ngoại quốc. Với thính giả Việt Nam thuộc thế hệ “baby boomers”, dĩ nhiên bản lời Pháp “Le Pénitencier” do Johnny Halliday hát là bản phổ biến nhất.

100 bài hát hàng đầu năm 1964 năm 2022

Vào năm 1964, ngay sau khi đĩa The House of the Rising Sun của The Animals làm mưa gió, ca khúc này đã được hai tác giả Vline Buggy và Hugues Aufray đặt lời Pháp với tựa “Le Pénitencier” (Nhà tù khổ sai), cũng có khi được ghi là “Les Portes du Pénitencier” (Cánh cửa nhà tù khổ sai). Trong phiên bản này, “The House of the Rising Sun” được khẳng định là một nhà tù (Những cánh cửa nhà tù sắp khép lại, và cuộc đời của tôi sẽ tàn nơi đây, nơi bao gã con trai khác đã tàn đời). Và trong những giây phút cuối cùng trước khi cánh cửa nhà tù khép lại, người con trai ấy đã bày tỏ sự ân hận về những khổ đau, những giọt nước mắt mà mình đã mang lại cho mẹ, cho người yêu…

Le Pénitencier

Les portes du pénitencier
Bientôt vont se refermer
Et c’est là que je finirai ma vie
Comme d’autres gars l’ont finie.
Pour moi ma mère m’a donné
Sa robe de mariée
Peux-tu jamais me pardonner
Je t’ai trop fait pleurer.
Le soleil n’est pas fait pour nous
C’est la nuit qu’on peut tricher
Toi qui ce soir as tout perdu
Demain, tu peux gagner.
Ô mères, écoutez-moi
Ne laissez jamais vos garçons
Seuls la nuit traîner dans les rues
Ils iront tout droit en prison
Toi la fille qui m’as aimé
Je t’ai trop fait pleurer
Les larmes de honte que tu as versées
Il faut les oublier.
Les portes du pénitencier
Bien tôt vont se refermer
Et c’est là que je finirai ma vie
Comme d’autres gars l’ont finie.

Về phiên bản lời Việt, theo chúng tôi được biết, có ít nhất ba bản. Bản thứ nhất do nhạc sĩ Khánh Băng đặt lời trước năm 1975 với tựa “Chiều vàng với mái nhà tranh”. Chỉ cần đọc tựa đề, chúng ta cũng có thể đoán trước nội dung lời hát không dính dáng gì tới nội dung của nguyên bản. Và chúng tôi cũng không được biết trước và sau năm 1975, đã có ca sĩ hay ban nhạc nào thu băng, thu đĩa bản “Chiều vàng với mái nhà tranh” hay chưa.

Phiên bản thứ hai của tác giả Anh Tuấn, chúng tôi tìm thấy trên Internet, không ghi tựa tiếng Việt. Nội dung phiên bản này khá sát nghĩa với lời hát trong nguyên bản, tuy nhiên về mặt nhạc ngữ, có những chỗ không được chỉnh cho lắm, nghĩa là chỉ đọc thì không sao nhưng hát lên nghe không thuận tai, vì các dấu (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng) không tương ứng với nốt nhạc. Chúng tôi cũng không được biết đã có ca sĩ hay ban nhạc nào thu âm phiên bản này.

Phiên bản lời Việt thứ ba là của nhạc sĩ Lê Xuân Trường, một tên tuổi quen thuộc trong làng nhạc trẻ Việt Nam hải ngoại, được anh đặt tựa “Căn Nhà Trong Ánh Bình Minh”.

(Hoài Nam)

oOOo

The House of the Rising Sun – Ban “The Animals”:

The House of the Rising Sun – Ban “The Doors”:

The House of the Rising Sun – Ca sĩ Joan Baez:

The House of the Rising Sun – Bé Anna Christine:

The House of the Rising Sun – Ca sĩ Tracy Chapman:

The House of the Rising Sun – Ca sĩ Dolly Parton:

The House of the Rising Sun – Ca sĩ Lia Knudsen:

The House of the Rising Sun – RAZA ANDINA (song tấu fan flute)

The House of the Rising Sun – Jo A Ram (Hòa tấu):

The House of the Rising Sun – Ban “The Ventures” (Hòa tấu):

Le Pénitencier – Ca sĩ Johnny Hallyday:

Chiều Vàng Với Mái Nhà Tranh – Ca sĩ Ngọc Minh: